997_1644638444_901620730ecd4447.docx CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc … … … …., ngày … tháng …. năm … .. HỢP ĐỒNG...
Tăng vốn điều lệ ngân hàng: Cần nhưng chưa đủ
Việc NHNN yêu cầu các ngân hàng tăng vốn tối thiểu lên 3.000 tỉ đồng có thể coi là một vế của kế hoạch tăng hệ số an toàn vốn cho toàn hệ thống, nhưng chỉ yêu cầu tăng vốn điều lệ tối thiểu là không đủ và có thể còn làm tăng rủi ro. Thứ nhất, nếu ngân hàng tăng vốn điều lệ đồng thời tăng tổng tài sản thì hệ số an toàn vốn có thể không tăng. Đây là khả năng rất dễ xảy ra vì một ngân hàng khi đi huy động vốn điều lệ họ không thể nói tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) của ngân hàng này sẽ giảm, như thế không ai bỏ tiền mua cổ phiếu của ngân hàng đó. Để ROE không giảm trong khi hệ số an toàn vốn tăng, ngân hàng buộc phải tăng tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA), một điều không dễ trong hoàn cảnh hoạt động ngân hàng ở Việt Nam còn rất khó khăn như hiện nay.
Bạn đang đọc: Tăng vốn điều lệ ngân hàng: Cần nhưng chưa đủ
Liệu có ai tin một ngân hàng không mấy tên tuổi có ROA cao hơn hẳn mặt phẳng chung của toàn mạng lưới hệ thống ? trái lại, để lôi cuốn nhà đầu tư trong khi hàng loạt ngân hàng đang phải cạnh tranh đối đầu nhau kêu gọi vốn, những ngân hàng nhỏ sẽ phải quảng cáo ROE cao, cổ tức cao, bằng cách âm thầm giảm bớt thông số bảo đảm an toàn vốn ( tăng đòn kích bẩy – leverage ). Nghĩa là cuộc chạy đua tăng vốn điều lệ sẽ làm mạng lưới hệ thống ngân hàng rủi ro đáng tiếc hơn .
Thứ hai, vấn đề phân loại nợ xấu và trích lập dự phòng cho các khoản nợ xấu đó của các ngân hàng vẫn còn khoảng cách so với chuẩn mực quốc tế. Cứ giả sử NHNN thành công trong việc tăng hệ số an toàn vốn của toàn hệ thống, nhưng nếu nợ xấu vẫn được giấu kỹ ở đâu đó thì hệ số an toàn vốn mà các ngân hàng báo cáo chỉ là số ảo, con số thực sẽ thấp hơn nhiều và rủi ro tiềm ẩn cao hơn nhiều. Tạm thời bỏ qua các khoản nợ xấu trong lịch sử, việc yêu cầu tăng vốn điều lệ sẽ buộc các ngân hàng phải chạy đua tăng ROE/ROA như đề cập ở trên để cạnh tranh thu hút vốn. Trường hợp này rủi ro nợ xấu sẽ tăng lên, do vậy không giải quyết được vấn đề phân loại và theo dõi nợ xấu. Yêu cầu tăng vốn điều lệ (để tăng hệ số an toàn vốn) do đó không giải quyết được bài toán an toàn cho hệ thống. Hệ số an toàn vốn (vốn tự có/tổng tài sản có rủi ro, capital adequacy ratio – CAR) là một chỉ tiêu quan trọng phản ánh năng lực tài chính của các ngân hàng. Chỉ tiêu này được dùng để xác định khả năng của ngân hàng trong việc thanh toán các khoản nợ có thời hạn và đối mặt với các rủi ro khác như rủi ro tín dụng, rủi ro vận hành.
Thứ ba, khi những ngân hàng không phân phối đủ điều kiện kèm theo về vốn điều lệ, thì buộc phải sáp nhập. Về mặt số học, đây là giải pháp sai lầm đáng tiếc vì hai ngân hàng có thông số bảo đảm an toàn vốn thấp sau khi sáp nhập thông số này không hề tăng dù vốn điều lệ tăng. Kể cả nếu bỏ lỡ thông số bảo đảm an toàn vốn, liệu rủi ro đáng tiếc mạng lưới hệ thống có giảm đi khi những ngân hàng nhỏ sáp nhập lại với nhau không ? NHNN lập luận rằng với số ngân hàng ít đi họ sẽ giám sát ngặt nghèo hơn và bản thân những ngân hàng sẽ cẩn trọng hơn / quản lý tốt hơn là những ngân hàng nhỏ manh mún lúc bấy giờ. Trước hết cần xác lập, ngân hàng càng lớn thì hoạt động giải trí và loại sản phẩm càng phức tạp, NHNN sẽ càng khó giám sát và kiểm tra để phòng ngừa / ngăn ngừa rủi ro đáng tiếc. Ngoài yếu tố quá lớn để thất bại ( too-big-to-fail ), nhiều nhà kinh tế tài chính như Krugman, Johnson đã cảnh báo nhắc nhở hiện tượng kỳ lạ “ quá lớn để quản trị ” ( too-big-to-regulate ). Nghĩa là ngân hàng lớn sẽ có nhiều cách để “ lách luật ”, hoặc tệ hơn nữa là tìm cách tác động ảnh hưởng tới quy trình làm luật / chủ trương để có lợi cho mình .
Lập luận cho rằng các ngân hàng nhỏ hiện nay thiếu chuyên môn và hoạt động quá liều lĩnh theo tôi có một phần chính xác. Tuy nhiên giải pháp sáp nhập các ngân hàng nhỏ và/hoặc buộc tăng vốn điều lệ không giải quyết được nguyên nhân căn bản. Chuyên môn và nghiệp vụ ngân hàng không phải là điều quá khó để các ngân hàng nhỏ không thể học được (với sự giúp đỡ của NHNN). Việc điều hành những ngân hàng nhỏ có 1 – 2 chi nhánh đơn giản hơn nhiều so với một ngân hàng lớn có chi nhánh toàn quốc và cả ở nước ngoài. Việc tăng chuyên môn phụ thuộc vào sự đào tạo, giúp đỡ, giám sát của NHNN nhiều hơn là vào việc sáp nhập. Các ngân hàng nhỏ sau khi sáp nhập với nhau không có nghĩa đội ngũ nhân viên và lãnh đạo tự nhiên có trình độ chuyên môn tăng lên.
Điểm sau cuối và không kém phần quan trọng, cần phải xác lập đâu là nguyên do chính khiến những ngân hàng nhỏ hoạt động giải trí quá rủi ro đáng tiếc ( ví dụ chạy đua lãi suất vay hay vay thời gian ngắn trên thị trường liên ngân hàng để cho vay dài hạn ). Đó không phải là vì họ nhỏ và thiếu trình độ mà là hậu quả tất yếu của việc những ngân hàng quốc doanh và một vài ngân hàng lớn được hưởng nhiều khuyễn mãi thêm ( vô tình hay cố ý ) nên những ngân hàng nhỏ không còn cách nào khác là phải liều lĩnh hơn để đạt được ROE như đã hứa với những cổ đông .Thông tư phát hành ngày 10.5 của ngân hàng Nhà nước ( NHNN ) pháp luật, chậm nhất là ngày 30.6.2010, những tổ chức triển khai tín dụng thanh toán phải trình NHNN hồ sơ ý kiến đề nghị chấp thuận đồng ý tăng vốn để bảo vệ mức vốn pháp định tối thiểu là 3.000 tỉ đồng. Qua bài viết gửi cho TP HCM Tiếp Thị, tiến sỹ kinh tế tài chính Lê Hồng Giang cho rằng, mấu chốt của việc tăng vốn điều lệ là để bảo vệ bảo đảm an toàn mạng lưới hệ thống kinh tế tài chính, nên việc tăng vốn theo lao lý cần triển khai đồng điệu với những giải pháp như phân loại và quản trị nợ theo chuẩn mực quốc tế thì mới đạt mục tiêu đề ra .
Theo tiến sỹ Lê Hồng Giang
Source: https://vh2.com.vn
Category : Doanh Nghiệp