Networks Business Online Việt Nam & International VH2

Ảnh hưởng của yếu tố chính trị – pháp luật tới quyết định đầu tư của các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam

Đăng ngày 03 August, 2022 bởi admin

Tóm tắt:
Các tổ chức chính trị-pháp luật có ảnh hưởng tới quyết định đầu tư của doanh nghiệp không chỉ quan trọng trong việc ban hành các văn bản pháp luật, các chính sách mà còn thể hiện trong việc cam kết và thực thi chúng có hiệu quả hay không (Globerman và Shapiro, 2003). Dựa trên bộ dữ liệu từ 231 doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) tại Việt Nam, từ khái niệm chính trị-pháp luật ban đầu, nghiên cứu đã phát hiện thấy rằng quyết định đầu tư của doanh nghiệp bị ảnh hưởng thông qua hai khái niệm khác nhau. Đặc biệt hơn, nhóm các yếu tố hiệu quả quản trị hành chính tại các địa phương hiện nay là có vai trò quan trọng hơn so với các nhóm các yếu tố còn lại trong việc thu hút đầu tư của các DNNVV.
Từ khóa: Chính trị – pháp luật, hiệu quả quản trị hành chính, doanh nghiệp nhỏ và vừa, môi trường đầu tư.

I. Tổng quan nghiên cứu
Chính trị-pháp luật là một phần trong môi trường đầu tư tại mỗi quốc gia. Globerman và Shapiro (2003), Daniel Kaufmann và cộng sự (2008) và nhiều tác giả xem môi trường chính trị pháp luật là sự tổng hòa của các tổ chức cùng với những chính sách công được tạo ra bởi các tổ chức này. Mục đích là tạo ra một khuôn khổ cho các quan hệ kinh tế và xã hội. Cách quan niệm này nhấn mạnh vai trò của chính phủ. Một nghiên cứu khác ví dụ như của Shaomin Li và Larry Filer (2007), đã mở rộng khái niệm này khi xem xét thêm cả các tổ chức phi chính phủ. Tuy nhiên, nhìn chung các nghiên cứu đều khẳng định tầm quan trọng của các yếu tố chính trị và thể chế trong quyết định đầu tư của các doanh nghiệp. Một môi trường chính trị pháp luật tốt sẽ tạo điều kiện có lợi cho đầu tư và tăng trưởng kinh tế.
Sự ổn định chính trị: Trong môi trường đầu tư, ổn định chính trị đo lường nhận thức của các doanh nghiệp hay các nhà đầu tư về khả năng một chính phủ rơi vào nguy cơ bất ổn hoặc bị lật đổ (Kaufmann và cộng sự, 2008). Nói cách khác, một bối cảnh chính trị có tính ổn định cao phản ánh sự bền vững và tính toàn vẹn của hệ thống chính quyền hiện hành, có thể chịu đựng và đứng vững trước những biến động như bạo lực và khủng bố. Sự ổn định chính trị là một yếu tố quan trọng để chính phủ duy trì các chính sách pháp luật, kinh tế và xã hội. Tuy nhiên, sự bất ổn chính trị được cho là một hiện tượng phổ biến trong lịch sử tất cả các thể chế. Không có một hình thức chính phủ nào, dù là chuyên quyền hay dân chủ miễn nhiễm với bất ổn chính trị (Quan V.Le, 2004).
Hệ thống luật pháp: Trong môi trường đầu tư, yếu tố luật pháp là hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật có tính chất bắt buộc, cưỡng chế và có hiệu lực cao về hành vi của các nhà đầu tư. Mục đích của hệ thống luật pháp duy trì một môi trường đầu tư công bằng, an toàn và bình đẳng, bảo vệ quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của các nhà đầu tư. Hiệu quả hệ thống luật pháp của một quốc gia thể hiện ở sự tuân thủ các quy tắc của xã hội, chất lượng thực thi quyền sở hữu, các thỏa thuận, chất lượng công việc của lực lượng cảnh sát và tòa án cũng như tình trạng tội phạm và bạo lực (Kaufmann và cộng sự, 2008).
Chính sách và dịch vụ công về đầu tư: Hệ thống cơ chế chính sách về đầu tư cũng là một công cụ quản lý nhà nước nhằm phân bổ và sử dụng hiệu quả các nguồn lực trong việc khuyến khích sản xuất, cung cấp hàng hóa và dịch vụ cho nền kinh tế. Các chính sách từ trung ương đến các chính quyền địa phương thường mang tính cưỡng chế. Đó là tập hợp nhiều cơ chế, quy định quan trọng với nhà đầu tư trong các lĩnh vực về đất đai, lao động, tài chính, công nghệ… có vai trò định hướng, dẫn dắt và hỗ trợ cho hoạt động đầu tư. Chẳng hạn như chính sách đất đai phản ánh việc các chính quyền tạo điều kiện để doanh nghiếp có thể tiếp cận và sử dụng dễ dàng, ổn định ổn lâu dài trong suốt quá trình sản xuất kinh doanh. Các chính sách về lao động đề cập đến các quy định liên quan đến quá trình sử dụng, sa thải lao động, trợ giúp về phát triển nguồn nhân lực. Ngoài ra một nhóm các yếu tố cũng rất quan trọng là chính sách về tài chính, chúng thường đề cập đến quá trình các doanh nghiệp tiếp cận, huy động các nguồn lực tài chính ưu đãi trong kinh doanh như ưu đãi về thuế, các nguồn vốn khác nhau với sự ưu đãi về lãi suất, thời gian…
Với các yếu tố về dịch vụ công, hàm ý là những nỗ lực của địa phương trong việc cung cấp dịch vụ hỗ trợ kinh doanh của các doanh nghiệp. Bao gồm những dịch vụ mà doanh nghiệp có thể có nhu cầu trong suốt quá trình triển khai đầu tư và vận hành kinh doanh, từ việc tìm kiếm đối tác đầu tư, đối tác kinh doanh đến việc hỗ trợ tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm. Nổi bật trong nhóm này có thể kể đến các chính sách về đào tạo lao động, tư vấn kỹ thuật, tư vấn pháp lý; hỗ trợ tổ chức hội chợ xúc tiến thương mại và, tìm kiếm đối tác đầu tư và tiếp cận thị trường kinh doanh tiềm năng…
Hiệu quả điều hành của chính quyền: Các tổ chức chính quyền không chỉ quan trọng trong việc ban hành các văn bản pháp luật, chính sách, các dịch vụ công mà còn thể hiện trong việc cam kết và thực thi chúng có hiệu quả hay không. Vì lý do đó, hiệu quả quản trị, điều hành của chính quyền luôn đóng vai trò quan trọng môi trường đầu tư. Phạm trù hiệu quả quản trị hành chính trong nghiên cứu này nhấn mạnh vào kết quả tổ chức triển khai, thực thi pháp luật, chính sách của chính quyền các cấp.
Nổi bật nhất trong phạm trù hiệu quả điều hành của chính phủ là quan liêu và tham nhũng, chúng thường là vấn đề trọng tâm khi các nghiên cứu đề cập đến vấn đề này. Theo đó, tham nhũng được hiểu rộng rãi như là hành vi sử dụng quyền lực trong khu vực công cho mục đích cá nhân một cách trái với các quy tắc (Thuy và Dijk, 2008). Những người liên quan tới tham nhũng thường là công chức, chính trị gia, những người kiểm soát sức mạnh trong các tổ chức công. Nguyên nhân của tham nhũng có thể đến từ những kẽ hở tiềm ẩn trong quá trình can thiệp của các tổ chức chính quyền, ví dụ như trong hạn chế thương mại, kiểm soát giá cả, cung cấp tín dụng… chúng tạo ra cơ hội cho các công chức có hành vi sai trái.
Ngoài tham nhũng, vấn đề công bằng và minh bạch cũng được đặt ra trong điều hành của các tổ chức chính quyền. Điều này thể hiện trong việc các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế có được đối xử bình đẳng trong các chính sách của địa phương hay không; Các chính sách và thông tin của chính quyền có đầy đủ và dễ dàng tiếp cận không. Ngoài ra, hiệu quả điều hành của các cơ quan hành chính còn thể hiện ở việc trì hoãn và kém hiệu quả trong việc thực hiện các thủ tục hành chính và cung cấp các dịch vụ công.
II. Mô hình và phương pháp nghiên cứu
Dựa trên kết quả tổng quan, nghiên cứu đã dự kiến mô hình nghiên cứu cho bối cảnh tại Việt Nam. Từ nghiên cứu của Jose.I. Galan và cộng sự (2007); Chin Shan Lu và cộng sự (2006) cùng với nhiều nghiên cứu khác khi xem xét biến phụ thuộc là quyết định đầu tư của doanh nghiệp dưới sự ảnh hưởng của môi trường chính trị pháp luật bao gồm 12 nhóm yếu tố chính như Hình 1. Phương pháp nghiên cứu định tính: Nghiên cứu thực hiện phỏng vấn sâu với 10 giám đốc doanh nghiệp nhằm kiểm tra, điều chỉnh, bổ sung thang đo cho các khái niệm nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu định lượng: Nghiên cứu định lượng được thực hiện với dữ liệu thu thập bằng bảng hỏi với 231 doanh nghiệp khác nhau. Các nội dung chính bao gồm: (1) Đánh giá chính thức thang đo bằng phương pháp phân tích nhân tố khám phá EFA và hệ số tin cậy Cronbachs Alpha; (2) Đánh giá xu hướng, mức độ tác động giữa các biến phụ thuộc và biến độc lập cũng như là các giả thuyết nghiên cứu của mô hình.
Mẫu nghiên cứu: Để thực hiện nghiên cứu, có 300 phiếu khảo sát được phát ra, số phiếu thu về hợp lệ là 231 phiếu, đạt tỷ lệ 77%. Trong đó nếu tính theo quy mô vốn đầu tư tại thời điểm điều tra, số lượng mẫu tương đối trải đều giữa các mức quy mô vốn, dao động từ 26 đến 38 doanh nghiệp. Trong đó, nhóm doanh nghiệp có quy mô vốn đến dưới 0,5 tỷ đồng đến dưới 1 tỷ đồng và từ 1 tỷ đồng đến dưới 5 tỷ đồng có số mẫu lớn nhất với 38 doanh nghiệp. Thấp nhất là nhóm doanh nghiệp có quy mô vốn từ 50 đến 100 tỷ đồng với 26 doanh nghiệp được điều tra.
III. Kết quả nghiên cứu
1. Kết quả nghiên cứu định tính
Nhìn chung các thang đo được các đối tượng điều tra hiểu đúng ý nghĩa và có thể trả lời một cách dễ dàng. Vì vậy, các thang đo này sẽ được giữ nguyên để đưa vào bảng hỏi chi tiết trong nghiên cứu định lượng sau khi có một vài điều chỉnh nhỏ như sau: Biến quan sát số 4 và số 5 có sự trùng lặp nên sẽ được gộp chung và diễn đạt lại để phản ánh các chính sách khuyến khích đầu tư, kinh doanh tại địa phương. Biến quan sát số 3 mang nội hàm chính của biến quan sát số 7, đây là vấn đề quan tâm chính của các doanh nghiệp nên biến số 3 được giữ lại và bỏ biến quan sát số 7. Như vậy, thang đo chính trị pháp luật đã được điều chỉnh để đưa vào nghiên cứu định lượng bao gồm 10 quan sát.
2. Kiểm định giá trị của thang đo chính thức bằng phương pháp phân tích nhân tố khám phá (EFA)
Trước tiên, kiểm định KMO và Bartlett được thực hiện nhằm kiểm tra điều kiện phân tích EFA của dữ liệu. Kết quả thu được là, giá trị KMO = 0,782, kiểm định Bartlett cho giá trị Sig là 0,000. Kết quả này cho thấy các biến có quan hệ với nhau và đủ điều kiện để phân tích nhân tố khám phá.
Trong quá trình EFA, nghiên cứu có phát hiện đáng chú ý. Đó là, 10 tiêu chí đo lường chính trị – pháp luật được tải vào 2 nhân tố khác nhau. Nhóm một gồm các biến quan sát theo thứ tự: CTPL3, CTPL2, CTPL5, CTPL1, CTPL4 và nhóm nhân tố hai gồm: CTPL8, CTPL10, CTPL7, CTPL9, CTPL6. Như vậy về mặt lý thuyết, cả 10 biến quan sát này là thang đo khái niệm Chính trị-pháp luật, nhưng thực tế tại Việt Nam, chúng được tách thành 2 khái niệm riêng. Trong đó, các biến quan sát CTPL8, CTPL10, CTPL7, CTPL9, CTPL6 bao hàm hiệu quả quản trị hành chính. Do đó, nghiên cứu đã tiến hành kiểm tra lại các nhóm quan sát, đi tìm lý thuyết chứng minh cho phát hiện mới của mình cũng như sẽ được chứng minh trong bước nghiên cứu chính thức tiếp theo.
Nghiên cứu tiến hành chạy lại EFA lần 2, từ 10 biến quan sát đã trích được 2 nhân tố. Tổng phương sai giải thích được khi nhóm nhân tố được rút ra là 64,994 (>50%). Các giá trị Factor loading đều đạt giá trị từ 4.32 trở lên, đạt yêu cầu lớn hơn 0.3
1) Kết quả EFA cho chính trị-pháp luật gồm 5 tiêu chí đo lường được tải vào một nhân tố. Các hệ số tải về nhân tố tương ứng được sắp xếp từ lớn đến nhỏ là: 0,852; 0,839; 0,827; 0,757 và 0,746. Các hệ số đều lớn hơn 0,7, thỏa mãn tiêu chuẩn nên có thể kết luận 5 biến quan sát này có quan hệ ý nghĩa với biến chính trị-pháp luật.
2) Kết quả EFA cho hiệu quả quản trị hành chính gồm 5 tiêu chí đo lường được tải vào một nhân tố. Các hệ số tải về nhân tố tương ứng đều đạt yêu cầu vì đều lớn hơn 0,7. Hệ số tương ứng được sắp xếp từ lớn đến nhỏ là: 0,839; 0,838; 0,780; 0,717 và 0,701. Như vậy có thể kết luận 5 biến quan sát này có quan hệ ý nghĩa với biến hiệu quả quản trị hành chính.
3. Kết quả kiểm định ảnh hưởng của chính trị – pháp luật đến quyết định đầu tư của doanh nghiệp Đối với chính trị – pháp luật: Kết quả mô hình hồi quy chứng minh rằng chính trị – pháp luật ảnh hưởng cùng chiều tới quyết định đầu tư của doanh nghiệp với ß = 0.164 (p<0.01). Có đủ cơ sở để kết luận chấp nhận giả thuyết H01. Điều này khẳng định rằng, chính trị - pháp luật là nhân tố tạo động lực đầu tư của các DNNVV.
Đối với hiệu quả quản trị hành chính: Kết quả mô hình hồi quy cho thấy có sự có ảnh hưởng cùng chiều giữa hiệu quả quản trị hành chính tới quyết định đầu tư của doanh nghiệp với ß = 0.324 (p<0.01). Như vậy, giả thuyết H02 được chấp nhận, các hệ số cho thấy các khi hiệu quả quản trị hành chính được cải thiện sẽ thúc đẩy quyết định gia tăng đầu tư của doanh nghiệp.
IV. Thảo luận kết quả nghiên cứu
Đây là một trong những nghiên cứu đầu tiên phân tích ảnh hưởng của yếu tố chính trị pháp luật tới quyết định đầu tư của các DNNVV tại Việt Nam. Nghiên cứu đã có phát hiện mới trong nội dung phân tích nhân tố khám phá, khi 10 thang đo Chính trị pháp luật đã tách thành hai nhóm nhân tố. Điều này cho thấy, về mặt lý thuyết, đây là các khái niệm thành phần của một biến, nhưng ở môi trường đầu tư tại Việt Nam các yếu tố này đại diện cho 2 biến khác nhau. Với 5 biến quan sát được phân tách riêng để định nghĩa cho một biến mới, nghiên cứu đã tìm kiếm bằng chứng về mặt lý thuyết chứng minh cho phát hiện mới trong nghiên cứu và đặt tên nhân tố này phù hợp với nội hàm mới là hiệu quả quản trị hành chính. Vì thế, chính trị pháp luật trong phân tích thực nghiệm sẽ bao gồm 2 biến thành phần là chính trị-pháp luật, hiệu quả quản trị hành chính.
Về chính trị – pháp luật: Mức độ ảnh hưởng tới quyết định đầu tư của các DNNVV tại Việt Nam là yếu hơn so với yếu tố hiệu quả quản trị hành chính. Đối với yếu tố chính trị-pháp luật, có thể được luận giải từ thực tế về tình hình phân cấp quản lý tại Việt Nam hiện nay, đó là giữa các địa phương đều có sự tương đồng về hệ thống chính trị, pháp luật cũng như các chính sách về thuế, đất đai với doanh nghiệp. Sự khác biệt nếu có sẽ nằm ở các chính sách khuyến khích đầu tư như cơ chế cung cấp thông tin, tư vấn hỗ trợ đầu tư và giảm thiểu thời gian thực hiện các thủ tục hành chính. Tuy nhiên, những khác biệt này giữa các địa phương là không nhiều.
Về hiệu quả quản trị hành chính: Kết quả nghiên cứu cũng cung cấp bằng chứng cho thấy, hiệu quả quản trị hành chính tại địa phương là yếu tố có vai trò quan trọng thúc đẩy đầu tư của DNNVV. Phân tích nhân tố khám phá chỉ ra rằng, hiệu quả quản trị hành chính địa phương đã được định nghĩa bởi các chỉ báo chính bao gồm, chi phí không chính thức, sự bình đẳng, minh bạch, thời gian thực hiện các thủ tục hành chính và mức độ mối quan hệ giữa doanh nghiệp với chính quyền địa phương. Hệ số hồi quy từ bộ dữ liệu nghiên cứu đã minh chứng rằng, có mối quan hệ khá chặt chẽ giữa quyết định đầu tư của các DNNVV với Hiệu quả quản trị hành chính địa phương (ß=0.324). Vai trò của hiệu quả quản trị hành chính là rõ ràng hơn so với các yếu tố chính trị pháp luật trong môi trường đầu tư. Kết quả này khác biệt với một số nghiên cứu gần đây cho rằng các yếu tố hiệu quả quản trị hành chính không ảnh hưởng đến kết quả thu hút đầu tư (David Dolla và cộng sự 2005), các nghiên cứu này cũng dẫn chứng nhiều quốc gia vẫn thu hút được đầu tư bất chấp phải đối mặt với các vấn đề về tham nhũng, minh bạch, công bằng và thời gian thực hiện các thủ tục hành chính. Tuy nhiên, kết quả của nghiên cứu cũng được ủng hộ của một số nghiên cứu trước đây như nghiên cứu của Tuyen T.Q và cộng sự (2016), Fisman và Svensson (2007), Wei (2000); và Thuy và Dijk(2008). Đáng chú ý trong đó là nghiên cứu Thuy và Dijk(2008) cho thấy tại Việt Nam vấn đề tham nhũng không ảnh hưởng nhiều đến các doanh nghiệp nhà nước nhưng nó cản trở lớn tới các doanh nghiệp tư nhân. Đại đa số các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam là các DNNVV, do đó, nghiên cứu của Thuy và Dijk(2008) cho thấy có sự tương đồng với kết quả của nghiên cứu này. Điều này khẳng định rằng, hiệu quả trong công tác quản trị điều hành của chính quyền trở thành một yếu tố quan trọng, song hành cùng các yếu tố khác trong bối cảnh đầu tư tại Việt Nam.
IV. Kết luận
Các nghiên cứu trước đây chủ yếu là tập trung ở góc độ vĩ mô hay cấp độ quốc gia, chưa đủ để cung cấp nhiều kết quả cụ thể để nhận thức các khía cạnh của chính trị – pháp luật có vai trò quan trọng như thế nào để thúc đẩy đầu tư của các DNNVV tại một phạm vi nhỏ hơn, cụ thể là tại một địa phương. Hơn nữa, bằng chứng từ các nghiên cứu tại các quốc gia khác có thể không phản ánh chính xác những yếu tố nào là thực sự quan trọng đối với các DNNVV tại Việt Nam. Đặc biệt là yếu tố hiệu quả quản trị hành chính, các cơ quan công quyền tại mỗi địa phương chính là chủ thể quan trọng khi triển khai các chính sách được ban hành, cho dù là được ban hành bởi cấp trung ương hay địa phương. Do đó, nghiên cứu này nhấn mạnh vào tính cấp thiết phải cải thiện hiệu quả quản trị hành chính nếu các địa phương muốn thúc đẩy đầu tư của các DNNVV hiện nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Christian M. Rogerson, 2009. Local Investment Incentives for Urban Economic Development: Recent Debates in South African Cities. Urban Forum.
2. David Dollar, Mary Hallward-Driemeier and Taye Mengistae, 2005. Investment Climate and Firm Performance in Developing Economies. Economic Development and Cultural Change.
3. Hoa, D.T.T. and Lin, J.Y., 2016. Provincial Governance and Foreign Direct Investment in Vietnam: An empirical study at sub-nation level. International Journal of Research in Finance and Marketing.
4. Mary Hallward-Driemeier, Scott Wallsten and Lixin Colin Xu, 2006. Ownership, investment climate and firm performance Evidence from Chinese firms. Economics of Transition.
5. Mauro, P., 1995. Corruption and growth. Quarterly Journal of Economics, 110, pp. 681-712.
6. Tae Hoon Oum and Jong-Hun Park, 2004. Multinational ?rms location preference for regional distribution centers: focus on the Northeast Asian region. Transportation Research Part E.
7. Thuy, N.T. and Mathijs A. van Dijk, 2008. Corruption and growth_Private vs state-owned firms in Vietnam. Journal of Banking & Finance.
8. Tuyen, T,Q., Huong, V.V., Tinh, D.T. and Hiep T.D., 2016. Corruption, provincial institutions and manufacturing firm productivity: New evidence from a transitional economy. Estudios de Economía, N.43, Vol.2.
9. Viet, P.H., 2013. Effects of changes in provincial governance on the economic performance of the business sector: an empirical study using Vietnams Provincial Competitiveness Index. Waseda business &economic, 49.
I. Tổng quan nghiên cứuChính trị-pháp luật là một phần trong môi trường tự nhiên góp vốn đầu tư tại mỗi vương quốc. Globerman và Shapiro ( 2003 ), Daniel Kaufmann và tập sự ( 2008 ) và nhiều tác giả xem môi trường tự nhiên chính trị pháp luật là sự tổng hòa của những tổ chức triển khai cùng với những chủ trương công được tạo ra bởi những tổ chức triển khai này. Mục đích là tạo ra một khuôn khổ cho những quan hệ kinh tế tài chính và xã hội. Cách ý niệm này nhấn mạnh vấn đề vai trò của chính phủ nước nhà. Một điều tra và nghiên cứu khác ví dụ như của Shaomin Li và Larry Filer ( 2007 ), đã lan rộng ra khái niệm này khi xem xét thêm cả những tổ chức triển khai phi chính phủ. Tuy nhiên, nhìn chung những nghiên cứu và điều tra đều khẳng định chắc chắn tầm quan trọng của những yếu tố chính trị và thể chế trong quyết định hành động góp vốn đầu tư của những doanh nghiệp. Một thiên nhiên và môi trường chính trị pháp luật tốt sẽ tạo điều kiện kèm theo có lợi cho góp vốn đầu tư và tăng trưởng kinh tế tài chính. Sự không thay đổi chính trị : Trong môi trường tự nhiên góp vốn đầu tư, không thay đổi chính trị thống kê giám sát nhận thức của những doanh nghiệp hay những nhà đầu tư về năng lực một chính phủ nước nhà rơi vào rủi ro tiềm ẩn không ổn định hoặc bị lật đổ ( Kaufmann và tập sự, 2008 ). Nói cách khác, một toàn cảnh chính trị có tính không thay đổi cao phản ánh sự bền vững và kiên cố và tính toàn vẹn của mạng lưới hệ thống chính quyền sở tại hiện hành, hoàn toàn có thể chịu đựng và đứng vững trước những dịch chuyển như đấm đá bạo lực và khủng bố. Sự không thay đổi chính trị là một yếu tố quan trọng để cơ quan chính phủ duy trì những chủ trương pháp luật, kinh tế tài chính và xã hội. Tuy nhiên, sự không ổn định chính trị được cho là một hiện tượng kỳ lạ phổ cập trong lịch sử vẻ vang toàn bộ những thể chế. Không có một hình thức cơ quan chính phủ nào, dù là chuyên quyền hay dân chủ miễn nhiễm với không ổn định chính trị ( Quan V.Le, 2004 ). Hệ thống lao lý : Trong môi trường tự nhiên góp vốn đầu tư, yếu tố lao lý là mạng lưới hệ thống những văn bản quy phạm pháp luật có đặc thù bắt buộc, cưỡng chế và có hiệu lực hiện hành cao về hành vi của những nhà đầu tư. Mục đích của mạng lưới hệ thống lao lý duy trì một môi trường tự nhiên góp vốn đầu tư công minh, bảo đảm an toàn và bình đẳng, bảo vệ quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm và quyền lợi hợp pháp của những nhà đầu tư. Hiệu quả mạng lưới hệ thống lao lý của một vương quốc bộc lộ ở sự tuân thủ những quy tắc của xã hội, chất lượng thực thi quyền sở hữu, những thỏa thuận hợp tác, chất lượng việc làm của lực lượng công an và TANDTC cũng như thực trạng tội phạm và đấm đá bạo lực ( Kaufmann và tập sự, 2008 ). Chính sách và dịch vụ công về góp vốn đầu tư : Hệ thống chính sách chủ trương về góp vốn đầu tư cũng là một công cụ quản trị nhà nước nhằm mục đích phân chia và sử dụng hiệu suất cao những nguồn lực trong việc khuyến khích sản xuất, cung ứng sản phẩm & hàng hóa và dịch vụ cho nền kinh tế tài chính. Các chủ trương từ TW đến những chính quyền sở tại địa phương thường mang tính cưỡng chế. Đó là tập hợp nhiều chính sách, pháp luật quan trọng với nhà đầu tư trong những nghành nghề dịch vụ về đất đai, lao động, kinh tế tài chính, công nghệ tiên tiến … có vai trò xu thế, dẫn dắt và tương hỗ cho hoạt động giải trí góp vốn đầu tư. Chẳng hạn như chủ trương đất đai phản ánh việc những chính quyền sở tại tạo điều kiện kèm theo để doanh nghiếp hoàn toàn có thể tiếp cận và sử dụng thuận tiện, không thay đổi ổn lâu dài hơn trong suốt quy trình sản xuất kinh doanh thương mại. Các chủ trương về lao động đề cập đến những pháp luật tương quan đến quy trình sử dụng, sa thải lao động, trợ giúp về tăng trưởng nguồn nhân lực. Ngoài ra một nhóm những yếu tố cũng rất quan trọng là chủ trương về kinh tế tài chính, chúng thường đề cập đến quy trình những doanh nghiệp tiếp cận, kêu gọi những nguồn lực kinh tế tài chính tặng thêm trong kinh doanh thương mại như tặng thêm về thuế, những nguồn vốn khác nhau với sự tặng thêm về lãi suất vay, thời hạn … Với những yếu tố về dịch vụ công, hàm ý là những nỗ lực của địa phương trong việc cung ứng dịch vụ tương hỗ kinh doanh thương mại của những doanh nghiệp. Bao gồm những dịch vụ mà doanh nghiệp hoàn toàn có thể có nhu yếu trong suốt quy trình tiến hành góp vốn đầu tư và vận hành kinh doanh, từ việc tìm kiếm đối tác chiến lược góp vốn đầu tư, đối tác chiến lược kinh doanh thương mại đến việc tương hỗ tìm kiếm thị trường tiêu thụ loại sản phẩm. Nổi bật trong nhóm này hoàn toàn có thể kể đến những chủ trương về huấn luyện và đào tạo lao động, tư vấn kỹ thuật, tư vấn pháp lý ; tương hỗ tổ chức triển khai hội chợ triển khai thương mại và, tìm kiếm đối tác chiến lược góp vốn đầu tư và tiếp cận thị trường kinh doanh thương mại tiềm năng … Hiệu quả quản lý của chính quyền sở tại : Các tổ chức triển khai chính quyền sở tại không riêng gì quan trọng trong việc phát hành những văn bản pháp luật, chủ trương, những dịch vụ công mà còn biểu lộ trong việc cam kết và thực thi chúng có hiệu suất cao hay không. Vì lý do đó, hiệu suất cao quản trị, điều hành quản lý của chính quyền sở tại luôn đóng vai trò quan trọng thiên nhiên và môi trường góp vốn đầu tư. Phạm trù hiệu suất cao quản trị hành chính trong nghiên cứu và điều tra này nhấn mạnh vấn đề vào hiệu quả tổ chức triển khai tiến hành, thực thi pháp luật, chủ trương của chính quyền sở tại những cấp. Nổi bật nhất trong phạm trù hiệu suất cao điều hành quản lý của chính phủ nước nhà là quan liêu và tham nhũng, chúng thường là yếu tố trọng tâm khi những nghiên cứu và điều tra đề cập đến yếu tố này. Theo đó, tham nhũng được hiểu thoáng đãng như thể hành vi sử dụng quyền lực tối cao trong khu vực công cho mục tiêu cá thể một cách trái với những quy tắc ( Thuy và Dijk, 2008 ). Những người tương quan tới tham nhũng thường là công chức, chính trị gia, những người trấn áp sức mạnh trong những tổ chức triển khai công. Nguyên nhân của tham nhũng hoàn toàn có thể đến từ những kẽ hở tiềm ẩn trong quy trình can thiệp của những tổ chức triển khai chính quyền sở tại, ví dụ như trong hạn chế thương mại, trấn áp Ngân sách chi tiêu, phân phối tín dụng thanh toán … chúng tạo ra thời cơ cho những công chức có hành vi sai lầm. Ngoài tham nhũng, yếu tố công minh và minh bạch cũng được đặt ra trong quản lý của những tổ chức triển khai chính quyền sở tại. Điều này bộc lộ trong việc những doanh nghiệp thuộc những thành phần kinh tế tài chính có được đối xử bình đẳng trong những chủ trương của địa phương hay không ; Các chủ trương và thông tin của chính quyền sở tại có khá đầy đủ và thuận tiện tiếp cận không. Ngoài ra, hiệu suất cao quản lý và điều hành của những cơ quan hành chính còn bộc lộ ở việc trì hoãn và kém hiệu suất cao trong việc triển khai những thủ tục hành chính và cung ứng những dịch vụ công. II. Mô hình và chiêu thức nghiên cứuDựa trên hiệu quả tổng quan, điều tra và nghiên cứu đã dự kiến quy mô điều tra và nghiên cứu cho toàn cảnh tại Nước Ta. Từ nghiên cứu và điều tra của Jose. I. Galan và tập sự ( 2007 ) ; Chin Shan Lu và tập sự ( 2006 ) cùng với nhiều nghiên cứu và điều tra khác khi xem xét biến phụ thuộc vào là quyết định hành động góp vốn đầu tư của doanh nghiệp dưới sự ảnh hưởng của thiên nhiên và môi trường chính trị pháp luật gồm có 12 nhóm yếu tố chính như Hình 1. Phương pháp điều tra và nghiên cứu định tính : Nghiên cứu triển khai phỏng vấn sâu với 10 giám đốc doanh nghiệp nhằm mục đích kiểm tra, kiểm soát và điều chỉnh, bổ trợ thang đo cho những khái niệm điều tra và nghiên cứu. Phương pháp nghiên cứu và điều tra định lượng : Nghiên cứu định lượng được triển khai với tài liệu tích lũy bằng bảng hỏi với 231 doanh nghiệp khác nhau. Các nội dung chính gồm có : ( 1 ) Đánh giá chính thức thang đo bằng chiêu thức nghiên cứu và phân tích tác nhân tò mò EFA và thông số đáng tin cậy Cronbachs Alpha ; ( 2 ) Đánh giá khuynh hướng, mức độ ảnh hưởng tác động giữa những biến phụ thuộc vào và biến độc lập cũng như là những giả thuyết điều tra và nghiên cứu của quy mô. Mẫu nghiên cứu và điều tra : Để triển khai nghiên cứu và điều tra, có 300 phiếu khảo sát được phát ra, số phiếu thu về hợp lệ là 231 phiếu, đạt tỷ suất 77 %. Trong đó nếu tính theo quy mô vốn góp vốn đầu tư tại thời gian tìm hiểu, số lượng mẫu tương đối trải đều giữa những mức quy mô vốn, giao động từ 26 đến 38 doanh nghiệp. Trong đó, nhóm doanh nghiệp có quy mô vốn đến dưới 0,5 tỷ đồng đến dưới 1 tỷ đồng và từ 1 tỷ đồng đến dưới 5 tỷ đồng có số mẫu lớn nhất với 38 doanh nghiệp. Thấp nhất là nhóm doanh nghiệp có quy mô vốn từ 50 đến 100 tỷ đồng với 26 doanh nghiệp được tìm hiểu. III. Kết quả nghiên cứu1. Kết quả điều tra và nghiên cứu định tínhNhìn chung những thang đo được những đối tượng người tiêu dùng tìm hiểu hiểu đúng ý nghĩa và hoàn toàn có thể vấn đáp một cách thuận tiện. Vì vậy, những thang đo này sẽ được giữ nguyên để đưa vào bảng hỏi cụ thể trong điều tra và nghiên cứu định lượng sau khi có một vài kiểm soát và điều chỉnh nhỏ như sau : Biến quan sát số 4 và số 5 có sự trùng lặp nên sẽ được gộp chung và diễn đạt lại để phản ánh những chủ trương khuyến khích góp vốn đầu tư, kinh doanh thương mại tại địa phương. Biến quan sát số 3 mang nội hàm chính của biến quan sát số 7, đây là yếu tố chăm sóc chính của những doanh nghiệp nên biến số 3 được giữ lại và bỏ biến quan sát số 7. Như vậy, thang đo chính trị pháp luật đã được kiểm soát và điều chỉnh để đưa vào điều tra và nghiên cứu định lượng gồm có 10 quan sát. 2. Kiểm định giá trị của thang đo chính thức bằng giải pháp nghiên cứu và phân tích tác nhân tò mò ( EFA ) Trước tiên, kiểm định KMO và Bartlett được triển khai nhằm mục đích kiểm tra điều kiện kèm theo nghiên cứu và phân tích EFA của tài liệu. Kết quả thu được là, giá trị KMO = 0,782, kiểm định Bartlett cho giá trị Sig là 0,000. Kết quả này cho thấy những biến có quan hệ với nhau và đủ điều kiện kèm theo để nghiên cứu và phân tích tác nhân mày mò. Trong quy trình EFA, điều tra và nghiên cứu có phát hiện đáng quan tâm. Đó là, 10 tiêu chuẩn đo lường và thống kê chính trị – pháp luật được tải vào 2 tác nhân khác nhau. Nhóm một gồm những biến quan sát theo thứ tự : CTPL3, CTPL2, CTPL5, CTPL1, CTPL4 và nhóm tác nhân hai gồm : CTPL8, CTPL10, CTPL7, CTPL9, CTPL6. Như vậy về mặt kim chỉ nan, cả 10 biến quan sát này là thang đo khái niệm Chính trị-pháp luật, nhưng trong thực tiễn tại Nước Ta, chúng được tách thành 2 khái niệm riêng. Trong đó, những biến quan sát CTPL8, CTPL10, CTPL7, CTPL9, CTPL6 bao hàm hiệu suất cao quản trị hành chính. Do đó, điều tra và nghiên cứu đã triển khai kiểm tra lại những nhóm quan sát, đi tìm triết lý chứng tỏ cho phát hiện mới của mình cũng như sẽ được chứng tỏ trong bước nghiên cứu và điều tra chính thức tiếp theo. Nghiên cứu thực thi chạy lại EFA lần 2, từ 10 biến quan sát đã trích được 2 tác nhân. Tổng phương sai lý giải được khi nhóm tác nhân được rút ra là 64,994 ( > 50 % ). Các giá trị Factor loading đều đạt giá trị từ 4.32 trở lên, đạt nhu yếu lớn hơn 0.31 ) Kết quả EFA cho chính trị-pháp luật gồm 5 tiêu chuẩn giám sát được tải vào một tác nhân. Các thông số tải về tác nhân tương ứng được sắp xếp từ lớn đến nhỏ là : 0,852 ; 0,839 ; 0,827 ; 0,757 và 0,746. Các thông số đều lớn hơn 0,7, thỏa mãn nhu cầu tiêu chuẩn nên hoàn toàn có thể Tóm lại 5 biến quan sát này có quan hệ ý nghĩa với biến chính trị-pháp luật. 2 ) Kết quả EFA cho hiệu suất cao quản trị hành chính gồm 5 tiêu chuẩn giám sát được tải vào một tác nhân. Các thông số tải về tác nhân tương ứng đều đạt nhu yếu vì đều lớn hơn 0,7. Hệ số tương ứng được sắp xếp từ lớn đến nhỏ là : 0,839 ; 0,838 ; 0,780 ; 0,717 và 0,701. Như vậy hoàn toàn có thể Kết luận 5 biến quan sát này có quan hệ ý nghĩa với biến hiệu suất cao quản trị hành chính. 3. Kết quả kiểm định ảnh hưởng của chính trị – pháp luật đến quyết định hành động góp vốn đầu tư của doanh nghiệpĐối với chính trị – pháp luật : Kết quả quy mô hồi quy chứng tỏ rằng chính trị – pháp luật ảnh hưởng cùng chiều tới quyết định hành động góp vốn đầu tư của doanh nghiệp với ß = 0.164 ( p < 0.01 ). Có đủ cơ sở để Kết luận đồng ý giả thuyết H01. Điều này khẳng định chắc chắn rằng, chính trị - pháp luật là tác nhân tạo động lực góp vốn đầu tư của những DNNVV.Đối với hiệu suất cao quản trị hành chính : Kết quả quy mô hồi quy cho thấy có sự có ảnh hưởng cùng chiều giữa hiệu suất cao quản trị hành chính tới quyết định hành động góp vốn đầu tư của doanh nghiệp với ß = 0.324 ( p < 0.01 ). Như vậy, giả thuyết H02 được gật đầu, những thông số cho thấy những khi hiệu suất cao quản trị hành chính được cải tổ sẽ thôi thúc quyết định hành động ngày càng tăng góp vốn đầu tư của doanh nghiệp. IV. Thảo luận tác dụng nghiên cứuĐây là một trong những nghiên cứu và điều tra tiên phong nghiên cứu và phân tích ảnh hưởng của yếu tố chính trị pháp luật tới quyết định hành động góp vốn đầu tư của những DNNVV tại Nước Ta. Nghiên cứu đã có phát hiện mới trong nội dung nghiên cứu và phân tích tác nhân mày mò, khi 10 thang đo Chính trị pháp luật đã tách thành hai nhóm tác nhân. Điều này cho thấy, về mặt triết lý, đây là những khái niệm thành phần của một biến, nhưng ở thiên nhiên và môi trường góp vốn đầu tư tại Nước Ta những yếu tố này đại diện thay mặt cho 2 biến khác nhau. Với 5 biến quan sát được phân tách riêng để định nghĩa cho một biến mới, điều tra và nghiên cứu đã tìm kiếm vật chứng về mặt triết lý chứng tỏ cho phát hiện mới trong nghiên cứu và điều tra và đặt tên tác nhân này tương thích với nội hàm mới là hiệu suất cao quản trị hành chính. Vì thế, chính trị pháp luật trong nghiên cứu và phân tích thực nghiệm sẽ gồm có 2 biến thành phần là chính trị-pháp luật, hiệu suất cao quản trị hành chính. Về chính trị - pháp luật : Mức độ ảnh hưởng tới quyết định hành động góp vốn đầu tư của những DNNVV tại Nước Ta là yếu hơn so với yếu tố hiệu suất cao quản trị hành chính. Đối với yếu tố chính trị-pháp luật, hoàn toàn có thể được luận giải từ thực tiễn về tình hình phân cấp quản trị tại Nước Ta lúc bấy giờ, đó là giữa những địa phương đều có sự tương đương về mạng lưới hệ thống chính trị, pháp luật cũng như những chủ trương về thuế, đất đai với doanh nghiệp. Sự độc lạ nếu có sẽ nằm ở những chủ trương khuyến khích góp vốn đầu tư như chính sách cung ứng thông tin, tư vấn tương hỗ góp vốn đầu tư và giảm thiểu thời hạn thực thi những thủ tục hành chính. Tuy nhiên, những độc lạ này giữa những địa phương là không nhiều. Về hiệu suất cao quản trị hành chính : Kết quả điều tra và nghiên cứu cũng phân phối dẫn chứng cho thấy, hiệu suất cao quản trị hành chính tại địa phương là yếu tố có vai trò quan trọng thôi thúc góp vốn đầu tư của DNNVV. Phân tích tác nhân mày mò chỉ ra rằng, hiệu suất cao quản trị hành chính địa phương đã được định nghĩa bởi những chỉ báo chính gồm có, ngân sách không chính thức, sự bình đẳng, minh bạch, thời hạn thực thi những thủ tục hành chính và mức độ mối quan hệ giữa doanh nghiệp với chính quyền sở tại địa phương. Hệ số hồi quy từ bộ tài liệu điều tra và nghiên cứu đã vật chứng rằng, có mối quan hệ khá ngặt nghèo giữa quyết định hành động góp vốn đầu tư của những DNNVV với Hiệu quả quản trị hành chính địa phương ( ß = 0.324 ). Vai trò của hiệu suất cao quản trị hành chính là rõ ràng hơn so với những yếu tố chính trị pháp luật trong thiên nhiên và môi trường góp vốn đầu tư. Kết quả này độc lạ với 1 số ít nghiên cứu và điều tra gần đây cho rằng những yếu tố hiệu suất cao quản trị hành chính không ảnh hưởng đến hiệu quả lôi cuốn góp vốn đầu tư ( David Dolla và tập sự 2005 ), những nghiên cứu và điều tra này cũng dẫn chứng nhiều vương quốc vẫn lôi cuốn được góp vốn đầu tư mặc kệ phải đương đầu với những yếu tố về tham nhũng, minh bạch, công minh và thời hạn triển khai những thủ tục hành chính. Tuy nhiên, hiệu quả của nghiên cứu và điều tra cũng được ủng hộ của 1 số ít nghiên cứu và điều tra trước đây như nghiên cứu và điều tra của Tuyen T.Q và tập sự ( năm nay ), Fisman và Svensson ( 2007 ), Wei ( 2000 ) ; và Thuy và Dijk ( 2008 ). Đáng chú ý quan tâm trong đó là điều tra và nghiên cứu Thuy và Dijk ( 2008 ) cho thấy tại Nước Ta yếu tố tham nhũng không ảnh hưởng nhiều đến những doanh nghiệp nhà nước nhưng nó cản trở lớn tới những doanh nghiệp tư nhân. Đại đa số những doanh nghiệp tư nhân Nước Ta là những DNNVV, do đó, nghiên cứu và điều tra của Thuy và Dijk ( 2008 ) cho thấy có sự tương đương với hiệu quả của nghiên cứu và điều tra này. Điều này chứng minh và khẳng định rằng, hiệu suất cao trong công tác làm việc quản trị quản lý của chính quyền sở tại trở thành một yếu tố quan trọng, song hành cùng những yếu tố khác trong toàn cảnh góp vốn đầu tư tại Nước Ta. IV. Kết luậnCác nghiên cứu và điều tra trước kia hầu hết là tập trung chuyên sâu ở góc nhìn vĩ mô hay Lever vương quốc, chưa đủ để cung ứng nhiều tác dụng đơn cử để nhận thức những góc nhìn của chính trị - pháp luật có vai trò quan trọng như thế nào để thôi thúc góp vốn đầu tư của những DNNVV tại một khoanh vùng phạm vi nhỏ hơn, đơn cử là tại một địa phương. Hơn nữa, vật chứng từ những nghiên cứu và điều tra tại những vương quốc khác hoàn toàn có thể không phản ánh đúng chuẩn những yếu tố nào là thực sự quan trọng so với những DNNVV tại Nước Ta. Đặc biệt là yếu tố hiệu suất cao quản trị hành chính, những cơ quan công quyền tại mỗi địa phương chính là chủ thể quan trọng khi tiến hành những chủ trương được phát hành, mặc dầu là được phát hành bởi cấp TW hay địa phương. Do đó, điều tra và nghiên cứu này nhấn mạnh vấn đề vào tính cấp thiết phải cải tổ hiệu suất cao quản trị hành chính nếu những địa phương muốn thôi thúc góp vốn đầu tư của những DNNVV lúc bấy giờ. TÀI LIỆU THAM KHẢO : 1. Christian M. Rogerson, 2009. Local Investment Incentives for Urban Economic Development : Recent Debates in South African Cities. Urban Forum. 2. David Dollar, Mary Hallward-Driemeier and Taye Mengistae, 2005. Investment Climate and Firm Performance in Developing Economies. Economic Development and Cultural Change. 3. Hoa, D.T.T. and Lin, J.Y., năm nay. Provincial Governance and Foreign Direct Investment in Vietnam : An empirical study at sub-nation level. International Journal of Research in Finance and Marketing. 4. Mary Hallward-Driemeier, Scott Wallsten and Lixin Colin Xu, 2006. Ownership, investment climate and firm performance Evidence from Chinese firms. Economics of Transition. 5. Mauro, P., 1995. Corruption and growth. Quarterly Journal of Economics, 110, pp. 681 - 712.6. Tae Hoon Oum and Jong-Hun Park, 2004. Multinational ? rms location preference for regional distribution centers : focus on the Northeast Asian region. Transportation Research Part E. 7. Thuy, N.T. and Mathijs A. van Dijk, 2008. Corruption and growth_Private vs state-owned firms in Vietnam. Journal of Banking và Finance. 8. Tuyen, T, Q., Huong, V.V., Tinh, D.T. and Hiep T.D., năm nay. Corruption, provincial institutions and manufacturing firm productivity : New evidence from a transitional economy. Estudios de Economía, N. 43, Vol. 2.9. Viet, P.H., 2013. Effects of changes in provincial governance on the economic performance of the business sector : an empirical study using Vietnams Provincial Competitiveness Index. Waseda business và economic, 49 .

The influence of political and legal factors on investment decision of small and medium enterprises in Vietnam
MA. NGUYEN MANH CUONG

Faculty
of Business Management, Hanoi University of Industry

ABSTRACT :

Political-legal
organizations that influence the investment decisions of enterprises are not
only important in the promulgation of legal documents and policies, but also in
their commitment and enforcement (Globerman and Shapiro, 2003). Based on data
from 231 small and medium enterprises (SMEs) in Vietnam, and from original legal-political
concept, the study finds that the investment decision of the firm is affected
through two different concepts. More specifically, the group of administrative
efficiency components in the localities today is more important than the groups
of factors remaining in attracting investment of SMEs.

Keywords : Politics – Law, effectiveness of administration, small and medium enterprises, investment environment .

Xem tất cả ấn phẩm Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ số 5 + 6 tháng 4/2018
Xem tổng thể ấn phẩm Các hiệu quả điều tra và nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ tiên tiến số 5 + 6 tháng 4/2018 tại đây

Source: https://vh2.com.vn
Category : Doanh Nghiệp