Networks Business Online Việt Nam & International VH2

Lý thuyết tài chính tiền tệ – tổng hợp kiến thức – CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TIỀN TỆ VÀ LƯU – StuDocu

Đăng ngày 01 October, 2022 bởi admin

CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TIỀN TỆ

VÀ LƯU THÔNG TIỀN TỆ

1 Nguồn gốc và bản chất tiền tệ
1.1 Nguồn gốc xuất hiện:

Theo Mác, tiền tệ xuất hiện sau một quá trình phát triển lâu dài của trao đổi và các hình thái
giá trị. Quá trình phát triển của các hình thái giá trị để đi đến hình thái giá trị diễn ra như sau:

  • Hình thái trao đổi đơn giản hay ngẫu nhiên:
    1 tấm bò = 2 cái rìu
    Hình thái giá trị tương đối vật ngang giá chung
    Giá trị của bò được biểu hiện ở rìu, còn rìu là cái được dùng làm phương tiện để biểu hiện giá
    trị của bò. Hàng hoá (bò) mà giá trị của nó được biểu hiện ở một hàng hoá khác (rìu) thì gọi là
    hình thái giá trị tương đối. Còn hàng hoá rìu mà giá trị sử dụng của nó biểu hiện giá trị của hàng
    hoá khác (bò) gọi là hình thái vật ngang giá chung.
     Hình thái giá trị toàn bộ hay mở rộng xuất hiện sau lần phân công lao động lần thứ nhất – bộ
    lạc du mục tách rời khỏi toàn bộ lạc đòi hỏi có sự trao đổi bằng nhiều hàng hoá khác nhưng vẫn
    trực tiếp. Lúc này giá trị của vật không chỉ biểu hiện thông qua giá trị sử dụng của một vật mà
    còn biểu hiện thông qua giá trị sử dụng của nhiều hàng hoá khác
    Ví dụ: 1 con gà = 10 kg thóc / 1 cái rìu/1 m vải / 0,1 chỉ vàng (chưa cố định)
     Hình thái giá trị chung khi sự phân công lao động lần thứ 2, thủ công nghiệp tách rời khỏi
    nông nghiệp -> SX HH phát triển thì hình thức trao đổi trực tiếp bộc lộ những nhược điểm của
    nó, đòi hỏi phải có một loại hàng hoá đặc biệt giữ vai trò vật ngang giá chung của quá trình trao
    đổi
    Ví dụ: 10 kg thóc
    2 con gà = 1 m vải (vật ngang giá nhưng chưa cố định)
    0,1 chỉ vàng
     Hình thái tiền tệ khi vật ngang giá chung cố định ở một thứ hàng hoá, đó là kim loại (kẽm,
    đồng, sắt, bạc, vàng.) chỉ đến lúc này thì hình thái tiền tệ mới được xác lập và vàng với tư cách
    là vật ngang giá chung và đã trở thành tiền tệ, gọi là kim tệ. Vì vậy, vàng – tiền tệ được coi là
    một HH đặc biệt.
     Kết luận:
    Tiền tệ là một phạm trù kinh tế và cũng là một phạm trù lịch sử. Sự xuất hiện của tiền là một
    phát minh vĩ đại của loài người, nó làm thay đổi bộ mặt của nền KT – XH
    Sự ra đời và tồn tại của tiền tệ gắn liền với sự ra đời và tồn tại của sản xuất và trao đổi HH.
    Và trong quá trình này nó xuất hiện vật ngang giá chung.
    Vàng – tiền tệ được coi là một hàng hoá đặc biệt.
    Khái niệm:
     Khái niệm cũ: Tiền tệ là một HH đặc biệt đóng vai trò vật ngang giá chung để đo giá trị của
    các HH khácền có thể thoã mãn được một số nhu cầu của người sở hữu nó tương ứng với số
    lượng giá trị mà người đó tích luỹ được

 Khái niệm mới: Tiền là tất cả những phương tiện có thể làm trung gian trao đổi được nhiều
người thừa nhận
 Tiền là bất cứ cái gì được chấp nhận chung trong thanh toán để đối lấy hàng hoá, dịch vụ
hoặc trả các khoản nợ.
Ngoài ra, còn có những vật thể khác giữ vai trò trung gian trao đổi như chi phiếu, thương
phiếu, kỳ phiếu,… mà các nhà kinh tế học vẫn không thống nhất với nhau có phải là tiền tệ hay
không. Irving Fisher cho rằng chỉ có giấy bạc ngân hàng là tiền tệ, trong khi Conant Paul
Warburg cho rằng chi phiếu cũng là tiền tệ. Samuelson lại cho rằng tiền là bất cứ cái gì mà nhờ
nó người ta có thể mua được hầu hết mọi thứ. Theo Charles Rist thì cái thật quan trọng đối với
nhà kinh tế không phải là sự thống nhất về một định nghĩa thế nào là tiền tệ mà phải biết và
hiểu hiện tượng tiền tệ.
1.1 Bản chất của tiền tệ:
Tiền tệ thực chất là vật trung gian môi giới trong trao đổi hàng hoá dịch vụ, giúp quá trình trao
đổi diễn ra dễ dàng hơn.
Lúc đầu vật ngang giá chung là hàng hoá thông thường (bò, cừu, rìu) sau đó là hàng hoá mở
rộng (kẽm, đồng, bạc) và cuối cùng là tiền tệ.

Hàng hoá thường thì Hàng hoá tiền tệ

Bản
Chức năng của tiền tệ
 K/niệm 1 : Các nhà kinh tế học cho rằng tiền tệ có 3 chức năng gồm: phương tiện trao đổi,
đơn vị tính toán, dự trữ giá trị.
 K/niệm 2: Theo Mác khi vàng đựơc sử dụng làm tiền tệ thì tiền tệ gồm có 5 chức năng:
thước đo giá trị, phương tiện lưu thông, phương tiện thanh toán, phương tiện cất trữ, phương
tiện cất trữ và tiền tệ thế giới
1.2 Thước đo giá trị :
Giá trị của tiền được dùng làm phương tiện để so sánh với giá trị của hàng hoá hoặc dịch vụ,
thông qua quan hệ này tiền đã thực hiện chức năng thước đo giá trị.
– Khi thực hiện chức năng này thì:
+ Giá trị của tiền được coi là chuẩn mực (1 bên là tiền, 1 bên là hàng)
+ Tiền là thước đo hao phí lao động xã hội kết tinh trong một hàng hoá nào đó
VD: 1 m vải gồm có đối tượng lao động (bỏ ra 1 giờ hay 2 hoặc người khác 3 giờ) và công cụ
lao động (máy dệt, kim khâu, kéo..)
– Các điều kiện để thực hiện các chức năng này:

  • Dự trữ giá trị bằng những phương tiện hiện thực chứ không phải bằng một lượng tiền “
    tưởng tượng”
  • Giá trị dự trữ bằng những phương tiện được xã hội thừa nhận
  • Mang tính thời gian (theo yêu cầu của chủ sở hữu, trong tương lai gần có thể là dấu hiệu giá
    trị, tương lai xa hơn có thể là vàng, ngoại tệ)
    1.2 Phương tiện thanh toán
     Tiền được sử dụng làm công cụ thanh toán các khoản nợ về HH và DV trong mua bán trước
    đây
     Tiền và hàng vận động độc lập tương đối với nhau về không gian và thời gian
  • Không gian: có thể mua bán ở chỗ này nhưng có thể thanh toán ở chỗ khác hoặc tại chỗ
  • Thời gian: có thể trả nợ trước hoặc sau khi mua (độc lập) hoặc là tiền trao cháo múc (đưa
    tiền liền – Không độc lập)
    Chức năng phương tiện thanh toán xuất hiện phát sinh quan hệ tín dụng (bán chịu). Do đó làm
    cho khối lượng tiền tệ cần thiết cho lưu thông tại một thời điểm nhất định cũng thay đổi:
    Trong thanh toán có thể dùng tiền mặt, chuyển khoản, bù trừ

1.2 Chức năng tiền tệ thể giới
 Tiền tệ thế giới là phương tiện thanh toán và chi trả chung giữa các quốc gia
 Khi thực hiện chức năng tiền tệ thế giới thì chỉ có tiền mặt và tiền có giá trị hoàn toàn nhưng
phải đưa về dạng nén, thỏi để thực hiện việc thanh toán cuối cùng.
 Còn trong thanh toán quốc tế thì người ta sử dụng ngoại tệ mạnh, ví dụ: USD, EUR, Yên, ..
Phân chia theo cách thứ nhất như sau:
1. Chức năng phương tiện trao đổi
Là một phương tiện trao đổi, tiền tệ được sử dụng như một vật môi giới trung gian trong việc
trao đổi các hàng hoá, dịch vụ. Đây là chức năng đầu tiên của tiền tệ, nó phản ánh lý do tại sao
tiền tệ lại xuất hiện và tồn tại trong nền kinh tế hàng hoá.
Trong nền kinh tế trao đổi trực tiếp, người ta phải tiến hành đồng thời hai dịch vụ bán và
mua với một người khác. Điều đó là đơn giản trong trường hợp chỉ có ít người tham gia trao
đổi, nhưng trong điều kiện nền kinh tế phát triển, các chi phí để tìm kiếm như vậy quá cao. Vì
vậy người ta cần sử dụng tiền làm môi giới trong quá trình này, tức là người ta trước hết sẽ đổi
hàng hoá của mình lấy tiền sau đó dùng tiền mua thứ hàng hoá mình cần. Rõ ràng việc thực
hiện lần lượt các giao dịch bán và mua với hai người sẽ dễ dàng hơn nhiều so với việc thưc hiện
đồng thời hai giao dịch đối với cùng một người.
Để thực hiện chức năng phương tiện trao đổi tiền phải có những tiêu chuẩn nhất định:

Khối lượng tiền thiết yếu cho lưu thông

=

Tổng giá cả H 2 và dvụGiá cả H 2 bán chịuGiá cả H 2 đến hạn thanh toán giao dịchGiá cả H 2 được t / h thanh toán giao dịch bù trừ Tốc độ lưu thông trung bình của tiền tệ

+

_ _

_ – Được gật đầu thoáng đãng : nó phải được con người đồng ý thoáng rộng trong lưu thông, do tại chỉ khi mọi người cùng đồng ý nó thì người có hàng hoá mới đồng ý chấp thuận đổi hàng hóa của mình lấy tiền ;

  • Dễ nhận biết: con người phải nhận biết nó dễ dàng;
  • Có thể chia nhỏ được: để tạo thuận lợi cho việc đổi chác giữa các hàng hoá có giá trị khác
    nhau;
  • Dễ vận chuyển: tiền tệ phải đủ gọn nhẹ để dễ dàng trong việc trao đổi hàng hoá ở khoảng
    cách xa;
  • Không bị hư hỏng một cách nhanh chóng;
  • Được tạo ra hàng loạt một cách dễ dàng: để số lượng của nó đủ dùng trong trao đổi;
  • Có tính đồng nhất: các đồng tiền có cùng mệnh giá phải có sức mua ngang nhau._
    2. Chức năng đơn vị đánh giá.
    Chức năng thứ hai của tiền là một đơn vị đánh giá, tức là tiền tệ được sử dụng làm đơn vị để
    đo giá trị của các hàng hoá, dịch vụ trong nền kinh tế. Qua việc thực hiện chức năng này, giá trị
    của các hàng hoá, dịch vụ được biểu hiện ra bằng tiền, như việc đo khối kượng bằng kg, đo độ
    dài bằng m..ờ đó mà việc trao đổi hàng hoá được diễn ra thuận lợi hơn.
    Nếu giá trị hàng hoá không có đơn vị đo chung là tiền, mỗi hàng hoá sẽ được định giá bằng
    tất cả các hàng hoá còn lại, và như vậy số lượng giá các mặt hàng trong nền kinh tế ngày nay
    sẽ nhiều đến mức người ta không còn thời gian cho việc tiêu dùng hàng hoá, do phần lớn thời
    gian đã dàng cho việc đọc giá hàng hoá. Khi giá của các hàng hoá, dịch vụ được biểu hiện
    bằng tiền, không những thuận tiện cho người bán hàng hóa mà việc đọc bảng giá cũng đơn
    giản hơn rất nhiều với chi phí thời gian ít hơn sử dụng cho các giao dịch.
    Là một đơn vị đánh giá, nó tạo cơ sở thuận lợi cho việc sử dụng tiền làm phương tiện trao
    đổi, nhưng cũng chính trong quá trình trao đổi sử dụng tiền làm trung gian, các tỉ lệ trao đổi
    được hình thành theo tập quán – tức là ngay từ khi mới ra đời, việc sử dụng tiền làm phương
    tiện trao đổi đã dẫn tới việc dùng tiền làm đơn vị đánh giá. Đầu tiên những phương tiện được
    sử dụng làm tiền để biểu hiện giá trị hàng hoá cũng có giá trị như các hàng hoá khác. Cơ sở
    cho việc tiền biểu hiện giá trị các hàng hoá khác chính là tiền cũng có giá trị sử dụng như các
    hàng hoá khác (Theo phân tích của Marx về sự phát triển của các hình thái biểu hiện giá trị
    hàng hoá: giá trị hàng hoá được biểu hiện ở giá trị sử dụng của hàng hoá đóng vai trò vật
    ngang giá, vật ngang giá chung). Vì vậy trong thời đại ngày nay, mặc dù các phương tiện được
    sử dụng là tiền không còn có giá trị như các hàng hoá khác nhưng nó được mọi người chấp
    nhận trong lưu thông (có giá trị sử dụng đặc biệt), do đó vẫn được sử dụng để đánh giá giá trị
    các hàng hoá. Trong bất kể nền kinh tế tiền tệ nào việc sử dụng tiền làm đơn vị đo lường giá trị
    đều mang tính chất trừu tượng, vừa có tính pháp lý, vừa có tính quy ước.
    3. Chức năng phương tiện dự trữ giá trị
    Là một phương tiện dự trữ giá trị, tiền tệ là nơi cất giữ sức mua qua thời gian. Khi người ta
    nhận được thu nhập mà chưa muốn tiêu nó hoặc chưa có điều kiện để chi tiêu ngay, tiền là một
    phương tiện để cho việc cất giữ sức mua trong những trường hợp này hoặc có thể người ta giữ
    tiền chỉ đơn thuần là việc để lại của cải.

* * * Hệ thống tổ chức triển khai lưu thông tiền tệ * *. Hệ thống tổ chức triển khai lưu thông tiền tệ là chính sách lưu thông tiền tệ theo luật định, trong đó những yếu tố của mạng lưới hệ thống này phối hợp với nhau thành một khối thống nhất. Tùy thuộc trình độ tăng trưởng của phương pháp sản xuất – xã hội, ở mỗi vương quốc chính sách tổ chức triển khai lưu thông tiền tệ đều có những nét đặc trưng. Tuy nhiên những yếu tố cơ bản của mạng lưới hệ thống tiền tệ đều có nội dung tương tự như. Những nội dung đó là :

  • Kim loại tiền tệ: là thứ kim loại được xác định làm thước đo giá trị, nó tuỳ thuộc từng
    quốc gia (bạc – vàng)
  • Đơn vị tiền tệ: là tiêu chuẩn giá cả của đồng tiền quốc gia và ký hiệu quốc tế của nó,
    được pháp luật thừa nhận.
  • Chế độ đúc tiền và lưu thông tiền đúc.
    Về nguyên tắc nhà nước độc quyền. Trong lưu thông có hai loại tiền đúc:
  • Tiền đủ giá (bạc, vàng)
  • Tiền kém giá (đồng, nhôm)
    *** Chế độ bản vị bạc:**
    Là chế độ lưu thông tiền trong đó bạc được sử dụng làm tiền tệ
    * Chế độ song bản vị:
    Là chế độ lưu thông tiền trong đó bạc và vàng được sử dụng làm tiền tệ. Chế độ này chia làm
    hai giai đoạn:
  • Chế độ bản vị song song: là chế độ song bản vị nhưng trong đó bạc và vàng lưu thông theo
    giá trị thực tế của chúng trên thị trường. Như vậy trong lưu thông có hai thước đo giá trị và dẫn
    đến có hai hệ thống giá cả. Thực tế này mâu thuẩn với chính chức năng thước đo giá trị của tiền
  • Chế độ bản vị kép: là chế độ song bản vị nhưng Nhà nước can thiệp vào bằng cách qui định
    tỷ giá giữa tiền vàng và tiền bạc thống nhất trong phạm vi cả nước. Mục đích của sự can thiệp
    này là để khắc phục tình trạng không ổn định trong lưu thông. Di giá trị của bạc trên thị trường
    ngày càg giảm trong khi đó giá trị của vàng không giảm làm cho mọi người luôn muốn giữ vàng
    . Kết quả trên lưu thông chỉ còn là tiền vàng
    *** Chế độ bản vị vàng:**
    Là chế đọ lưu thông tiền trong đó vàng được sử dụng làm tiền tệ. Chế độ này có những đặc
    điểm sau:
  • Tự do đúc tiền vàng
  • Tự do lưu thông
  • Được tự do luân chuyển giữa các quốc gia
    1.4 Lưu thông dấu hiệu giá trị
    a. Bản chất, chức năng dấu hiệu của giá trị
     Bản chất : Dấu hiệu của giá trị là những phương tiện thay thế cho vàng trong lưu thông, để
    thực hiện các trao đổi HH và DV. So với giá trị của hàng hoá thì dấu hiệu không có giá trị nội
    tại mà chỉ có giá trị danh nghĩa. Ví dụ: Mua 1 thẻ điện thoại Mobil phone trị giá 200 000 ngàn

đồng, dùng xong tức là đã nạp vào tài khoản điện thoại và bán lại 10 000. Lúc đó không ai mua
cả vì nó không có giá trị nội tại.
 Chức năng:
+ Phương tiện lưu thông
+ Dự trữ trong tương lai gần (dự trữ tạm thời)
+ Phương tiện thanh toán
Các chức năng như thước đo giá trị, phương tiện cất trữ và tiền tệ thế giới thì không thực hiện
được
b. Các loại dấu hiệu giá trị
 Giấy bạc ngân hàng
 Thương phiếu
 Sec
 Các phương tiện thanh toán và lưu thông hiện đại như tiền điện tử, card thông minh..
c. Ý nghĩa của lưu thông dấu hiệu giá trị
 Ưu điểm:
 Khắc phục được tình trạng thiếu phương tiện thanh toán trong lưu thông
 Tiết kiệm được chi phí lưu thông xã hội
 Nhược điểm:
 Dễ xuất hiện dấu hiệu gía trị giả
 Dễ gây ra lạm phát
1.4 Chế độ lưu thông tiền tệ ở Việt Nam
a. Giấy bạc ngân hàng của Nhà nướcVN
– Là dấu hiệu do ngân hàng NNVN độc quyền phát hành và lưu thông
– Tiền đơn vị của Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam là “ đồng”, ký hiệu quố gia là “đ”, ký
hiệu quốc tế là “ VNĐ”
– Hiện nay trong lưu thông, giấy bạc ngân hàng Việt nam mang các mệnh giá: 100 đ, 200 đ,
500 đ, 1000 đ, 2000 đ, 5000 đ, 10 000 đ, 50 000 đ, 100 000 đ, 500 000 đ.
Theo luật pháp Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, giấy bạc ngân hàng Việt Nam có quyền
lực lưu thông trên toàn bộ lãnh thổ và được thanh toán không hạn chế với mọi khoản trao đổi
hàng hóa và dịch vụ. Mọi hành vi làm giả, phá hoại giấy bạc ngân hàng Việt Nam đều là vi
phạm pháp luật và sẽ bị xử lý theo luật pháp hiện hành
b. Nguyên tắc phát hành giấy bạc ngân hàng
Ngân hàng nhà nước Việt Nam là cơ quan độc quyền phát hành giấy bạc vào lưu thông.
Thực hiện nghiệp vụ phát hành giấy bạc, ngân hàng nhà nước phải chấp hành các nguyên tắc
sau đây:
– Phát hành giấy bạc ngân hàng thông qua đường tín dụng
Nghiệp vụ này thực hiện bằng cách tái chiết khấu hoặc tái cầm cố các thương phiếu,
chứng chỉ tiền gởi và các loại giấy tờ có giá khác.

  • Kế hoạch cung ứng tiền mặt cho lưu thông.
    Để đáp ứng đủ tiền mặt cho lưu thông, ngân hàng nhà nước cần phải tính đến các yếu tố
    sau:
  • Tổng mức hàng hóa và dịch vụ cho tiêu dùng cá nhân cần phải sử dụng tiền mặt.
  • Tăng giảm lãi suất tiền gởi tiết kiệm.
  • Tâm lý giữ tiền mặt của dân cư.
  • Giao dịch bằng tiền mặt của cơ quan và DN….
    Trên cơ sở tham khảo các yếu tố trên, ngân hàng nhà nước có kế hoạch cung ứng tiền
    mặt cho lưu thông phù hợp với nhu cầu của nền kinh tế quốc dân. Nhưng để tiết kiệm chi phí,
    hạn chế khối lượng tiền phát hành, ngân hàng nhà nước có thể áp dụng các biện pháp sau:
  • Qui định mức tồn quỹ tiền mặt đối với các cơ quan, doanh nghiệp trong những điều
    kiện cần thiết.
  • Kế hoạch tiền mặt của các đơn vị phải được coi là chỉ tiêu pháp lệnh, nếu chiều hướng
    lạm phát gia tăng.
  • Áp dụng các đòn bẫy kinh tế để thu hút tiền mặt từ lưu thông vào ngân hàng.
    Trong điều kiện nền kinh tế của Việt Nam chưa phát triển, tâm lý sử dụng tiền mặt còn
    khá nặng nề trong dân cư và các đơn vị. Điều này chỉ có thể được khắc phục khi nền kinh tế thị
    trường phát triển cao thì nhu cầu sử dụng tiền mặt sẽ giảm.
    Qui luật lưu thông tiền tệ:
    Nội dung của qui luật lưu thông tiền tệ
    :
    Tiền là hình thức biểu hiện của giá trị hàng hoá, nó phục vụ cho sự vận động của hàng hoá.
    Lưu thông hàng hoá và lưu thông tiền tệ là hai mặt của quá trình thống nhất. Lưu thông tièn tệ
    xuất hiện dựa trên cơ sở của lưu thông hàng hoá. ở mỗi thời kỳ nhất định, lưu thông tiền tệ cũng
    đòi hỏi một lượng tiền nhất định
    Nội dung như sau: Số lượng tiền cần thiết để thực hiện chức năng phương tiện lưu thông tỷ lệ
    thuận với tổng giá cả hàng hoá trong lưu thông và tỷ lệ nghịch với số vòng quay bình quân của
    đồng tiền cùng loại

Trong đó :

M: số lượng tiền cần thiết trong lưu thông
P: giá cả hàng hoá, dịch vụ
Q: khối lượng sản phẩm
V: tốc độ chu chuyển bình quân/ số vòng quay của tiền

 P

M =

V

Số lượng tiền cần thiết thực hiện công dụng lưu thông =Tổng giá cả HH và DịCH Vụ dựa vào lưu thôngTốc độ lưu thông trung bình của tiền

Đây là qui luật kinh tế phổ biến và rất quan trọng trong nền kinh tế thị trường
1.5 Cung – cầu tiền tệ
1.5.2 Các khối tiền trong lưu thông
a. Khối lượng tiền tệ trong lưu thông (Money Supply – Ms)
KLTTTLT – Ms: là chỉ tất cả các phương tiện được chấp nhận làm trung gian trao đổi với mọi
HH và DV tại 1 thị trường nhất định, trong 1 khoảng thời gian nhất định. Người ta chia thành
các khối sau:

  • M1 : Là bộ phận có tính lõng cao nhất, gồm có : giấy bạc ngân hàng nhà nước, ngoại tệ tự do quy đổi, vàng, ngân phiếu, séc những loại, tiền gởi không kỳ hạn .
  • M2 : Bao gồm M1 và tiền gởi có kỳ hạn
  • M3 : Bao gồm M2 và thương phiếu, tín phiếu kho bạc, CP và những loại trái khoán .
  • Khối L : b. Khối lượng tiền thiết yếu cho lưu thông ( Necessary Money – Mn )
  • Mn: là khối lượng tiền tệ do tổng nhu cầu của nền KT quốc dân trong 1 thời kỳ nhất định.
    Ví dụ: Trong năm 2004 nền Kinh tế Việt Nam cần bao nhiêu khối lượng tiền trong lưu thông
  • Mn phụ thuộc vào 2 yếu tố : Tổng giá cả HH và DV đưa vào lưu thông và tốc độ lưu thông
    bình quân của tiền.
    VD: Năm 2003, người ta tính tổng giá cả HH và DV đưa vào lưu thông là 100000 tỷ, vòng
    quay là 10 thì Mn là :100000/10=10000 tỷ.
  • Giữa Mn và Ms sẽ có một khỏang cách và khi người ta so sánh với nhau tại một thời điểm
    nào đó thì nó có thể xảy ra 1 trong 3 trường hợp sau:
  • Ms/Mn = 1->Ms = Mn : đây là điều tuyệt vời vì tất cả các nước đều mong muốn nhưng thực
    tế điều đó không xảy ra.
  • Ms/Mn > 1 ->Ms > Mn: số lượng tiền trong lưu thông > số lượng tiền cần thiết trong lưu
    thông => thừa tiền => lạm phát
  • Ms/Mn < 1 -> Ms < Mn : số lượng tiền trong lưu thông < số lượng tiền cần thiết trong lưu thông => thiếu tiền => giảm phát.
    Nhưng trong thực tế không thể tính được tỷ lệ trên một cách chính xác. Do đó người ta chuyển
    hướng nó qua tín hiệu thị trường (như là HH thiết yếu, giá vàng, giá dầu, tỷ giá hối đoái…) để
    MS và Mn xích lại gần nhau hơn, và dó chính là công việc cần thiết của các nhà hoạch định và
    thực thi chính sách tiền tệ.
    1.5.2 Nhu cầu tiền trong lưu thông( Cầu tiền tệ )
    a. Nhu cầu tiền cho giao dịch
  • Đối với doanh nghiệp họ cần tiền để phụcvụ cho quá trình sản xuất kinh doanh : mua
    nguyên vật liệu, máy móc, thiết bị, trả lương cho công nhân…
  • Đối với dân cưcần tiền nhằm thực hiện nhu cầu sống

Ms = M 3 + những phương tiện đi lại khác

 Cho khách hàng “thấu chi”bằng cách ghi “có “ trước và “ nợ” sau. Nó được áp dụng với
điều kiện doanh nghiệp có uy tín hoặc là các cá nhân có sự bảo lãnh của các Cơ quan nhưng chỉ
là con số tương đối.
 Cho khách hàng phát hành lớn hơn số dư tiền gửi. VD: trong thanh toán bằng sec, theo
nguyên tắc anh có 1 tỷ nhưng Ngân hàng có thể phát hành từ 10 – 100 tỷ vì công ty có uy tín
c. Các phương tiện lưu thông được phát hành ra từ các tổ chức tín dụng phi ngân hàng như
thương phiếu, tín phiếu, trái phiếu công ty
Tóm lại: có 4 tác nhân tham gia vào việc phát hành tìên cho lưu thông đó là NHTW, NH
Thương mại, Các tác nhân gửi và các tác nhân cho vay trong đó NHTW giữ vai trò chủ đạo.
Điều hoà lưu thông tiền tệ
a. Mục đích:
 Đảm bảo cân đối giữa tổng số tiền và tổng giá cả HH và DV trong lưu thông nghĩa là làm
sao cho Ms ~ Mn
 Đảm bảo cân đối giữa tiền mặt và các phương tiện thanh toán khác
 Cân đối giữa các phương tiện lưu thông có mệnh giá khác nhau. Ví dụ: Nếu như NHTW chỉ
phát hành tờ 10000 đồng, khi trao đổi thì nó cần nhiều các tờ đông tiền khác do đó cần in ra các
tờ 5000 đồng, 2000 đồng, 1000 đồng.
 Cân đối giữa các nguồn vốn trong nền KT tạo điều kiện SX và lưu thông HH phát triển
 Ổn đinh lưu thông tiền tệ nhằm nâng cao sức mua của đồng tiền => nền KT quốc dân tăng
trưởng ổn định
b. Công cụ điều hoà:

  • Sử dụng lãi suất bao gồm:
  • Lãi suất tái chiết khấu: do ngân hàng Trung Ương thực hiện
  • Laĩ suất tiền gửi do NHTM thực hiện
  • Áp dụng dự trữ bắt buộc trên vốn khả dụng của NHTM
  • Sử dụng nghiệp vụ thị trường tự do: các ngân hàng TM và các tổ chức tín dụng tiến hành
    mua bán chứng khoán trên thị trường
    1 Lạm phát và các biện pháp ổn định tiền tệ
    1.6. Lạm phát:
    1
    . 1 Khái niệm :
    Lạm phát (Inflation) là hiện tượng KT trong đó giấy bạc lưu thông vượt quá nhu cầu cần thiết
    làm cho chúng liên tục bị mất giá, giá cả HH và DV không ngừng tăng lên
    1.6.1 Phân loại các cấp độ lạm phát
     Lạm phát vừa phải: giá cả tăng chậm < 10% => kích thích SX
     Lạm phát phi mã: giá cả tăng đột biến khoảng từ 10 % -> 999 % => KT trì trệ
     Siêu lạm phát :tốc độ tăng gấp nhiều lần lạm phát phi mã. Nó phá hoại hầu hết các quan hệ
    hạ tầng cơ sở của nền kinh tế quốc dân
    1.6.1 Nguyên nhân :
     Do SX suy giảm => không có nguồn thu (thu NS không đủ chi) => Chính phủ phát hành tiền
    để chi

 Do chiến tranh, thiên tai đột biến (mà SX không có mà chiến tranh xảy ra thì phải chi nhiều
cho quốc phòng, y tế, trợ cấp thất nghiệp => lạm phát)
 Do khủng hoảng chính trị, lúc đó đồng tiền mất tín nhiệm
1.6 Các biện pháp ổn định thị trường trong nền KT 3
 Biện pháp cấp bách:
 Ngưng phát hành tiền trong lưu thông (tức là đóng băng tiền tệ ), muốn vậy thì NHTW phải
ngừng cung ứng tiền cho lưu thông thông qua nghiệp vụ tái chiết khấu, tái cầm cố các giấy tờ
có giá.
 Tăng lãi suất tiền gửi, đặc biệt là tiền gửi tiết kiệm.
 Cắt giảm các khoản chi chưa cấp bách: trợ cấp, viện trợ
 Bán vàng và ngoại tệ
 Khuyến khích tự do mậu dịch (quá trình thương mại tự do lưu thông tức là HH đi ra nước
ngoài và đi vào trong nước tự do), nới lỏng thuế quan nhằm làm cho khối lượng HH tăng lên
 Vay và xin viện trợ từ bên ngoài
 Cải cách tiền tệ (tức là bỏ đồng tiền cũ thay thế bằng đồng tiền mới, đây là biện pháp tình
thế
 Biện pháp chiến lược: nhằm đảm bảo cho nền KT có sức mạnh nội sinh (phòng bệnh)
 Xây dựng kế hoạch tổng thể, phát triển SX và lưu thông HH trong nền Kt quốc dân
 Tạo ngành SX HH mũi nhọn cho xuất khẩu, mặt hàng chiến lược phải có kim ngạch lớn trên
thế giới > 100 tỷ USD,nhưng với Việt Nam chưa có mặt hàng hàng vượt trên 10 tỷ, chỉ có dầu
khí 3 tỷ; thuỷ sản, gạo, may mặc, giày da, thủ công mỹ nghệ ~ 6 tỷ
 Cải cách hành chính, giảm biên chế, kiện toàn bộ máy hành chính
 Kiểm soát thường xuyên chính sách thu chi của NSNN

  • Cái gì thu chưa hết, chưa đủ => thu
  • Cái gì chi quá tay thì nên giảm
  • Nhà nước cần phải tạo môi trường cho Tài chính hoạt động, đó là sản xuất hàng hóa –
    tiền tệ.
  • Cần phải đặt đúng vị trí của Tài chính, lựa chọn những hình thức và phương pháp tạo
    lập và sử dụng một cách có hiệu quả để thúc đẩy kinh tế hàng hóa – tiền tệ phát triển.
    2 Bản chất của Tài chính.
    Việc thông qua tiền tệ để tiến hành phân phối tổng sản phẩm xã hội của Tài chính đã làm
    cho nhiều người lầm tưởng Tài chính là tiền tệ.
    Trên bề mặt của hiện tượng xã hội, Tài chính được cảm nhận như những nguồn lực Tài
    chính, những quĩ tiền tệ khác nhau, đại diện cho những sức mua nhất định ở các chủ thể kinh tế-
    xã hội và đã tạo ra hàng loạt các mối quan hệ qua lại dưới hình thức giá trị của các nguồn lực
    Tài chính đó. Nguồn lực Tài chính không chỉ bó hẹp ở dạng tiền tệ vận động qua hai kênh Ngân
    sách và Ngân hàng, mà nó còn bao gồm giá trị của cải xã hội, tài sản quốc gia, tổng sản phẩm
    quốc dân ở cả dạng vật chất và tiềm năng luân chuyển ở nhiều kênh khác nhau; chúng luôn vận
    động để tạo lập và sử dụng các quĩ tiền tệ vào các mục đích gắn liền với các chủ thể kinh tế- xã
    hội. Bản chất của tài chính được xác định ở những mặt sau:
    1, Sự vận động độc lập tương đối của các nguồn Tài chính để trực tiếp (hay thông qua thị
    trường) tạo lập và sử dụng các quĩ tiền tệ như mặt trực quan của Tài chính.
    2, Đằng sau mặt trực quan đó là các quan hệ kinh tế trong phân phối của cải xã hội dưới
    hình thức phân phối các nguồn lực Tài chính.
    3, Việc tạo lập và sử dụng các quĩ tiền tệ là phương thức phân phối đặc thù để phân biệt
    phạm trù Tài chính với các phạm trù phân phối khác như giá cả, tiền lương,….
    Nội dung kinh tế của tài chính được xác định như sau: Tài chính được đặc trưng bằng
    sự vận động độc lập tương đối của tiền tệ với chức năng phương tiện thanh toán và phương
    tiện cất trữ trong quá trình tạo lập hay sử dụng các quĩ tiền tệ đại diện cho những sức mua
    nhất định ở các chủ thể kinh tế- xã hội. Tài chính phản ánh tổng hợp các mối quan hệ kinh
    tế trong phân phối các nguồn lực Tài chính thông qua tạo lập hay sử dụng các quĩ tiền tệ
    nhằm đáp ứng yêu cầu tích lũy hay tiêu dùng của các chủ thể trong xã hội.

    Tài chính trong nền kinh tế thị trường cũng có thể hiểu là tổng thể những mối quan hệ
    kinh tế giữa các thực thể Tài chính phát sinh trong quá trình tạo lập và sử dụng các nguồn
    lực Tài chính.

    2 Chức năng của Tài chính.
    Chức năng của Tài chính là cụ thể hóa bản chất của Tài chính, là nhiệm vụ chủ yếu có
    thể thực hiện trong thực tiễn. Hiện vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau khi bàn đến chức năng
    của Tài chính.
    Chức năng của một sự vật là khả năng thế năng bên trong, vốn có của sự vật đó. Nói đến
    chức năng của Tài chính là nói đến khả năng khách quan phát huy tác dụng của nó. Trong đời
    sống xã hội, Tài chính vốn có hai chức năng: chức năng phân phối và chức năng giám đốc.
    2.3. Chức năng phân phối.

Chức năng phân phối của Tài chính là cái vốn có, nằm sẵn trong phạm trù Tài chính và
biểu hiện bản chất của Tài chính. Chính nhờ chức năng này mà các nguồn lực Tài chính được
đưa vào những mục đích sử dụng khác nhau, đảm bảo các nhu cầu khác nhau và những lợi ích
khác nhau trong đời sống xã hội.
Đối tượng phân phối của Tài chính là của cải xã hội dưới hình thức giá trị, là tổng thể
các nguồn lực Tài chính có trong xã hội.
Chủ thể phân phối của tài chính bao gồm: Nhà nước, doanh nghiệp, các tổ chức xã hội,
hộ gia đình và cá nhân dân cư.
Kết quả phân phối của tài chính là tạo lập và sử dụng các qũi tiền tệ dành cho một mục
đích nhất định (tích lũy hoặc tiêu dùng) ở các chủ thể trong xã hội.
Chức năng phân phối của tài chính có những điểm sau:
Thứ nhất, phân phối của tài chính là sự phân phối chỉ diễn ra dưới hình thức giá trị, nó
không đi kèm theo sự thay đổi của hình thái giá trị.
Thứ hai, phân phối của tài chính gắn liền với việc tạo lập, sử dụng các quĩ tiền tệ. Đây là
đặc điểm chủ yếu, được coi là đặc trưng cơ bản của phân phối tài chính.
Thứ ba, phân phối của tài chính trải qua hai quá trình: phân phối lần đâù và phân phối
lại.
Phân phối lần đầu được tiến hành trong lĩnh vực sản xuất cho những chủ thể tham gia
vào quá trình sáng tạo ra của cải vật chất hay thực hiện các dịch vụ, nó được thực hiện trước hết
và chủ yếu là ở khâu tài chính cơ sở trong hệ thống tài chính, nhằm hình thành các quĩ tiền tệ
để:

  • Bù đắp chi phí vật chất đã tiêu hao( quĩ KHĐ và quĩ khôi phục vốn lưu động đã
    ứng ra)
  • Hình thành quĩ lương.
  • Hình thành quĩ bảo hiểm.
  • Thu nhập cho các chủ sở hữu về vốn, tài nguyên.
    Phân phối lại là nhằm tiếp tục phân phối những phần thu nhập cơ bản trong phân phối
    lần đầu ra phạm vi xã hội rộng hơn hoặc theo những chi tiết cụ thể hơn trong mục đích của các
    quĩ tiền tệ.
    Mục tiêu của phân phối lại là nhằm đảm bảo cho bộ phận phi sản xuất ra của cải vật chất
    tồn tại hoạt động và thực hiện công bằng xã hội.
    2.3. Chức năng giám đốc
    Chức năng giám đốc là một thuộc tính khách quan vốn có của Tài chính, bắt nguồn từ
    bản chất của Tài chính. Đó là khả năng khách quan để sử dụng Tài chính làm công cụ để kiểm
    tra, giám đốc bằng đồng tiền với việc sử dụng chức năng thước đo giá trị và phương tiện thanh
    toán của tiền tệ.
  • Giám đốc của tài chính có thể diễn ra dưới dạng: Xem xét tính cần thiết, qui mô của
    việc phân phối các quĩ tiền tệ; kiểm tra và giám sát quá trình thực hiện; xem xét rủi ro và tư vấn.
  • Chức năng giám đốc của tài chính có những đặc điểm sau:

2.4. Hệ thống tài chính trong nền kinh tế thị trường
2.4.2 Căn cứ vào quan hệ sở hữu các nguồn lực tài chính, hệ thống tài chính có
hai bộ phận:

– Tài chính Nhà nước
– Tài chính phi Nhà nước
Tài chính Nhà nước thuộc sở hữu nhà nước phục vụ sự hoạt động của bộ máy nhà nước
và việc thực hiện các chức năng của nhà nước. Tài chính nhà nước bao gồm: Ngân sách nhà
nước, tín dụng nhà nước, tài chính của các cơ quan hành chính nhà nước, tài chính các doanh
nghiệp nhà nước, tài chính các đơn vị sự nghiệp nhà nước, tài chính của các tổ chức tài chính
trung gian thuộc sở hữu nhà nước ( như Ngân hàng nhà nước, ngân hàng thương mại, công ty
bảo hiểm, công ty chứng khoán,…);Các quỹ tài chính nhà nước khác như: quỹ dự trữ quốc gia,
một số quỹ thuộc ngân hàng trung ương ( quỹ dự trữ ngoại hối, quỹ điều hoà lưu thông tiền tệ,
quỹ dự trữ bắt buộc,..); quỹ bảo hiểm xã hội, quỹ hổ trợ phát triển, quỹ quốc gia giải quyết việc
làm, quỹ phủ xanh đất trống đồi trọc, quỹ bảo vệ môi trường,…, các quỹ này thường được gọi là
các quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách nhà nước.
Tài chính phi nhà nước thuộc sở hữu của khu vực không phải nhà nước phục vụ cho sự
hoạt động của các chủ thể ở khu vực đó. Tài chính phi nhà nước gồm có: tài chính của các tổ
chức xã hội và các quỹ có cùng tính chất; tài chính các doanh nghiệp, ngân hàng thương mại,
công ty bảo hiểm thuộc sở hữu tư nhân; tài chính hộ gia đình.
Trong điều kiện kinh tế thị trường, tài chính nhà nước giữ vai trò đặc biệt quan trọng
trong điều tiết vĩ mô nền kinh tế – xã hội nhằm khắc phục những khuyết tật của nền kinh tế thị
trường, đồng thời góp phần tạo hành lang, môi trường và điều kiện thuận lợi cho các thành phần
kinh tế, trong đó có khu vực phi nhà nước phát triển.
b) Theo mục đích sử dụng các nguồn tài chính cho lợi ích công hay lợi ích tư, hệ thống
tài chính được phân chia thành 2 loại: Tài chính công và tài chính tư.
c) Theo phạm vi hoạt động của tài chính, lấy quốc gia là chủ thể, thì hệ thống tài chính
được phân chia thành: Tài chính nội địa và tài chính quốc tế.
d) Căn cứ vào đặc điểm hình thành, phân phối sử dụng các nguồn lực tài chính gắn liền
với các chủ thể trong nền kinh tế thì hệ thống tài chính có 5 khâu:
– Tài chính nhà nước (NSNN)
– Tài chính doanh nghiệp
– Bảo hiểm
– Tín dụng
– Tài chính hộ gia đình và các tổ chức xã hội
3. Mối quan hệ và nhiệm vụ của các khâu tài chính cấu thành trong hệ thống tài
chính.

Khoa Tài chính – Kế toán TÀI CHÍNH HỘ GIA ĐÌNH VÀ TỔ Trường Đại học Đông Á
CHỨC XH

NGÂN SÁCH NHÀ

NƯỚC

TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP TÍN THỊ DỤNG TRƯỜNG TÀI CHÍNHBẢO HIỂMNhiệm vụ của những khâu kinh tế tài chính trong mạng lưới hệ thống kinh tế tài chính : a. Chi tiêu nhà nước : là khâu kinh tế tài chính chủ yếu, có trách nhiệm : – Động viên, tập trung chuyên sâu những nguồn kinh tế tài chính để tạo lập quỹ tiền tệ của nhà nước. Có thể được thực thi dưới dạng bắt buộc hoặc tự nguyện từ những khâu kinh tế tài chính khác ; hoàn toàn có thể trực tiếp từ những khâu kinh tế tài chính khác hoặc gián tiếp trải qua thị trường kinh tế tài chính. – Phân phối sử dung quỹ NSNN vào việc thực thi trách nhiệm kinh tế tài chính – xã hội. Việc sử dụng quỹ NSNN hoàn toàn có thể làm tăng nguồn kinh tế tài chính ở những khâu kinh tế tài chính khác, cũng hoàn toàn có thể đi vào sử dụng trực tiếp – Giám đốc kiểm tra những khâu kinh tế tài chính khác. b. Tài chính doanh nghiệp : Tài chính doanh nghiệp là khâu kinh tế tài chính cơ sở, có trách nhiệm : – Đảm bảo vốn và phân phối vốn phải chăng cho mục tiêu sản xuất kinh doanh thương mại của doanh nghiệp. – Tổ chức chu chuyển vốn liên tục và có hiệu suất cao. – Phân phối thu nhập và doanh thu của doanh nghiệp theo pháp luật của nhà nước. – Kiểm tra giám đốc quy trình sản xuất kinh doanh thương mại của doanh nghiệp. c. Tín dụng : Tín dụng là khâu kinh tế tài chính trung gian có đặc thù đặc biệt của sự hoạt động những nguồn kinh tế tài chính có thời hạn. Tín dung là tụ điểm những nguồn kinh tế tài chính trong thời điểm tạm thời thư thả, có trách nhiệm : – Tạo lập quỹ cho vay theo nguyên tắc hoàn trả, có thời hạn và có bồi hoàn. – Phân phối quỹ này theo nhu yếu sản xuất kinh doanh thương mại cũng theo nguyên tắc hoàn trả, có thời hạn và có bồi hoàn. d. Bảo hiểm : Bảo hiểm cũng là khâu kinh tế tài chính trung gian, có trách nhiệm : – Huy động quỹ bảo hiểm bằng sự góp phần của những chủ thể có tham gia bảo hiểm ( dưói hình thức phí bảo hiểm )

Source: https://vh2.com.vn
Category : Vận Chuyển