Networks Business Online Việt Nam & International VH2

Tien cong_thuyet trinh – TIỀN CÔNG TRONG CHỦ NGHĨA TƯ BẢN 1. Bản chất của tiền công Là biểu hiện bên – StuDocu

Đăng ngày 01 October, 2022 bởi admin

TIỀN CÔNG TRONG CHỦ NGHĨA TƯ BẢN

1. Bản chất của tiền công
Là biểu hiện bên ngoài của đời sống chủ nghĩa tư bản, công nhân làm việc cho nhà
tư bản trong một thời gian nhất định, sản xuất ra một lượng hàng hóa hay hoàn thành
một số công việc nào đó thì nhà tư bản trả cho công nhân một số tiền nhất định gọi là
tiền công.

Khái niệm: Tiền công là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa sức lao động, là
giá cả của hàng hóa sức lao động.
Vì vậy người ta thường lầm tưởng rằng tiền công là giá cả của lao động. Nhưng
thực tế tiền công không phải giá trị hay giá cả của lao động, vì lao động không phải là
hàng hóa, sở dĩ như vậy là vì:

Nếu lao động là hàng hóa, thì nó phải có trước, phải được vật hóa trong một hình
thức cụ thể nào đó. Tiền đề để cho lao động vật hóa được là phải có tư liệu sản xuất.
Nhưng nếu người lao động có tư liệu sản xuất, thì họ sẽ bán hàng hóa do mình sản
xuất ra, chứ không bán “lao động”. Việc thừa nhận lao động là hàng hóa dẫn tới một
trong hai mâu thuẫn về lý luận sau đây:
Thứ nhất, nếu lao động là hàng hóa và nó được trao đổi ngang giá, thì nhà tư bản
không thu được lợi nhuận (giá trị thặng dư); điều này phủ nhận sự tồn tại thực tế của
quy luật giá trị thặng dư trong chủ nghĩa tư bản.
Thứ hai, còn nếu “hàng hóa lao động” được trao đổi không ngang giá để có giá trị
thặng dư cho nhà tư bản, thì phải phủ nhận quy luật giá trị.

Nếu lao động là hàng hóa, thì hàng hóa đó cũng phải có giá trị. Nhưng lao động là
thực thể và là thước đo nội tại của giá trị, bản thân lao động thì không có giá trị. Vì
thế, lao động không phải là hàng hóa, cái mà công nhân bán cho nhà tư bản chính là
sức lao động. Do đó, tiền công mà nhà tư bản trả cho công nhân là giá cả của sức lao
động.

Vậy, thực chất của tiền công trong chủ nghĩa tư bản là hình thức biểu lộ bằng tiền của giá trị sức lao động, hay giá cả của sức lao động, nhưng lại bộc lộ ra bề ngoải thành giá cả của lao động. Nó được bộc lộ ra hình thức bề ngoài thành giá cả của lao động vì :

  • Công nhân bán cho tư bản quyền sử dụng sức lao động ( không bán quyền sở
    hữu sức lao động vì thế công nhân sau khi lao động cho nhà tư bản lại sử dụng sức lao
    động đó cho bản thân mình, gia đình)
  • Công nhân phải lao động cho nhà tư bản thì mới có tiền công ( Lao động là
    phương tiện kiếm sống của công nhân
  • Công nhân chỉ nhận được tiền công sau khi đã lao động cho nhà tư bản ( nếu
    chưa lao động thì nhà tư bản chưa trả công cho công nhân)

Vì cứ sau một thời hạn lao động nhất định, người làm thuê được trả một khoản tiền công nhất định. Điều đó thậm chí còn làm người lao động cũng nhầm hiểu là người mua sức lao động đã trả công cho mình. Nhưng thật ra đó là bộ phận của giá trị mới do chính hao phí sức lao động của người lao động thuê làm ra .

Nguồn gốc của tiền công chính là do hao phí sức lao động của người lao động
làm thuê tự trả cho mình thông qua sổ sách của người mua hàng hóa sức lao động.

Hình thức biểu hiện đó đã gây ra sự nhầm lẫn. Điều đó là do những thực tế sau
đây:
Thứ nhất, đặc điểm của hàng hóa sức lao động là không bao giờ tách khỏi người
bán, nó chỉ nhận được giá cả khi đã cung cấp giá trị sử dụng cho người mua, tức là lao
động cho nhà tư bản, do đó bề ngoài chỉ thấy nhà tư bản trả giá trị cho lao động.
Thứ hai, đối với công nhân, toàn bộ lao động trong cả ngày là phương tiện để có
tiền sinh sống, do đó bản thân công nhân cũng tưởng rằng mình bán lao động. Còn đối
với nhà tư bản bỏ tiền ra là để có lao động, nên cũng nghĩ rằng cái mà họ mua là lao
động. Thứ ba, lượng của tiền công phụ thuộc vào thời gian lao động hoặc số lượng sản
phẩm sản xuầt ra, điều đó làm cho người ta lầm tưởng rằng tiền công là giá cả lao
động.

công không chỉ căn cứ vào tiền công ngày, mà phải căn cứ vào độ dài của ngày lao
động và cường độ lao động. Giá cả của một giờ lao động là thước đo chính xác mức
tiền công tính theo thời gian.
+ Tiền công tính theo sản phẩm là hình thức tiền công mà số lương của nó phụ
thuộc vào số lượng sản phẩm hay số lượng những bộ phận của sản phẩm mà công
nhân đã sản xuất ra hoặc là số lượng công việc đã hoàn thành.
Mỗi sản phẩm được trả công theo một đơn giá nhất định. Gọi là đơn giá tiền công
và nó được xác định bằng thương số giữa tiền công trung bình của công nhân trong
một ngày với số lượng sản phẩm trung bình mà một công nhân sản xuất ra trong một
ngày.
Đơn giá tiền công =

Do đó về thực ra, đơn giá tiền công là tiền công trả cho thời hạn thiết yếu sản xuất ra một loại sản phẩm. Vì thế tiền công tính theo mẫu sản phẩm là hình thức biến tướng của tiền công tính theo thời hạn .

Tác dụng:

  • Giúp cho nhà tư bản trong việc quản lý, giám sát quá trình lao động của công
    nhân dễ dàng hơn.
  • Kích thích công nhân lao động tích cực lao động, nâng cao tay nghề, khẩn
    trương tạo ra nhiều sản phẩm để nhận được tiền công cao hơn.
  • Đối với xã hội thì thể hiện sự công bằng hơn ( có làm thì mới có ăn, làm nhiều
    thì hưởng nhiều, làm ít thì hưởng ít.)
    3. Tiền công danh nghĩa và tiền công thực tế

Tiền công danh nghĩa là số tiền mà người công nhân nhận được do bán sức lao động của mình cho nhà tư bản. Tiền công được sử dụng để tái sản xuất sức lao động, nên tiền công danh nghĩa phải được chuyên hóa thành tiền công thực tế .

( Tiền công danh nghĩa là số tiền mà người lao động nhận được sau khi làm việc
→ Vì vậy đây là giá cả thị trường của hàng hóa sức lao động và phụ thuộc vào quan

hệ cung – cầu về hàng hóa sức lao động trên thị trường. nên nó hoàn toàn có thể tăng lên hay giảm xuống tùy theo sự dịch chuyển của quan hệ cung – cầu về hàng hóa sức lao động trên thị trường. Giả sử, nếu cung về sức lao động trên thị trường lớn hơn so với cầu về sức lao động thì lúc này tiền công danh nghĩa sẽ nhỏ hơn so với giá trị hàng hóa sức lao động. ) Tiền công thực tế là tiền công được bộc lộ bằng số lượng hàng hóa tiêu dùng và dịch vụ mà công nhân mua được bằng tiền công danh nghĩa của mình. ( Tiền công thực tế là số lượng tư liệu hoạt động và sinh hoạt và dịch vụ mà người lao động hoàn toàn có thể mua được bằng tiền công danh nghĩa. Ví dụ như lương thực, thực phẩm, những vật dụng hoạt động và sinh hoạt trong mái ấm gia đình, phương tiện đi lại đi lại, đi dạo vui chơi …. Vậy nên nó có quan hệ tỉ lệ thuận với tiền công danh nghĩa và quan hệ tỉ lệ nghịch với giả cả tư liệu hoạt động và sinh hoạt và dịch vụ khi những điều kiện kèm theo khác không đổi. Điều này biểu lộ rõ nét khi tiền công danh nghĩa không đổi nhưng có lạm phát kinh tế làm cho giá cả tư liệu hoạt động và sinh hoạt và dịch vụ tăng thì người làm công ăn lương với mức lương danh nghĩa như cũ sẽ giảm tiền lương thực tế. )Tiền công là giá cả của sức lao động, nên sự hoạt động của nó gắn liền với sự đổi khác của giá trị sức lao động. Lượng giá trị sức lao động chịu ảnh hưởng tác động của những tác nhân ảnh hưởng tác động ngược chiều nhau. Nhân tố ảnh hưởng tác động làm tăng giá trị sức lao động như : sự nâng cao trình độ trình độ của người lao động, sự tăng mức độ lao động và sự tăng lên của nhu yếu cùng với sự tăng trưởng của xã hội. Nhân tố ảnh hưởng tác động làm giảm giá trị sức lao động, đó là sự tăng hiệu suất lao động làm cho giá cả tư liệu tiêu dùng rẻ đi. Sự tác động ảnh hưởng qua lại của những tác nhân đó dẫn tới quy trình phức tạp của sự biến hóa giá trị sức lao động, do đó dẫn tới sự đổi khác phức tạp của tiền công thực tế. Tuy nhiên, C. Mác đã vạch ra rằng khuynh hướng chung của sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải là nâng cao mức tiền công trung bình mà là hạ thấp mức tiền công ấy. Bởi lẽ trong quá trĩnh tăng trưởng của chủ nghĩa tư bản, tiền công danh nghĩa có khuynh hướng tăng lên, nhưng mức tăng của nó nhiều khi không theo kịp mức tăng giá cả tư liệu tiêu dùng và dịch vụ ; đồng thời thất nghiệp là hiện tượng kỳ lạ tiếp tục, khiến cho cung về lao động làm thuê vượt quá cầu về lao động, điều đó cho phép nhà tư bản mua sức lao

+Có hai loại tiền công: Tiền công danh nghĩa và tiền công thực tế ( cái người
lao động quan tâm là tiền công thực tế. Từ đó hiểu được, trong điều kiện thực tế, nhà
nước luôn cố gắng giảm lạm phát, duy trì lạm phát ở mức thấp để ổn định được giá
cả của hàng hóa ( đặc biệt là hàng hóa thiết yếu), để ổn định được tiền công cho
người lao động vì tiền công thực tếcó quan hệ tỉ lệ nghịch với giả cả tư liệu sinh hoạt
và dịch vụ, nên để ổn đinh được cuộc sống của người lao động thì phải bình ổn được
giá cả nên đây là ý nghĩa rất lớn mà nhà nước chúng ta đang thực hiện.)

Source: https://vh2.com.vn
Category : Vận Chuyển