Networks Business Online Việt Nam & International VH2

Thu hút FDI trong bối cảnh mới: Cơ hội và thách thức cho Việt Nam

Đăng ngày 23 April, 2023 bởi admin
Sau hơn ba thập niên Open, khu vực kinh tế tài chính có vốn đầu tư nước ngoài trở thành một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế tài chính Việt Nam. Tuy nhiên, toàn cảnh xung đột thương mại trên quốc tế, xu thế tăng trưởng của cuộc Cách mạng công nghiệp ( CMCN ) 4.0, sự bùng phát của đại dịch Covid-19 trên toàn thế giới … cùng với sự trỗi dậy của chủ nghĩa bảo lãnh và chống tự do hóa thương mại đa phương trên quốc tế đã tác động ảnh hưởng đến việc kiểm soát và điều chỉnh dòng vốn đầu tư của những vương quốc. Do đó, cần nhận diện những thời cơ và thử thách Việt Nam phải đương đầu, từ đó đề xuất kiến nghị một số ít giải pháp cho Việt Nam nhằm mục đích thu hút có hiệu suất cao dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ( FDI ) trong toàn cảnh mới .

BỐI CẢNH MỚI ẢNH HƯỞNG TỚI THU HÚT FDI VÀO VIỆT NAM

Chiến tranh thương mại Mỹ – Trung và xu hướng dịch chuyển FDI ra khỏi Trung Quốc

Các nhà đầu tư có xu thế di dời hàng loạt hoặc một phần vốn FDI ra khỏi Trung Quốc để phong phú chuỗi đáp ứng, tránh phụ thuộc vào vào một thị trường nguồn vào. Trong toàn cảnh đó, Việt Nam có nhiều lợi thế trong việc thu hút FDI, như : vị trí địa lý thuận lợi ; chí phí sản xuất rẻ so với những nước trong khu vực ; môi trường tự nhiên kinh doanh thương mại và hạ tầng từng bước được cải tổ ; Việt Nam có nhiều nét tương đương về văn hóa truyền thống với một số ít đối tác chiến lược đầu tư là những vương quốc và vùng chủ quyền lãnh thổ khu vực Đông Bắc Á …

Đứt gãy chuỗi giá trị, chuỗi cung ứng và xu hướng dịch chuyển đầu tư

Thu hút FDI trong bối cảnh mới: Cơ hội và thách thức cho Việt Nam
Số vốn thực hiện của FDI vào Việt Nam liên tục tăng kể từ năm 2009

Các giải pháp phong tỏa và đóng cửa biên giới để ngăn ngừa dịch Covid-19 bùng phát đã khiến thương mại toàn thế giới đình trệ, chuỗi đáp ứng đứt gãy, dẫn tới làn sóng phá sản của doanh nghiệp khắp quốc tế, đặc biệt quan trọng trong nghành nghề dịch vụ hàng không, du lịch, kinh doanh bán lẻ … Lần tiên phong, vì sự đứt gãy bất ngờ đột ngột của chuỗi đáp ứng toàn thế giới mà hiện tượng kỳ lạ khan hiếm sản phẩm & hàng hóa đã xảy ra trên toàn quốc tế, đặc biệt quan trọng là trong nghành sản xuất, sản xuất xe hơi, thiết bị y tế … Trước tình hình này, những nước đã đa dạng hóa đầu tư nước ngoài, tăng cường nội địa hóa và khu vực hóa nhằm mục đích ngăn ngừa rủi ro đáng tiếc, bảo vệ sự không thay đổi cho chuỗi đáp ứng. Xu hướng chuyển dời chuỗi đáp ứng diễn ra nhằm mục đích giảm sự chịu ràng buộc vào một “ mắt xích ”, tăng tính bảo đảm an toàn cho mạng lưới hệ thống, kèm theo đó là những quyền lợi của mỗi vương quốc. Dịch Covid-19 và xung đột thương mại Mỹ – Trung được ví như “ chất xúc tác ” đẩy nhanh xu thế chuyển hoạt động giải trí sản xuất sang những nước khác hoặc đưa về trong nước để khai thác lợi thế về ngân sách, lao động hay dịch vụ phục vụ hầu cần. Hiện nay, những nước tăng trưởng đang dữ thế chủ động tái cấu trúc lại những chuỗi đáp ứng, trong đó Hoa Kỳ đang thực thi hình thành một liên minh “ những đối tác chiến lược đáng đáng tin cậy ” gọi là “ Mạng lưới thịnh vượng kinh tế tài chính ” ; EU thôi thúc kinh tế tài chính “ tự chủ chiến lược ”, trấn áp đầu tư ra nước ngoài ; Đức, Italia lao lý ngặt nghèo hơn so với đầu tư ra nước ngoài ; Pháp triển khai chiến lược “ sản xuất tại Pháp ” ; Nhật Bản dành khoản ngân sách 2,2 tỷ USD tương hỗ những doanh nghiệp đưa sản xuất từ Trung Quốc về nước và chuyển dời sản xuất ; Nước Hàn phát hành Luật thu hút những doanh nghiệp đã đầu tư ở nước ngoài quay về sản xuất, kinh doanh thương mại tại Nước Hàn …

Chính sách ứng phó và hỗ trợ doanh nghiệp của Chính phủ Việt Nam trước đại dịch Covid-19

Qua 4 lần bùng phát dịch bệnh Covid-19 ở Việt Nam, nhà nước đã đồng nhất triển khai kế hoạch 5K trong phòng chống dịch ( Khẩu trang – Khử khuẩn – Khoảng cách – Không tập trung chuyên sâu – Khai báo y tế ). Trong toàn cảnh dịch bệnh phức tạp, nhiều chủ trương nhằm mục đích tăng cường sức đề kháng cho nền kinh tế tài chính, nâng cao năng lượng ứng phó khi dịch bệnh lê dài, tạo tiềm lực để hồi sinh nền kinh tế tài chính nhanh gọn đã được nhà nước nêu ra. Những chủ trương tương hỗ những doanh nghiệp, gồm có cả những doanh nghiệp FDI, được tiến hành triển khai, như : giảm giá kinh doanh bán lẻ điện cho những ngành sản xuất và kinh doanh thương mại ; tương hỗ vốn ; gia hạn nộp thuế và tiền thuê đất, miễn, giảm lãi, phí theo lao lý nội bộ của tổ chức triển khai tín dụng thanh toán ; doanh nghiệp được vay tiền để trả lương ngừng việc cho người lao động … Điều đó tạo nên sự tin cậy so với những doanh nghiệp FDI đang sản xuất, kinh doanh thương mại tại Việt Nam và ăn được điểm so với những nhà đầu tư nước ngoài đang có dự tính đầu tư vào nước ta.

Sự ổn định của kinh tế vĩ mô và các hiệp định thương mại tự do được ký kết

Trong những năm qua bức tranh kinh tế tài chính vĩ mô của Việt Nam luôn không thay đổi và tươi tắn. Năm 2020, dưới tác động ảnh hưởng xấu đi của đại dịch Covid-19, tăng trưởng kinh tế tài chính của Việt Nam đạt 2,91 % giảm so với những năm trước đây nhưng là một trong số ít những vương quốc đạt mức tăng trưởng kinh tế tài chính dương. Mặt khác, Việt Nam hiện đang rất tích cực tham gia vào những hiệp định thương mại tự do ( FTA ). Các FTA góp thêm phần tăng cường quan hệ thương mại giữa nước ta và những đối tác chiến lược, dỡ bỏ những rào cản thương mại để tham gia sâu hơn vào chuỗi sản xuất và đáp ứng toàn thế giới. Như vậy, sự không thay đổi của kinh tế tài chính vĩ mô và việc Việt Nam tham gia nhiều FTA đã mở ra thời cơ mới để thu hút nhiều hơn dòng vốn FDI.

Chủ trương và chính sách mới của Đảng, Nhà nước về thu hút FDI

Đảng và Nhà nước luôn nhìn nhận cao vị trí, vai trò của vốn FDI so với quy trình tăng trưởng, tăng trưởng kinh tế tài chính tại Việt Nam. Trong toàn cảnh quốc tế có nhiều dịch chuyển lớn, để tạo cơ sở pháp lý thu hút nhiều hơn nữa FDI, Đảng và Nhà nước đã đề ra chủ trương, chủ trương mới : Luật Đầu tư năm 2020 ( có hiệu lực thực thi hiện hành từ ngày 01/01/2021 ), đã thừa kế và khắc phục những hạn chế của Luật Đầu tư năm năm trước và có nhiều điểm mới tạo động lực cho thu hút FDI vào Việt Nam, như : giảm số lượng ngành, nghề đầu tư kinh doanh thương mại có điều kiện kèm theo từ 243 xuống còn 227 ngành và bổ trợ nhiều ngành nghề được khuyến mại đầu tư ; lan rộng ra thời cơ cho thị trường mua và bán, sáp nhập doanh nghiệp ( M&A ). Ngoài ra, Việt Nam cũng đã sửa đổi, bổ trợ và triển khai xong mạng lưới hệ thống chủ trương kinh tế tài chính, như : Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp, Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu … cùng với mạng lưới hệ thống những văn bản hướng dẫn về chính sách, chủ trương khuyến khích những doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. Việc triển khai xong mạng lưới hệ thống pháp lý, đặc biệt quan trọng là pháp lý về đầu tư hứa hẹn những dòng vốn đầu tư FDI vào nước ta trong tương lai ngày càng lớn hơn.

THỰC TRẠNG THU HÚT FDI VÀO VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH MỚI

Trong hơn 30 năm thu hút vốn FDI tại Việt Nam ( 1988 – 2020 ), năm 2019 là năm thu hút FDI lớn thứ 2 sau năm 2008 ( 64 tỷ USD ). Kết quả này đạt được là do tác động ảnh hưởng của xu thế di dời vốn FDI ra khỏi Trung Quốc sau cuộc chiến tranh thương mại Mỹ – Trung. Làn sóng đầu tư của Trung Quốc ( gồm có cả Đài Loan, Hồng Kông ) vào Việt Nam đều tăng mạnh, nhằm mục đích tránh những ảnh hưởng tác động xấu đi của cuộc chiến tranh thương mại Mỹ – Trung. Năm 2019, đầu tư từ Trung Quốc tăng gần 1,65 lần, Hồng Kông tăng 2,4 lần so với cùng kỳ 2018. Riêng năm 2020, trong toàn cảnh đại dịch Covid-19, Việt Nam vẫn thu hút được FDI với tổng số vốn ĐK đạt 28,530 tỷ USD. Mặc dù, giảm so với những năm gần đây, nhưng số lượng này lớn hơn rất nhiều so với tiến trình sau 2008. Thông qua tổng số vốn ĐK đầu tư ngày càng lớn vào nước ta, cho thấy sự kỳ vọng, niềm tin của nhà đầu tư nước ngoài và cũng biểu lộ mức độ mê hoặc của chủ trương thu hút FDI của Việt Nam.

Thu hút FDI trong bối cảnh mới: Cơ hội và thách thức cho Việt Nam

Nhìn cả quá trình 2000 – 2020 cho thấy, số vốn triển khai của FDI vào Việt Nam liên tục tăng từ năm 2009 ( Hình ). Số vốn triển khai tăng bộc lộ hiệu suất cao của hoạt động giải trí thực thi đầu tư, chính sách quản trị nhà nước, hiệu lực hiện hành thực thi của những văn bản pháp lý. Tuy nhiên, tỷ trọng số vốn thực thi so với tổng số vốn ĐK trong quy trình tiến độ 2008 – 2020 chỉ ở mức trung bình, chỉ có 2 năm là 2011 và 2020 có tỷ trọng số vốn triển khai chiếm 70,43 % và 70 % so với tổng số ĐK. Đợt bùng phát dịch Covid-19 lần thứ 4 của vi rút biến thể Delta lan rộng trong khoanh vùng phạm vi cả nước, đặc biệt quan trọng tại những khu vực kinh tế tài chính trọng điểm phía Bắc và phía Nam, TP. Hồ Chí Minh và những tỉnh công nghiệp lân cận. Nhiều tỉnh, thành phố phải triển khai giãn cách xã hội theo Chỉ thị 16 đã ảnh hưởng tác động nghiêm trọng đến những nỗ lực và thành quả chống dịch và hồi sinh kinh tế tài chính sau 3 đợt dịch Covid-19 trong năm 2020 và đầu năm 2021. Hàng vạn doanh nghiệp trong đó có những doanh nghiệp FDI phải thu hẹp, thậm chí còn dừng sản xuất. Hệ thống luân chuyển, đáp ứng, lưu thông sản phẩm & hàng hóa ách tắc, những chuỗi sản xuất, đáp ứng đứt gãy, hàng loạt đơn hàng bị hủy và chuyển ra khỏi Việt Nam. Trong những điều kiện kèm theo khó khăn chưa từng xảy ra ở trong nước cùng với FDI toàn thế giới giảm từ 1.500 tỷ USD năm 2019 xuống 990 tỷ USD năm 2020, những thành quả thu hút FDI 9 tháng 2021 được xem là “ điểm sáng ” của bức tranh kinh tế tài chính Việt Nam, đã vượt qua những thử thách to lớn trong đại dịch. Cụ thể, theo Cục Đầu tư nước ngoài ( Bộ Kế hoạch và Đầu tư ), tính đến ngày 20/9/2021, tổng vốn ĐK cấp mới, kiểm soát và điều chỉnh và góp vốn, mua CP, mua phần vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài đạt 22,15 tỷ USD, tăng 4,4 % so với cùng kỳ năm ngoái. Trong 9 tháng của năm 2021, Việt Nam có 1.212 dự án Bất Động Sản mới được cấp giấy ghi nhận đang ĐK đầu tư ( giảm 37,8 % ), tổng số vốn ĐK mới đạt gần 12,5 tỷ USD ( tăng 20,6 % so với cùng kỳ ). Tổng vốn ĐK tăng thêm đạt 6,4 tỷ USD ( tăng 25,6 % so với cùng kỳ ). Các nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư vào 18 ngành trong mạng lưới hệ thống phân ngành kinh tế tài chính quốc dân, trong đó nghành công nghiệp chế biến, sản xuất chiếm tỷ trọng cao nhất với 11.8 tỷ USD, chiếm 53,4 %. Tiếp theo là sản xuất phân phối điện với 5,5 tỷ USD ( chiếm 5,5 % ) ; những nghành nghề dịch vụ còn lại với 2,53 tỷ USD ( chiếm 25 %. Các dự án Bất Động Sản này đến từ 94 vương quốc và vùng chủ quyền lãnh thổ, trong đó đứng đầu là Nước Singapore với tổng vốn ĐK là 6,3 tỷ ( chiếm 28,4 % ) ; kế đến là Nước Hàn với tổng vốn ĐK 3,9 tỷ USD ( chiếm 17,7 % ) ; Nhật Bản đứng thứ ba với 3,3 tỷ USD ( chiếm 14,7 % ).

CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC TRONG THU HÚT FDI CỦA VIỆT NAM

Cơ hội

Cơ hội khi Việt Nam liên tiếp ký kết các FTA thế hệ mới. Các FTA thế hệ mới (đặc biệt là CPTPP) đã giúp Việt Nam tiếp cận với nền kinh tế của 60 nước, trong đó có 15/20 nước thuộc khối G20. Thông qua việc đàm phán và ký kết các FTA, các nhà đầu tư nước ngoài bắt đầu chú ý, quan tâm nhiều hơn đến thị trường Việt Nam. Minh chứng điển hình là sự gia tăng về vốn đầu tư từ các quốc gia như Hàn Quốc, Nhật Bản… năm 2019 và đây đều là các đối tác chủ chốt trong các FTA đã có hiệu lực. Khi các FTA có hiệu lực, hàng hóa xuất khẩu có xuất xứ từ Việt Nam sẽ được hưởng những ưu đãi, đặc biệt là về hàng rào thuế quan. Do đó, các nhà đầu tư nước ngoài sẽ tăng cường đầu tư vào Việt Nam để tận dụng cơ hội này. FTA giúp cho việc tiết kiệm chi phí vận chuyển sản phẩm trung gian và sản phẩm cuối cùng giữa công ty mẹ ở nước đầu tư và các công ty con đặt ở các nước tiếp nhận. Bên cạnh đó, FTA giúp hình thành mạng lưới doanh nghiệp khu vực, giúp làm giảm chi phí dịch vụ. Đây là điều mà các nhà đầu tư nước ngoài tìm kiếm nhằm tận dụng được các nguồn lực tại các nước tiếp nhận nguồn đầu tư.

Cơ hội khi luồng vốn FDI dịch chuyển do tác động của chiến tranh thương mại Mỹ – Trung. Chiến tranh thương mại Mỹ – Trung thời kỳ tổng thống Mỹ mới là ông Biden vẫn tiếp tục, nhiều công ty công nghệ của Hoa Kỳ, Nhật Bản rời Trung Quốc sang các nước khác đầu tư và Việt Nam được coi là một điểm đến: Tập đoàn Pegatron (Đài Loan) – một trong 5 nhà sản xuất linh kiện, sản phẩm điện tử hàng đầu thế giới – đang đề xuất đầu tư khoảng 1 tỷ USD để xây dựng nhà máy sản xuất tại khu công nghiệp Nam Đình Vũ, TP. Hải Phòng. Đáng lưu ý, Pegatron cũng đang có ý định đưa trung tâm nghiên cứu và phát triển (R&D) từ Trung Quốc về Việt Nam vào thời điểm phù hợp. Dự án này đi vào hoạt động dự kiến sẽ tạo việc làm cho khoảng 22.500 lao động trực tiếp và đóng góp vào nguồn thu ngân sách ở thời kỳ đầu khoảng 100 tỷ đồng/năm. Foxconn, Luxshare vào Việt Nam được 3 năm và đang tăng tốc đầu tư và đẩy mạnh sản xuất tại Việt Nam và nhiều dự án chất lược cao khác nữa.

Cơ hội khi luồng vốn FDI dịch chuyển do tác động của đại dịch Covid-19. Đại dịch Covid-19 là chất xúc tác thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch, sắp xếp lại chuỗi cung ứng toàn cầu. Đây cũng chính là cơ hội để các nước trên thế giới nhận thấy sự phụ thuộc lớn vào các chuỗi sản xuất, cung ứng từ Trung Quốc. Chính vì lý do này, các tập đoàn đa quốc gia muốn dịch chuyển đầu tư sang các nước châu Á khác, như: Indonesia, Malaysia, Ấn Độ, Việt Nam, Thái Lan, Philippines… Đơn cử, các công ty, như: Apple, Nintendo, HP, Dell đã có kế hoạch di chuyển khỏi Trung Quốc và điểm đến có thể là Ấn Độ; Nikkei Asian Review, Google và Microsoft đang chuyển một số dây chuyền sản xuất của họ từ Trung Quốc sang Việt Nam và Thái Lan.

Cơ hội được nhà đầu tư nước ngoài đánh giá có vị trí chiến lược trong đảm bảo chuỗi cung ứng toàn cầu, là điểm đến đầu tư an toàn và hấp dẫn. Đối với các nhà đầu tư, Việt Nam cũng có thể là một lựa chọn thay thế cho Trung Quốc, từ đó Việt Nam có thể được hưởng lợi từ việc đón đầu tư nước ngoài, thúc đẩy khả năng tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Thực tế là sau khi chiến tranh thương mại Mỹ – Trung diễn ra, nhiều nhà đầu tư từ Mỹ, Anh, Nhật Bản… và cả những nhà đầu tư Trung Quốc đã cân nhắc đến khả năng dịch chuyển đầu tư từ thị trường Trung Quốc sang thị trường Việt Nam. Trong những năm gần đây, sức hấp dẫn của môi trường đầu tư Việt Nam đối với nhà đầu tư nước ngoài ngày càng tăng. Bên cạnh những lợi thế truyền thống, như: vị trí địa lý chiến lược, lao động giá rẻ, nền chính trị hòa bình ổn định…, Việt Nam hiện nay còn thu hút nhà đầu tư nước ngoài bởi môi trường đầu tư ngày càng năng động, cởi mở, có nhiều chính sách khuyến khích ưu đãi của chính quyền đối với nhà đầu tư nước ngoài. Đặc biệt, việc Việt Nam chính thức tham gia vào 2 FTA (CPTPP và EVFTA) đã giúp các nhà sản xuất tiếp cận tốt hơn các thị trường xuất khẩu lớn. Do đó, Việt Nam được đánh giá là một trong những điểm đến quan trọng của dòng FDI dịch chuyển khỏi Trung Quốc.

Thách thức trong thu hút FDI vào Việt Nam

Bên cạnh những thời cơ, Việt Nam cũng còn phải đương đầu trước nhiều thử thách trong quy trình thu hút nguồn vốn quan trọng này. Những thử thách cơ bản hoàn toàn có thể được kể đến là :

Thách thức hoàn thiện cơ chế, chính sách, nâng cao năng lực pháp lý, năng lực quản lý và quản trị, chất lượng nhân lực

Việt Nam cần phải vượt qua những thử thách đang trực tiếp ảnh hưởng tác động đến thiên nhiên và môi trường đầu tư, như : sự thiếu không thay đổi về chủ trương, những lao lý pháp lý chưa rõ ràng và thiếu minh bạch, gây ra những khó khăn cho nhà đầu tư trong quy trình thực thi ; hạ tầng cho những hoạt động giải trí logistics chưa tăng trưởng đồng điệu ; nguồn nhân lực có trình độ trình độ cao còn hạn chế, thủ tục hành chính vẫn còn phức tạp … Một số nhà đầu tư nước ngoài chưa hài lòng về năng lực phân phối nhu yếu công khai minh bạch, minh bạch, không thay đổi, dễ dự báo về thể chế, chủ trương, pháp luật ; thực thi pháp lý nghiêm minh, thống nhất, bảo vệ quyền và quyền lợi hợp pháp của nhà đầu tư ở Việt Nam. Do đó, đây cũng là rào cản cần được tháo gỡ trong thời hạn tới.

Thách thức do khả năng kết nối với doanh nghiệp FDI của doanh nghiệp trong nước yếu, cùng các khó khăn trong phát triển công nghiệp phụ trợ và tham gia chuỗi cung cứng toàn cầu

Các doanh nghiệp tại Việt Nam hiện nay gặp khó khăn trong việc tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu và chưa đủ năng lực để chuyển đổi mô hình sản xuất, kinh doanh cho phù hợp với xu thế mới, từ đó làm giảm năng lực cạnh tranh so với các doanh nghiệp nước ngoài. Hay nói cách khác, các doanh nghiệp Việt Nam có nguy cơ “thua ngay trên sân nhà” và Nhà nước không thể can thiệp vì những ràng buộc về các nguyên tắc của các FTA. Công nghiệp hỗ trợ phục vụ cho các dự án công nghệ cao của Việt Nam còn nhiều hạn chế, doanh nghiệp nội địa nhỏ về quy mô, trình độ công nghệ thấp nên chưa thể trở thành vệ tinh, là mắt xích trong chuỗi cung ứng của các tập đoàn đa quốc gia. Thực trạng này dẫn tới hạn chế tính lan tỏa của các dự án FDI đối với phát triển các ngành kinh tế Việt Nam. Mặc dù, cơ sở hạ tầng: đường xá, cầu cảng, điện, internet của các vùng miền Việt Nam có nhiều cải thiện, nhưng so với nhiều nước vẫn còn chưa đồng bộ, tắc nghẽn giao thông, chi phí vận tải cao, điện nước chập chờn, đặc biệt ở Tây Nam Bộ và vùng Kinh tế trọng điểm phía Nam. Tình trạng này tác động bất lợi đến khả năng thu hút các dự án lớn có trình độ công nghệ cao.

Thách thức suy giảm dòng vốn FDI toàn cầu

Theo dự báo của WIPA ( 2020 ), lượng vốn FDI toàn thế giới sẽ sụt giảm tới 30 % – 40 % trong tiến trình 2020 – 2021. Thêm vào đó, xu thế ưu tiên chuyển dời sản xuất từ nước ngoài về trong nước hoặc những nước gần đang dần ngày càng tăng nhằm mục đích nâng cao tính dữ thế chủ động của nhiều nước trong chuỗi đáp ứng, dẫn đến thực trạng cạnh tranh đối đầu trong thu hút đầu tư càng trở nên nóng bức. Trong khi những nguồn vốn đầu tư đang sụt giảm, thì những thị trường mới nổi mê hoặc nhà đầu tư ngày càng Open nhiều, như : Ấn Độ, Xứ sở nụ cười Thái Lan, Indonesia … với đủ những hình thức thu hút đầu tư mê hoặc khác nhau. Họ có lợi thế tương đương hoặc riêng không liên quan gì đến nhau vẫn đang cạnh tranh đối đầu kinh khủng với Việt Nam. Các vương quốc này cũng đang phát hành nhiều chủ trương rất can đảm và mạnh mẽ để giữ chân, cũng như lôi kéo những nhà đầu tư nước ngoài, như : khuyễn mãi thêm về thuế, kiến thiết xây dựng những khu công nghiệp, gói tương hỗ đào tạo và giảng dạy thợ tay nghề cao, hoặc những cam kết sẽ cải tổ môi trường tự nhiên kinh doanh thương mại trong nước …

Thách thức khi dịch Covid-19 đã làm đứt gãy nhiều chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu nguy cơ của sự “tháo chạy” FDI khỏi Việt Nam

Đại dịch Covid-19 đã tác động ảnh hưởng đến toàn bộ những nghành kinh tế tài chính – xã hội của Việt Nam, làm gián đoạn những chuỗi đáp ứng và cản trở những hoạt động giải trí thương mại, đầu tư … Dịch bệnh đang liên tục lây lan với vận tốc nhanh trên diện rộng tại nhiều nước trên quốc tế, đặc biệt quan trọng đã Open chủng vi rút mới có năng lực lây lan mạnh hơn tại khoảng chừng 40 vương quốc, khiến nhiều nước phải vận dụng những giải pháp mạnh, tái phong tỏa để phòng, chống dịch. Việt Nam vẫn đang liên tục chống dịch trong diễn biến tình hình dịch ngày càng phức tạp và khó trấn áp. Trong công văn “ Đề xuất kế hoạch phòng ngừa và trấn áp đại dịch nhằm mục đích Phục hồi hoạt động giải trí sản xuất, kinh doanh thương mại bảo đảm an toàn trong trạng thái chống dịch mới ” ngày 17/9/2021 của những hiệp hội doanh nghiệp nước ngoài : Amcham, Eurocham, Korcham, US-ASEAN gửi Thủ tướng nhà nước đã cho biết, 20 % những doanh nghiệp thành viên của họ đã chuyển 1 số ít hoạt động giải trí sản xuất sang vương quốc khác do thực trạng ngưng trệ sản xuất và ách tắc logistics, rất nhiều đơn hàng của những doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp Việt Nam đã được chuyển ra nước ngoài. Tuy nhiên, cũng trong công văn của những hiệp hội doanh nghiệp nước ngoài, một mặt họ khẩn thiết yêu cầu Thủ tướng nhà nước những giải pháp tháo gỡ khó khăn, Phục hồi sản xuất trong trạng thái thông thường mới cho những doanh nghiệp FDI, mặt khác, họ cũng bộc lộ quyết tâm cùng hợp tác, san sẻ, chung tay cùng người dân và nhà nước Việt Nam vượt qua đại dịch, biểu lộ nghĩa vụ và trách nhiệm xã hội cao và tình cảm gắn bó, nguyện vọng liên tục làm ăn vĩnh viễn tại Việt Nam. Do đó, đây vẫn là một trong những thử thách lớn nhất, mà Việt Nam cần phải vượt qua, để trở thành điểm đến bảo đảm an toàn của nhà đầu tư nước ngoài.

MỘT SỐ KIẾN NGHỊ

Bối cảnh mới với nhiều thời cơ và thử thách như lúc bấy giờ yên cầu Việt Nam cần phải có những đổi khác về xu thế kế hoạch thu hút FDI trong thời hạn tới, đơn cử như sau :

Thứ nhất, Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với Bộ Ngoại giao và các bộ, ngành khác xây dựng chiến lược thu hút vốn đầu tư từ các tập đoàn công nghệ lớn trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt (địa bàn địa phương, ngành công nghệ ưu tiên, chính sách khuyến khích, hỗ trợ đầu tư mang tính cạnh tranh…).

Thứ hai, tiếp tục tập trung phòng ngừa và kiểm soát dịch bệnh Covid-19, song song với đó phục hồi nền kinh tế sau đại dịch để các nhà đầu tư có thể yên tâm tiếp cận, tìm hiểu thị trường Việt Nam. Duy trì ổn định môi trường vĩ mô, nâng cao sức chống chịu của nền kinh tế đối với các cú sốc từ bên ngoài. Đồng thời, luôn đảm bảo tính nhất quán, ổn định và phù hợp của các cơ chế chính sách về: thuế, đất đai, lao động… để các nhà đầu tư nước ngoài yên tâm xây dựng kế hoạch đầu tư dài hạn tại Việt Nam.

Thứ ba, rà soát, cập nhật, điều chỉnh phù hợp trong việc phân cấp phê duyệt đầu tư, tinh gọn quy trình, thủ tục nhanh gọn; công bố quy định, quy trình công khai minh bạch. Xây dựng các chiến lược dài hạn cải thiện mạnh mẽ môi trường kinh doanh, đảm bảo công khai, minh bạch, thủ tục hành chính cần được tiếp tục đơn giản hóa, thuận tiện, hiệu quả… Đẩy mạnh đầu tư, nâng cấp cơ sở hạ tầng đồng bộ (khu công nghiệp, điện, nước, hạ tầng giao thông vận tải, thông tin, logistics, dịch vụ đi kèm khu công nghiệp…).

Thứ tư, cần chuẩn bị chiến lược thu hút FDI trong dài hạn, chuyển trọng điểm chính sách thu hút, hợp tác đầu tư nước ngoài từ số lượng sang chất lượng, ưu tiên các dự án có giá trị gia tăng cao, mô hình quản lý hiện đại. Chủ động thu hút dự án FDI theo hướng có chọn lọc; chủ động đối với những dự án FDI đặc biệt như là dự án có nguồn vốn lớn, ngành nghề kinh doanh tập trung vào những mục tiêu trọng điểm quốc gia, thì nên có những chính sách riêng nhằm thu hút được hiệu quả.

Thứ năm, cần khuyến khích, tạo điều kiện của các dự án FDI đầu tư và sản xuất tại Việt Nam theo hình thức liên doanh với doanh nghiệp trong nước, để doanh nghiệp Việt Nam có điều kiện tiếp cận với công nghệ, kỹ năng quản lý hiện đại của doanh nghiệp FDI, đồng thời giúp doanh nghiệp FDI tập trung vào khâu trọng điểm để tạo ra sản phẩm./.

Tài liệu tham khảo

1. Bộ Chính trị ( 2019 ). Nghị quyết số 50 – NQ / TW, ngày 20/8/2019 về xu thế triển khai xong thể chế, chủ trương, nâng cao chất lượng, hiệu suất cao hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030 ; 2. Bộ Kế hoạch và Đầu tư ( 2020 – 2021 ). Báo cáo tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài năm 2020 ; Báo cáo tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài 9 tháng đầu năm 2021 3. Tổng cục Thống kê ( 2001 – 2021 ). Niên giám Thống kê những năm, từ năm 2000 đến 2020, Nxb Thống kê 4. Trường Đại học Kinh tế ( Đại học Quốc gia Thành Phố Hà Nội ), Trường Đại học Hải Phòng Đất Cảng, Trường Đại học Thương mại và Ban quản trị Khu Kinh tế Hải Phòng Đất Cảng ( 2021 ). Tài liệu Hội thảo khoa học quốc tế “ FDI toàn thế giới và ứng biến của doanh nghiệp FDI tại Việt Nam trong toàn cảnh mới ” ( Global FDI and responses of FDI enterprises in Vietnam in the new context ), Thành Phố Hà Nội, ngày 08/10/2021 5. Lê Xuân Sang ( 2021 ). Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong toàn cảnh mới, Tạp chí Tài chính, kỳ 1 + 2, tháng 02/2021 6. Gia Anh ( 2021 ). Giữ chân doanh nghiệp FDI – Bài 3 : Doanh nghiệp FDI yêu cầu nhiều chủ trương quan trọng, truy vấn từ https://nhadautu.vn/giu-chan-doanh-nghiep-fdi–bai-3-doanh-nghiep-fdi-kien-nghi-nhieu-chinh-sach-quan-trong-d57661.html

NCS. Nguyễn Ngọc Diệp

Viện Nghiên cứu lý thuyết và ứng dụng – Đại học Duy Tân

ThS. Hà Hải Giang, ThS. Nguyễn Thị Ngọc Nghĩa

Trường Đại học Kinh tế – Đại học Duy Tân

TS. Lê Mai Trang

Trường Đại học Thương mại

(Bài đăng trên Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 31 năm 2021)

Source: https://vh2.com.vn
Category : Doanh Nghiệp