Nguồn gốc và bản chất của tiền thể hiện ở quá trình phát triển của hình thái giá trị trao đổi, hay nói cách khác, các hình thái biểu hiện...
VCCI_Góp ý về việc sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ “Danh mục hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và kinh doanh có điều kiện” quy định tại Nghị định 59/2006/NĐ-CP – VIB Online
Trả lời Công văn số 3116 / BCT-TTTN của Bộ Công Thương về việc đề xuất cho quan điểm so với việc sửa đổi, bổ trợ hoặc bãi bỏ “ Danh mục hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và kinh doanh có điều kiện ” pháp luật tại Nghị định 59/2006 / NĐ-CP, Phòng Thương mại và Công nghiệp Nước Ta ( VCCI ) có 1 số ít quan điểm như sau :
- Tính pháp lý
Điều 25 Luật Thương mại 2005 trao quyền cho nhà nước pháp luật về Danh mục hàng hóa cấm kinh doanh, hàng hóa hạn chế kinh doanh, hàng hóa kinh doanh có điều kiện và điều kiện để được kinh doanh hàng hóa đó. Nghị định 59/2006 / NĐ-CP hướng dẫn Điều này của Luật Thương mại 2005 .
Khoản 2 Điều 14 Hiến pháp 2013 quy định: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng.”, khoản 2 Điều 2 Bộ luật dân sự 2015 quy định “Quyền dân sự chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng.”. Theo các quy định này, quy định liên quan đến hạn chế quyền của công dân đều phải được quy định tại văn bản cấp luật. Nghị định 59/2006/NĐ-CP ban hành Danh mục hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh là chưa phù hợp về mặt thẩm quyền ban hành theo quy định tại Hiến pháp 2013, Bộ luật dân sự 2015.
Mặc dù, Nghị định 59/2006 / NĐ-CP hướng dẫn Luật Thương mại 2005 nhưng Luật Thương mại 2005 phát hành trước Hiến pháp 2013 và Bộ luật dân sự năm ngoái. Theo lao lý tại khoản 1 Điều 119 Hiến pháp 2013, khoản 3 Điều 156 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm ngoái, pháp luật về thẩm quyền lao lý về hạn chế quyền của công dân sẽ vận dụng theo pháp luật tại Hiến pháp 2013, Bộ luật dân sự năm ngoái .
- Tính thống nhất
Nghị định 59/2006 / NĐ-CP lao lý về Danh mục hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh, kinh doanh có điều kiện. Điều kiện để được kinh doanh những loại hàng hóa trong những Danh mục này được vận dụng trên “ chủ thể kinh doanh ” ( tức là : những chủ thể kinh doanh phải phân phối những điều kiện nhất định mới được phép kinh doanh những loại hàng hóa, dịch vụ ) chứ không phải là “ điều kiện của hàng hóa, dịch vụ ” .
Luật Đầu tư 2020 quy định Danh mục ngành nghề cấm góp vốn đầu tư kinh doanh, kinh doanh có điều kiện, trong đó xác lập điều kiện để được kinh doanh những ngành nghề trong Danh mục được vận dụng trên “ chủ thể kinh doanh ” .
Như vậy, đặc thù của hai loại Danh mục của Nghị định 59/2006 / NĐ-CP và Luật Đầu tư 2020 là giống nhau, đều ràng buộc điều kiện so với chủ thể kinh doanh. Theo lao lý tại khoản 2 Điều 4 Luật Đầu tư 2020 “ Trường hợp có pháp luật khác nhau giữa Luật Đầu tư và luật khác đã được phát hành trước ngày Luật Đầu tư có hiệu lực hiện hành thi hành về ngành, nghề cấm góp vốn đầu tư kinh doanh hoặc ngành, nghề góp vốn đầu tư kinh doanh có điều kiện thì triển khai theo lao lý của Luật Đầu tư. ”. Như vậy, những pháp luật về ngành, nghề cấm kinh doanh, kinh doanh có điều kiện sẽ vận dụng theo pháp luật tại Luật Đầu tư 2020 .
Mặt khác, nếu xem xét các loại hàng hóa, dịch vụ trong Danh muc của Nghị định 59/2006/NĐ-CP nhận thấy:
- Về hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh, kinh doanh có điều kiện và ngành nghề cấm đầu tư kinh doanh, kinh doanh có điều kiện
Danh mục tại Nghị định 59/2006 / NĐ-CP có 1 số ít điểm khác so với Danh mục lao lý tại Điều 6 Luật Đầu tư 2020 : một số ít hàng hóa, dịch vụ pháp luật tại nghị định không có hoặc đã sửa đổi trong Luật Đầu tư. Việc sống sót Danh mục tại Nghị định 59/2006 / NĐ-CP đưa đến những rủi ro đáng tiếc pháp lý cho doanh nghiệp, do tại Nghị định này vẫn đang có hiệu lực thực thi hiện hành, nếu kinh doanh những loại hàng hóa, dịch vụ không có trong Danh mục của nghị định nhưng lại có trong Danh mục của Luật Đầu tư, doanh nghiệp sẽ không phải cung ứng điều kiện gì nếu theo pháp luật tại nghị định, nhưng lại phải cung ứng điều kiện kinh doanh nếu theo lao lý tại Luật Đầu tư và ngược lại ;
- Các hàng hóa, dịch vụ được liệt kê trong Danh mục tại Nghị định 59/2006/NĐ-CP được dẫn chiếu tới các văn bản quy định chi tiết, rất nhiều văn bản này đã hết hiệu lực. Tên của hàng hóa, dịch vụ trong Danh mục này cùng với cơ chế quản lý cũng đã thay đổi theo quy định hiện hành. Ví dụ: các dịch vụ liên quan đến hàng hải (dịch vụ kiểm đếm hàng hóa; dịch vụ vệ sinh tàu biển; dịch vụ xếp dỡ hàng hóa tại cảng biển), pháp luật về hàng hải không còn quy định chi tiết về các dịch vụ này nữa. Vì vậy, nếu áp dụng theo Nghị định 59/2006/NĐ-CP doanh nghiệp sẽ không biết áp dụng theo quy định nào, tại văn bản nào.
Theo pháp luật tại khoản 2 Điều 4 Luật Đầu tư 2020 : “ Quy định về tên ngành, nghề cấm góp vốn đầu tư kinh doanh, ngành, nghề góp vốn đầu tư kinh doanh có điều kiện trong những luật khác phải thống nhất với Điều 6 và những Phụ lục của Luật Đầu tư ”. Như vậy, việc phong cách thiết kế tên của hàng hóa, dịch vụ ( có đặc thù tựa như như là ngành nghề kinh doanh ) tại Danh mục là chưa tương thích với nguyên tắc về tên gọi theo pháp luật tại Luật Đầu tư 2020 .
- Tính chất của Danh mục quy định tại Nghị định 59/2006/NĐ-CP
Không rõ Nghị định 59/2006 / NĐ-CP có tập hợp toàn bộ những hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh, kinh doanh có điều kiện không ? Các văn bản khác không được phát hành thêm và / hoặc khác những hàng hóa, dịch vụ đã được liệt kê trong Danh mục tại Nghị định 59/2006 / NĐ-CP ? Danh mục trong nghị định này có tương tự như như đặc thù của Danh mục ngành nghề cấm góp vốn đầu tư kinh doanh, kinh doanh có điều kiện pháp luật tại Luật Đầu tư 2020 không ? Đây là yếu tố chưa được làm rõ trong Nghị định 59/2006 / NĐ-CP cũng như Luật Thương mại 2005. Chính vì thế, những hàng hóa, dịch vụ trong Danh mục lao lý tại Nghị định 59/2006 / NĐ-CP chưa bộc lộ rõ vai trò, ý nghĩa hay tiềm năng chủ trương .
Mặt khác, việc ban hành Danh mục tập hợp tất cả các hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh, kinh doanh có điều kiện trong một văn bản cấp nghị định, sẽ gặp khó khăn trong việc kiểm soát các văn bản cùng cấp hay các văn bản cấp luật ban hành thêm các hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, kinh doanh có điều kiện.
Tóm lại, từ những phân tích ở các điểm trên, việc bãi bỏ Danh mục hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh, kinh doanh có điều kiện là có cơ sở và phù hợp.
Trên đây là những quan điểm của Phòng Thương mại và Công nghiệp Nước Ta so với việc sửa đổi, bổ trợ hoặc bãi bỏ “ Danh mục hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và kinh doanh có điều kiện ” tại Nghị định 59/2006 / NĐ-CP .
Trân trọng cảm ơn sự hợp tác của quý Cơ quan .
Source: https://vh2.com.vn
Category : Vận Chuyển