Nguồn gốc và bản chất của tiền thể hiện ở quá trình phát triển của hình thái giá trị trao đổi, hay nói cách khác, các hình thái biểu hiện...
Giáo dục đại học là hàng hóa công cộng hay hàng hóa cá nhân – Tài liệu text
Giáo dục đại học là hàng hóa công cộng hay hàng hóa cá nhân
Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (232.07 KB, 29 trang )
ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG
(TÀI CHÍNH CÔNG)
—–—–
BÀI TIỂU LUẬN MÔN KINH TẾ CÔNG CỘNG
Đề tài: Giáo dục đại học là hàng hóa công cộng hay hàng hóa cá
nhân?
Nhóm 1 – Lớp 2005FECO921
Giáo viên hướng dẫn: Ngô Hải Thanh
MỤC LỤC
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT……………………………………………………………………..5
1.1.Hàng hóa cá nhân………………………………………………………………………………………….5
1.1.1 Khái niệm…………………………………………………………………………………………………..5
1.1.2 Đặc điểm……………………………………………………………………………………………………. 5
1.2. Hàng hóa công cộng và cung cấp hàng hóa công cộng…………………………………….6
1.2.1. Khái niệm hàng hoá công cộng……………………………………………………………………6
1.2.2. Thuộc tính của hàng hoá công cộng…………………………………………………………….7
1.2.3.Phân loại hàng hóa công cộng……………………………………………………………………..8
CHƯƠNG 2: GIÁO DỤC ĐẠI HỌC LÀ HÀNG HÓA CÔNG CỘNG THEO GÓC
ĐỘ KINH TẾ……………………………………………………………………………………………………..9
2.1 Khái niệm và đặc điểm của giáo dục và giáo dục đại học…………………………………9
2.1.1. Khái niệm quá trình giáo dục và giáo dục đại học………………………………………….9
2.1.2. Đặc điểm của quá trình giáo dục………………………………………………………………….9
2.2 Giáo dục đại học là hàng hóa công cộng theo góc độ kinh tế…………………………..12
2.2.1. Các quan điểm trước đó…………………………………………………………………………….12
2.2.2. Giáo dục đại học là hàng hóa công cộng không thuần túy…………………………….14
LỜI MỞ ĐẦU
Mặc dù trong nền kinh tế thị trường sản phẩm của giáo dục cũng được coi là một
loại hàng hóa, nhưng tính chất đặc biệt của nó đã làm cho vấn đề cung cấp và sử
dụng hiệu quả đã trở nên phức tạp hơn nhiều so với các loại hàng hóa thông
thường. Điểm khác biệt của giáo dục ở chỗ, nó là một loại hàng hóa công cộng,
mọi người đều có thể dùng chung một chương trình giáo dục, nhưng tri thức chung
của nhân loại, và do vậy nhu cầu được hưởng thụ ngày càng tăng. Giáo dục cũng
có tính chất của phương tiện sản xuất, có nhiều bất đối xứng thông tin, ngoại tác
tích cực và còn có thuộc tính xã hội, nhưng lại không bị tác động bởi năng suất lao
động. Quan trọng hơn, giáo dục là công cụ hữu ích để thực hiện phân phối lại thu
nhập, và đây là chức năng bao trùm, đảm bảo sự tồn tại và phát triển, hiện thực hóa
quyền bình đẳng về cơ hội vào đời và tạo dựng cuộc sống của mỗi cá nhân trong
xã hội. Trong nền kinh tế thị trường, Nhà nước là người tham gia lớn nhất và đóng
vai trò quan trọng nhất, vừa là nhà quản lý toàn bộ nền kinh tế và vừa làm nhiệm
vụ trực tiếp cung cấp hàng hóa cho xã hội. Trong vai trò sản xuất, Nhà nước luôn
chịu trách nhiệm thực hiện những dự án lớn, trong những lĩnh vực đầu tư mạo
hiểm và khả năng đầu tư vốn ban đầu lớn nhưng thu hồi chậm. Sụp đổ của thị
trường trong lĩnh vực giáo dục, có thể dẫn đến phá sản cả một hệ thống kinh tế xã
hội, vì vậy rất cần một hệ thống đại học công lập mạnh tồn tại song song cùng với
các trường tư thục. Trong vai trò quản lý, một trong những nhiệm vụ quan trọng
của Nhà nước là tạo ra những cơ sở pháp lý cho các hoạt động giáo dục, đào tạo
được xã hội hóa. Hoạt động “phi lợi nhuận” đóng một vai trò rất tích cực trong
giáo dục đại học của các nước tiên tiến, nhưng hầu như còn xa lạ trong các chủ
trương nghiên cứu về giáo dục ở Việt Nam. Chính sách tạo thêm các nguồn cung
ứng dịch vụ giáo dục không dựa chủ yếu vào ngân sách nhà nước là chính sách về
hoạt động phi lợi nhuận. Đây là một điểm khác biệt cơ bản, trường học là nơi cung
cấp hàng hóa giáo dục cho xã hội nhưng lại không hoạt động theo Luật doanh
nghiệp. Kinh nghiệm của thế giới chỉ ra rằng, số lượng vượt trội các trường đại học
công lập và đại học phi lợi nhuận của các nước tiên tiến cho thấy cổ phần hóa
không phải là khuynh hướng tất yếu cho phát triển đại học. Do vậy, những chính
sách đối với giáo dục ở các quốc gia trên thế giới được nghiên cứu rất thấu đáo,
cẩn trọng và mang tính khoa học toàn diện. Một chính sách đúng đắn dành cho
giáo dục thì lợi ích nhận được của cả xã hội sẽ tăng lên trong tương lai, ngược lại,
bất kỳ sự sai lầm nào trong giáo dục thì kết quả không chỉ đem đến những hậu họa
vô cùng nguy hại cho hệ thống giáo dục quốc dân, mà còn ảnh hưởng đến sự phát
triển kinh tế, giữ gìn bản sắc văn hóa, cũng như tinh thần độc lập tự chủ của cả một
dân tộc. Hiểm nguy ấy không nhìn thấy được trước mắt, mà cái giá vô cùng đắt của
nó, có thể nhiều thế hệ mai sau mới trả được. Dù nền kinh tế có tăng trưởng đến
đâu thì cũng không thể dùng tiền để “mua” được một hệ thống giáo dục xã hội chủ
nghĩa mang tính nhân văn, dân tộc, khoa học và hiện đại mà toàn xã hội mong
đợi./. Chúng em đã tìm hiểu Giáo dục đại học là hàng hóa công cộng, chịu sự quản
lý của nhà nước xét theo góc độ lý thuyết kinh tế
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1.1.Hàng hóa cá nhân
1.1.1 Khái niệm
Hàng hóa cá nhân trong tiếng Anh là Private Good.
Hàng hóa cá nhân là một sản phẩm mà một người bắt buộc phải mua nếu muốn
tiêu thụ nó và việc một cá nhân tiêu thụ nó sẽ ngăn cản các cá nhân khác thực hiện
điều này. Nói cách khác, hàng hóa được coi là hàng hóa cá nhân nếu có sự cạnh
tranh giữa các cá nhân để sở hữu nó, và việc tiêu thụ hàng hóa đó sẽ ngăn cản
người khác tiêu thụ nó.
1.1.2 Đặc điểm
– Hầu hết các hàng hóa hoặc dịch vụ trên thị trường đều là hàng hóa tư nhân. Ví dụ
về hàng hóa cá nhân bao gồm như: điện thoại di động, giày dép, quần áo,… Hàng
hóa cá nhân ít gặp phải vấn đề người xài chùa vì chúng phải được mua, không có
sẵn miễn phí để nhiều người sử dụng. Mục tiêu của một công ty trong việc sản
xuất hàng hóa cá nhân là kiếm lợi nhuận. Một công ty khó có thể muốn sản xuất
hàng hóa nếu không có động lực được tạo ra bởi doanh thu.
– Các nhà kinh tế gọi hàng hóa cá nhân là có tính cạnh tranh và loại trừ.
– Hàng hóa cá nhân là bất kì vật phẩm nào chỉ có thể được sử dụng hoặc tiêu thụ
bởi một bên tại một thời điểm. Nhiều vật phẩm trong gia đình là hàng hóa cá
nhân, vì chúng chỉ có thể được sử dụng bởi những người có quyền tiếp cận chúng.
Bất kì mặt hàng nào mà sau khi sử dụng sẽ bị phá hủy hoặc không thể tiếp tục sử
dụng theo chức năng ban đầu được nữa, chẳng hạn như thực phẩm, giấy vệ sinh
cũng là hàng hóa cá nhân.
– Thông thường, hàng hóa cá nhân là hữu hạn, do đó chúng có tính loại trừ. Ví dụ,
một mẫu giày được thiết kế riêng chỉ có số lượng sản xuất hữu hạn, vì vậy không
phải ai cũng có thể có những đôi giày đó. Không chỉ là từng đôi giày được coi
là hàng hóa cá nhân, mà toàn bộ dòng sản phẩm đó cũng coi thể coi là hàng hóa cá
nhân.
– Phần lớn hàng hóa cá nhân phải được trả giá để mua. Mức giá này bù đắp cho
thực tế rằng việc người khác sử dụng hàng hóa này ngăn chặn việc người khác sử
dụng chúng. Việc mua một mặt hàng tư nhân đảm bảo cho người mua có quyền
tiêu thụ nó.
1.2. Hàng hóa công cộng và cung cấp hàng hóa công cộng
1.2.1. Khái niệm hàng hoá công cộng
Hàng hoá công cộng là những loại hàng hoá mà việc một cá nhân này đang hưởng
thụ lợi ích do hàng hoá đó tạo ra không ngăn cản những người khác cùng đồng thời
hưởng thụ lợi ích của nó.
Điều này giúp phân biệt hàng hoá công cộng với hàng hoá cá nhân là những loại
hàng hoá khi một người đã tiêu dùng rồi thì người khác không thể tiêu dùng được
nữa.
1.2.2. Thuộc tính của hàng hoá công cộng
Hàng hoá công cộng có hai thuộc tính:
Thứ nhất, hàng hoá công cộng không có tính cạnh tranh trong tiêu dùng. Nói như
vậy có nghĩa là, khi có thêm một người sử dụng hàng hoá công cộng sẽ không làm
giảm lợi ích tiêu dùng của những người tiêu dùng hiện có.
Do thuộc tính không loại trừ của hàng hóa công cộng, nên các cá nhân đều nhận
thấy rằng dù mình có trả tiền để được tiêu dùng hay không thì cũng không ảnh
hưởng tới lợi ích mà hàng hóa đó mang lại. Vì vậy, họ sẽ có xu hướng dùng hàng
hóa đó mà không muốn bỏ ra một khoản tiền nào cả. Lúc này học đã trở thành
những kẻ ăn không.
Thứ hai, hàng hoá không có tính loai trừ trong tiêu dùng. Có nghĩa là không thể
loại trừ hoặc rất tốn kém nếu muốn loại trừ những cá nhân từ chối không chịu trả
tiền cho việc tiêu dùng của mình.Nói cách khác, chi phí biên để phục vụ thêm một
người sử dụng hàng hoá công cộng là bằng 0. Tuy nhiên chi phí tăng thêm để sản
xuất thêm một đơn vị hàng hóa công cộng khác 0.
Tuy nhiên hai thuộc tính này không nhất thiết phải đi liền với nhau
1.2.3.Phân loại hàng hóa công cộng
– Hàng hoá công cộng thuần tuý là hàng hoá công cộng mang đủ hai thuộc tính của
hàng hoá công cộng.
– Hàng hoá công cộng không thuần tuý:
Trong thực tế, có rất ít hàng hoá công cộng thoả mãn một cách chặt chẽ cả hai
thuộc tính nói trên, tức là có rất ít những loại hàng hoá công cộng được coi là thuần
tuý.
Đa số các hàng hoá công cộng được cung cấp chỉ có một trong hai thuộc tính nói
trên và có ở những mức độ khác nhau. Những hàng hoá công cộng đó được gọi là
hàng hoá công cộng không thuần tuý.
Tuỳ theo mức độ tạo ra ngoại ứng trong sản xuất hoặc tiêu dùng hàng hoá, và tuỳ
theo khả năng có thể thiết lập được một cơ chế để mua bán quyền sử dụng những
hàng hoá này mà hàng hoá công cộng không thuần tuý có thể được chia làm hai
loại:
+ Hàng hoá công cộng có thể tắc nghẽn
Là những hàng hoá mà khi có thêm nhiều người cùng sử dụng chúng thì có thể gây
ra sự ùn tắc hay tắc nghẽn khiến lợi ích của những người tiêu dùng trước đó bị
giảm sút. Hàng hóa công cộng có thể tắc nghẽn có hai thuộc tính là : không loại trừ
và có cạnh tranh trong tiêu dùng. Khi đó chi phí biên của việc tiêu dùng hàng hóa
công cộng không còn bằng không nữa mà bắt đầu tăng lên kể từ điểm tắc nghẽn.
+ Hàng hoá có thể loại trừ bằng giá
Hay gọi tắt là hàng hoá công cộng có thể loại trừ, là những thứ hàng hoá mà lợi ích
do chúng tạo ra có thể định giá.Hàng hóa công cộng có thể loại trừ bằng giá có hai
thuộc tính là: có loại trừ và không cạnh tranh trong tiêu dùng.
CHƯƠNG 2: GIÁO DỤC ĐẠI HỌC LÀ HÀNG HÓA CÔNG CỘNG THEO
GÓC ĐỘ KINH TẾ
2.1 Khái niệm và đặc điểm của giáo dục và giáo dục đại học
2.1.1. Khái niệm quá trình giáo dục và giáo dục đại học
Quá trình giáo dục là quá trình tác động có mục đích, có hệ thống của nhà giáo dục
đến đối tượng giáo dục thông qua việc tổ chức các hoạt động đa dạng với những
nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục phù hợp để hình thành cho học sinh
những phẩm chất của người công dân theo yêu cầu của xã hội, của thời đại.
Giáo dục đại học là các hình thức giáo dục diễn ra ở các cơ sở học tập bậc sau
trung học, cuối khóa học thường được trao văn bằng học thuật hoặc cấp chứng chỉ.
Các cơ sở giáo dục đại học không chỉ bao gồm các trường đại học và viện đại học
mà còn các trường chuyên nghiệp, trường sư phạm, trường cao đẳng, trường đại
học công lập và tư thục hệ hai năm, và viện kỹ thuật. Điều kiện nhập học căn bản
đối với hầu hết các cơ sở giáo dục đại học là phải hoàn thành giáo dục trung học,
và tuổi nhập học thông thường là khoảng 18 tuổi.
2.1.2. Đặc điểm của quá trình giáo dục
+ Giáo dục là quá trình có tính mục đích
_Hoạt động giáo dục luôn có mục đích rõ ràng đó là việc định hướng các giá trị xã
hội
cho
học
sinh.
_ Mục đích giáo dục trong các nhà trường nhằm đào tạo thế hệ trẻ, đào tạo nguồn
nhân lực phục vụ cho sự phát triển kinh tế, văn hóa xã hội theo yêu cầu của đất
nước.
+ Giáo dục là một quá trình biện chứng
_ Giáo dục là 1 quá trình lâu dài, liên tục, diễn ra suốt cuộc đời của con người chịu
ảnh hưởng của nhiều yếu tố trong đó yếu tố chủ đạo, lực lượng chính là nhà giáo
dục
và
giáo
dục
trong
nhà
trường.
_ Toàn bộ quá trình giáo dục luôn có sự tác động biện chứng giữa đối tượng giáo
dục (HS) đối với các hoạt động khác. Nổi bật là mối quan hệ tác động bản chất
giữa GV và HS.
+ Sản phẩm giáo dục là thành quả chung của các lực lượng giáo dục
_Quá trình giáo dục chịu sự tác động phức hợp của nhiều nhân tố, nhiều lực lượng,
được thực hiện trong toàn bộ đời sống hàng ngày của HS. Vì vậy sản phẩm của quá
trình giáo dục (các sản phẩm nhân cách) là sản phẩm chung của nhiều lực lượng,
của toàn xã hội trong đó giáo dục nhà trường đóng vai trò nòng cốt. Điều này đòi
hỏi phải có sự thống nhất giữa các lực lượng giáo dục trong xã hội.
+ Giáo dục là một quá trình tuân theo quy luật số đông nhưng đồng thời cũng bị
chi
phối
bởi
những
đặc
điểm
cá
thể.
_ Giáo dục được tiến hành trong một tập thể lớp, GV lựa chọn nội dung, phương
pháp và hình thức tổ chức phù hợp với hầu hết học sinh trong lớp (hướng đến cái
chung,
ưu
tiên
cái
chung).
_ Tuy nhiên trong những tình huống cụ thể hoạt động giáo dục và kết quả giáo dục
lại phụ thuộc vào đặc điểm cá nhân. Vì vậy trong quá trình giáo dục nhà giáo dục
cần phải nắm bắt được các đặc điểm cá nhân để có thể dự kiến và thực hiện các
biện pháp giáo dục mang tính cá biệt.
+ Trong nhà trường quá trình giáo dục có quan hệ mật thiết với quá trình dạy học.
_ Quá trình dạy học và quá trình giáo dục đều hướng đến giáo dục nhân cách cho
học sinh. Vì vậy nó thống nhất với nhau cùng giáo dục con người theo yêu cầu xã
hội.
_ Mặt khác 2 quá trình này luôn tác động, hỗ trợ thúc đẩy nhau. dạy học (dạy chữ)
là cơ sở, là điều kiện để dạy người. Ngược lại quá trình dạy học (dạy người) lại tạo
điều
kiện
thúc
đẩy
quá
trình
dạy
học.
+ Quá trình dạy học được thực hiên trong cuộc sống hàng ngày thông qua các hoạt
động
sống
và
giao
lưu
của
trẻ.
_ Quá trình giáo dục khác với dạy học ở chỗ nó không chỉ thực hiện trong các giờ
trong nhà trường mà nó được thực hiện trong toàn bộ cuộc sống hàng ngày, trong
và
ngoài
nhà
trường.
_ Vì vậy toàn bộ hoạt động sống, giao tiếp, học tập, lao động của trẻ đều có thể
diễn ra quá trình giáo dục đạt các mục đích giáo dục. Nhà giáo dục cũng phải tận
dụng điều này để phối hợp tiến hành hoạt động với các lực lượng giáo dục khác.
2.2 Giáo dục đại học là hàng hóa công cộng theo góc độ kinh tế
2.2.1. Các quan điểm trước đó
Trong “Kinh tế học” của Samuelson, một Nhà kinh tế học được giải Nobel, khi nói
về hàng hóa, ông có đưa ra một ví dụ cổ điển là cây đèn biển để minh họa cho loại
“HH công cộng” (thuần túy). Với cây đèn biển, sự thụ hưởng ánh sáng để đi vào
đúng bến của chiếc thuyền này hoàn toàn không loại trừ sự thụ hưởng của chiếc
thuyền khác. Ở đây muốn thu phí cũng không thu được, do đó thị trường hay tư
nhân sẽ không cung cấp, Nhà nước nhất thiết phải cung cấp dịch vụ này ở dạng
“cho không” cho xã hội. Và, cũng vì vậy, ở đây người ta đã đồng nhất “công cộng”
với “Nhà nước ” (Public State). Vậy là, một sản phẩm đi vào quá trình tiêu dùng
thông qua việc mua bán hoặc trao đổi kiểu “cho không”, trong cơ chế thị trường,
vẫn được gọi là hàng hóa. Hàng hóa không nhất thiết gắn với việc mua bán hay
thương mại. Dịch vụ Giáo Dục do vậy vẫn được gọi là một hàng hóa, còn việc có
đem ra “mua bán”, có thu học phí hay hoàn toàn miễn phí lại là việc khác.
Nhưng với dịch vụ GD, khi một em học sinh ngồi trên ghế Nhà trường để thụ
hưởng GD, rõ ràng có loại trừ sự thụ hưởng của em khác. Với dịch vụ GD, cũng
tương tự như chiếc áo sơmi, ổ bánh mì…, sự tiêu dùng của tôi sẽ loại trừ sự tiêu
dùng của bạn, “Kinh tế học” gọi là “HH cá nhân”. HH cá nhân có thể giao cho thị
trường tự do phân tán quyết định sản xuất và cung cấp một cách có hiệu quả. Vậy
tại sao ngay ở nhiều nước có truyền thống CCTT vẫn gọi GD là “HH công cộng”?
Theo Élie Cohen và Claude Henry, những HH như GD, y tế, văn hóa, v.v… dù
“Kinh tế học” gọi là HH cá nhân nhưng vẫn được gọi là “”HH công cộng” vì
chúng thỏa mãn hai tiêu chí cơ bản sau: Tiêu chí một là “tính thiết yếu” của dịch vụ
và tiêu chí hai là bị rơi vào “sự hạn chế của cơ chế thị trường”. Nói riêng về GD,
GD là thiết yếu vì nó là nhu cầu cơ bản của con người, là tiền đề cho việc phát
triển kinh tế – xã hội và còn để tạo nên mối liên kết xã hội. Giáo Dục cũng bị rơi
vào “sự hạn chế của cơ chế thị trường” do thị trường không hoàn hảo và thể hiện
rõ nét nhất là “tác động ngoại biên” (Externalities) tích cực của GD. “Tác động
ngoại biên”, nói nôm na là tác động của một người nào đó gây ra ảnh hưởng (tốt
hay xấu) đối với phúc lợi của người khác mà ảnh hưởng này lại không được phản
ánh qua giao dịch thị trường. Một sinh viên học Đại học, lợi ích chẳng những cho
sinh viên đó mà còn có tác động tốt cho xã hội, năng suất lao động xã hội sẽ cao
hơn, sau này có thể đóng thuế thu nhập cho xã hội nhiều hơn, v.v… Nhưng những
ảnh hưởng tốt đó lại không được xã hội trả tiền, nghĩa là ở đây, cơ chế thị trường bị
hạn chế, không có tác dụng, do không tính được việc lẽ ra là phải trả tiền này. Như
vậy, gọi Giáo Dục là một “HH công cộng” là không theo cách tiếp cận về mức độ
loại trừ nhau trong sử dụng của “Kinh tế học”, mà là để nói về sự thỏa mãn hai tiêu
chí nói trên của Giáo Dục. Và cũng do vậy, ở đây “công cộng” không có nghĩa là
Nhà nước nhất thiết phải cung cấp (hay độc quyền), nghĩa là “công cộng” không
đồng nhất với “Nhà nước ” (Public ≠ State).
2.2.2. Giáo dục đại học là hàng hóa công cộng không thuần túy
Về góc độ kinh tế, có rất nhiều các quan điểm khác nhau của các nhà kinh tế học
trên thế giới về việc liệu giáo dục Đại học là hàng hóa công cộng hay hàng hóa tư
nhân, và nếu nó là hàng hóa công cộng thì sẽ là hàng hóa công cộng thuần túy hay
không thuần túy. Trả lời cho câu hỏi đó, nhóm 1 kết luận rằng giáo dục Đại học là
hàng hóa công cộng không thuần túy và cụ thể là có tính loại trừ nhưng không
mang tính cạnh tranh. Để minh chứng cho câu trả lời đó, nhóm 1 sẽ đi vào phân
tích dưới đây:
2.2.2.1 Giáo dục đại học có tính loại trừ
Như chúng ta đã biết, tính loại trừ có nghĩa là khi hàng hóa được cung cấp lợi ích
do chúng tạo ra có thể định giá. Khi xét về hàng hóa Giáo dục Đại học ,Chính sách
học phí có ý nghĩa lớn trong việc thực hiện chủ trương xã hội hoá giáo dục, tăng tự
chủ cho cơ sở giáo dục Đại học, đồng thời thể hiện sự chia sẻ trách nhiệm của
người dân với Nhà nước trong bối cảnh nguồn ngân sách nhà nước còn hạn hẹp.
Nguồn thu từ học phí đã hỗ trợ tích cực cho chi thường xuyên cho các cơ sở giáo
dục Đại học. Chính vì vậy, khi mỗi sinh viên muốn hưởng thụ lợi ích của giáo dục
Đại học thì cần phải chi trả một mức phí tương xứng (trừ một vài trường hợp ưu
tiên thuộc diện miễm giảm học phí, được hưởng chính sách học bổng…). Hiển
nhiên đã tạo ra tính loại trừ ở đây, sinh viên nào có điều kiện về vật chất, đủ khả
năng chi trả mức học phí mới tham gia vào giáo dục Đại học, còn sinh viên nào
không đủ khả năng chi trả sẽ không hưởng thụ lợi ích đó.
Ta sẽ lấy một ví dụ như sau để minh chứng cho điều đó, hai sinh viên cùng năng
lực như nhau, đi học đều đúng số buổi như nhau, thực hiện đúng quy định của nhà
trường không vi phạm, đủ điều kiện dự thi về mặt điểm số, thế nhưng một sinh
viên đóng học phí đầy đủ, một sinh viên không đóng học phí đầy đủ, nghiễm nhiên
sinh viên không đóng học phí đầy đủ sẽ bị mất quyền dự thi, dẫn tới việc không
được thi các môn, thậm chí đình chỉ học ở các kì học sau, và sẽ không đạt được cái
thành quả cuối cùng mà mình mong muốn đó là tấm bằng Đại học, còn về sinh
viên đã đóng đủ học phí, dự thi đầy đủ sẽ có thể nhận được bằng sau quá trình học
tập. Rõ ràng số tiền học phí là một trong những yếu tố chủ yếu quyết định sinh
viên có được “ tiêu dùng” “ hàng hóa” giáo dục đại học hay không.
Thời gian qua, cơ chế quản lý tài chính đối với giáo dục Đại học tại Việt Nam đã
có nhiều đổi mới cho phù hợp với yêu cầu phát triển. Điều này thể hiện tại Nghị
quyết số 35/2009/QH12 ngày 19/6/2009 của Quốc hội khóa XII về chủ trương,
định hướng đổi mới một số cơ chế tài chính trong giáo dục và đào tạo (GD&ĐT) từ
năm 2010-2011 đến năm học 2014-2015; Nghị định số 49/2009/NĐ-CP quy định
về miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập và cơ chế thu, sử dụng học phí đối
với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân từ năm học 2010-2011 đến
năm học 2014–2015. Đặc biêt, Nghị định số 16/2015/NĐ-CP quy định cơ chế tự
chủ của đơn vị sự nghiệp công lập đã thể hiện rõ mục tiêu đổi mới toàn diện các
Đơn vị sự nghiệp công lập nói chung và các trường đại học công lập nói riêng; đẩy
mạnh việc giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các đơn vị đồng bộ cả về
thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, nhân sự và tài chính. Đổi mới cơ chế tài chính
theo hướng trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các đơn vị giáo dục đại học
công lập là xu thế khách quan. Thời gian gần đây, việc thực hiện cơ chế tự chủ tài
chính tại các trường Đại học công lập ở Việt Nam đã được triển khai thí điểm và có
những kết quả ban đầu đáng ghi nhận, chính vì vậy dần dần các trường đại học ở
Việt Nam sẽ tiến tới cơ chế tự chủ tài chính hoàn toàn, đồng nghĩ với việc trong
tương lai gần giáo dục Đại học ở Việt Nam sẽ không được cung cấp miễn phí, mà
sinh viên sẽ đóng một mức học phí tương đối cao để bù đắp chi phí để cung cấp
giáo dục đại học khi các trường tiến tới tự chủ hoàn toàn. Do vậy tính loại trừ trong
giáo dục Đại học ngày càng cao.
Bên cạnh việc giáo dục đại học có tính loại trừ thông qua mức học phí, thì
nó còn thể hiện tính loại trừ thông qua một tiêu chí rất đặc biệt đó là năng lực của
người học, khác với những hàng hóa thông thường khác giáo dục Đại học là một
hàng hóa yêu cầu người sử dụng nó phải có năng lực nhất định, để thấy rõ điều đó
ta sẽ tiếp tục phân tích một sinh viên chăm chỉ, có kỹ năng, có kiến thức đáp ứng
mọi yêu cầu của nhà trường qua các kì thi thì mới có thể tiếp thu được hết kiến
thức mà giáo dục Đại học mang lại và đạt được tấm bằng Đại học, ngược lại một
sinh viên dù có đóng đầy đủ học phí nhưng thiếu năng lực, lười biếng, không tự
nuôi dưỡng bản thân thì không thể nào tiếp thu được kiến thức, không thể nào vượt
qua các kì thi, sẽ bị loại ra khỏi việc “ tiêu dùng” “ hàng hóa giáo dục Đại học”, cụ
thể như quy định của trường đại học nếu không đảm bảo điểm tích lũy đúng quy
định thì sẽ bị cảnh cáo học tập, đình chỉ học và buộc thôi học. Sinh viên nhờ người
đi học hộ; sinh viên nhờ người thi hộ; nhờ người làm hộ báo cáo thực tập, khóa
luận tốt nghiệp đều bị kỷ luật ở mức đình chỉ học tập 1 học kỳ đối với trường hợp
vi phạm lần thứ nhất; đình chỉ 1 năm đối với trường hợp vi phạm lần thứ hai và
buộc thôi học đối với trường hợp vi phạm lần thứ ba. Tóm lại,sinh viên bắt buộc
phải có đủ năng lực thì mới có thể tham gia học Đại học, nếu như không đáp ứng
được về năng lực thì cũng sẽ bị loại trừ ra khỏi việc sử dụng hàng hóa giáo dục Đại
học.
Sau khi phân tích như trên, có thể kết luận lại một lần nữa rằng giáo dục đại là
một “ hàng hóa” có tính loại trừ, nó có thể định giá được bằng mức học phí mà
mỗi sinh viên nộp vào khi học Đại học và trình độ của sinh viên khi tham gia
học Đại học.
2.2.2.2. Giáo dục đại học là hàng hóa không có tính cạnh tranh
Như chúng ta đã biết, tính không cạnh tranh trong tiêu dùng hàng hóa công
cộng có nghĩa là khi hàng hóa đã được cung cấp, việc có thêm một hay nhiều
người cùng đồng thời sử dụng hàng hóa này cũng không làm ảnh hưởng tới lợi ích
của những người tiêu dùng hiện có. Ở đây chúng ta cần phải hiểu là “đã được cung
cấp” có nghĩa là chúng ta chỉ tính đến những người đã đỗ Đại học, chứ không phải
là nói tất cả các học sinh chuẩn bị thi lên đại học, nên nói giáo dục đại học là hàng
hóa có tính cạnh tranh vì phải cạnh tranh nhau để thi vào là không đúng.
Theo những quan điểm của những nhà kinh tế học nước ngoài có những
người cho rằng giáo dục đại học là hàng hóa có tính cạnh tranh vì việc có thêm một
hay nhiều người đồng thời vào học sẽ làm lợi ích của những người đang sử dụng
giảm xuống. Điều này ta không phủ nhận vì có thể với thực tế những nước khác
nhau việc có thêm sinh viên vào học sẽ làm mất đi cơ hội được nói, được học hỏi,
được giao tiếp với giáo viên của các sinh viên đang sử dụng, hay là việc có thêm
LỜI MỞ ĐẦUMặc dù trong nền kinh tế thị trường mẫu sản phẩm của giáo dục cũng được coi là mộtloại hàng hóa, nhưng đặc thù đặc biệt quan trọng của nó đã làm cho yếu tố phân phối và sửdụng hiệu suất cao đã trở nên phức tạp hơn nhiều so với những loại hàng hóa thôngthường. Điểm độc lạ của giáo dục ở chỗ, nó là một loại hàng hóa công cộng, mọi người đều hoàn toàn có thể dùng chung một chương trình giáo dục, nhưng tri thức chungcủa trái đất, và do vậy nhu yếu được tận hưởng ngày càng tăng. Giáo dục cũngcó đặc thù của phương tiện đi lại sản xuất, có nhiều bất đối xứng thông tin, ngoại táctích cực và còn có thuộc tính xã hội, nhưng lại không bị ảnh hưởng tác động bởi hiệu suất laođộng. Quan trọng hơn, giáo dục là công cụ có ích để triển khai phân phối lại thunhập, và đây là tính năng bao trùm, bảo vệ sự sống sót và tăng trưởng, hiện thực hóaquyền bình đẳng về thời cơ vào đời và tạo dựng đời sống của mỗi cá thể trongxã hội. Trong nền kinh tế thị trường, Nhà nước là người tham gia lớn nhất và đóngvai trò quan trọng nhất, vừa là nhà quản trị hàng loạt nền kinh tế tài chính và vừa làm nhiệmvụ trực tiếp cung ứng hàng hóa cho xã hội. Trong vai trò sản xuất, Nhà nước luônchịu nghĩa vụ và trách nhiệm thực thi những dự án Bất Động Sản lớn, trong những nghành nghề dịch vụ góp vốn đầu tư mạohiểm và năng lực góp vốn đầu tư vốn bắt đầu lớn nhưng tịch thu chậm. Sụp đổ của thịtrường trong nghành nghề dịch vụ giáo dục, hoàn toàn có thể dẫn đến phá sản cả một mạng lưới hệ thống kinh tế tài chính xãhội, thế cho nên rất cần một mạng lưới hệ thống ĐH công lập mạnh sống sót song song cùng vớicác trường tư thục. Trong vai trò quản trị, một trong những trách nhiệm quan trọngcủa Nhà nước là tạo ra những cơ sở pháp lý cho những hoạt động giải trí giáo dục, đào tạođược xã hội hóa. Hoạt động “ phi doanh thu ” đóng một vai trò rất tích cực tronggiáo dục ĐH của những nước tiên tiến và phát triển, nhưng phần nhiều còn lạ lẫm trong những chủtrương điều tra và nghiên cứu về giáo dục ở Nước Ta. Chính sách tạo thêm những nguồn cungứng dịch vụ giáo dục không dựa hầu hết vào ngân sách nhà nước là chủ trương vềhoạt động phi doanh thu. Đây là một điểm độc lạ cơ bản, trường học là nơi cungcấp hàng hóa giáo dục cho xã hội nhưng lại không hoạt động giải trí theo Luật doanhnghiệp. Kinh nghiệm của quốc tế chỉ ra rằng, số lượng tiêu biểu vượt trội những trường đại họccông lập và ĐH phi doanh thu của những nước tiên tiến và phát triển cho thấy CP hóakhông phải là khuynh hướng tất yếu cho tăng trưởng ĐH. Do vậy, những chínhsách so với giáo dục ở những vương quốc trên quốc tế được điều tra và nghiên cứu rất thấu đáo, thận trọng và mang tính khoa học tổng lực. Một chủ trương đúng đắn dành chogiáo dục thì quyền lợi nhận được của cả xã hội sẽ tăng lên trong tương lai, ngược lại, bất kể sự sai lầm đáng tiếc nào trong giáo dục thì tác dụng không chỉ đem đến những hậu họavô cùng nguy cơ tiềm ẩn cho mạng lưới hệ thống giáo dục quốc dân, mà còn tác động ảnh hưởng đến sự pháttriển kinh tế tài chính, giữ gìn truyền thống văn hóa truyền thống, cũng như ý thức độc lập tự chủ của cả mộtdân tộc. Hiểm nguy ấy không nhìn thấy được trước mắt, mà cái giá vô cùng đắt củanó, hoàn toàn có thể nhiều thế hệ tương lai mới trả được. Dù nền kinh tế tài chính có tăng trưởng đếnđâu thì cũng không hề dùng tiền để “ mua ” được một mạng lưới hệ thống giáo dục xã hội chủnghĩa mang tính nhân văn, dân tộc bản địa, khoa học và tân tiến mà toàn xã hội mongđợi. /. Chúng em đã tìm hiểu và khám phá Giáo dục ĐH là hàng hóa công cộng, chịu sự quảnlý của nhà nước xét theo góc nhìn triết lý kinh tếCHƯƠNG 1 : CƠ SỞ LÝ THUYẾT1. 1. Hàng hóa cá nhân1. 1.1 Khái niệmHàng hóa cá thể trong tiếng Anh là Private Good. Hàng hóa cá thể là một mẫu sản phẩm mà một người bắt buộc phải mua nếu muốntiêu thụ nó và việc một cá thể tiêu thụ nó sẽ ngăn cản những cá thể khác thực hiệnđiều này. Nói cách khác, hàng hóa được coi là hàng hóa cá thể nếu có sự cạnhtranh giữa những cá thể để chiếm hữu nó, và việc tiêu thụ hàng hóa đó sẽ ngăn cảnngười khác tiêu thụ nó. 1.1.2 Đặc điểm – Hầu hết những hàng hóa hoặc dịch vụ trên thị trường đều là hàng hóa tư nhân. Ví dụvề hàng hóa cá thể gồm có như : điện thoại di động, giày dép, quần áo, … Hànghóa cá thể ít gặp phải yếu tố người xài chùa vì chúng phải được mua, không cósẵn không lấy phí để nhiều người sử dụng. Mục tiêu của một công ty trong việc sảnxuất hàng hóa cá thể là kiếm doanh thu. Một công ty khó hoàn toàn có thể muốn sản xuấthàng hóa nếu không có động lực được tạo ra bởi lệch giá. – Các nhà kinh tế tài chính gọi hàng hóa cá thể là có tính cạnh tranh đối đầu và loại trừ. – Hàng hóa cá thể là bất kỳ vật phẩm nào chỉ hoàn toàn có thể được sử dụng hoặc tiêu thụbởi một bên tại một thời gian. Nhiều vật phẩm trong mái ấm gia đình là hàng hóa cánhân, vì chúng chỉ hoàn toàn có thể được sử dụng bởi những người có quyền tiếp cận chúng. Bất kì loại sản phẩm nào mà sau khi sử dụng sẽ bị tàn phá hoặc không hề liên tục sửdụng theo tính năng khởi đầu được nữa, ví dụ điển hình như thực phẩm, giấy vệ sinhcũng là hàng hóa cá thể. – Thông thường, hàng hóa cá thể là hữu hạn, do đó chúng có tính loại trừ. Ví dụ, một mẫu giày được phong cách thiết kế riêng chỉ có số lượng sản xuất hữu hạn, thế cho nên khôngphải ai cũng hoàn toàn có thể có những đôi giày đó. Không chỉ là từng đôi giày được coilà hàng hóa cá thể, mà hàng loạt dòng loại sản phẩm đó cũng coi thể coi là hàng hóa cánhân. – Phần lớn hàng hóa cá thể phải được trả giá để mua. Mức giá này bù đắp chothực tế rằng việc người khác sử dụng hàng hóa này ngăn ngừa việc người khác sửdụng chúng. Việc mua một loại sản phẩm tư nhân bảo vệ cho người mua có quyềntiêu thụ nó. 1.2. Hàng hóa công cộng và cung ứng hàng hóa công cộng1. 2.1. Khái niệm hàng hoá công cộngHàng hoá công cộng là những loại hàng hoá mà việc một cá thể này đang hưởngthụ quyền lợi do hàng hoá đó tạo ra không ngăn cản những người khác cùng đồng thờihưởng thụ quyền lợi của nó. Điều này giúp phân biệt hàng hoá công cộng với hàng hoá cá thể là những loạihàng hoá khi một người đã tiêu dùng rồi thì người khác không hề tiêu dùng đượcnữa. 1.2.2. Thuộc tính của hàng hoá công cộngHàng hoá công cộng có hai thuộc tính : Thứ nhất, hàng hoá công cộng không có tính cạnh tranh đối đầu trong tiêu dùng. Nói nhưvậy có nghĩa là, khi có thêm một người sử dụng hàng hoá công cộng sẽ không làmgiảm quyền lợi tiêu dùng của những người tiêu dùng hiện có. Do thuộc tính không loại trừ của hàng hóa công cộng, nên những cá thể đều nhậnthấy rằng dù mình có trả tiền để được tiêu dùng hay không thì cũng không ảnhhưởng tới quyền lợi mà hàng hóa đó mang lại. Vì vậy, họ sẽ có xu thế dùng hànghóa đó mà không muốn bỏ ra một khoản tiền nào cả. Lúc này học đã trở thànhnhững kẻ ăn không. Thứ hai, hàng hoá không có tính loai trừ trong tiêu dùng. Có nghĩa là không thểloại trừ hoặc rất tốn kém nếu muốn loại trừ những cá thể khước từ không chịu trảtiền cho việc tiêu dùng của mình. Nói cách khác, ngân sách biên để Giao hàng thêm mộtngười sử dụng hàng hoá công cộng là bằng 0. Tuy nhiên ngân sách tăng thêm để sảnxuất thêm một đơn vị chức năng hàng hóa công cộng khác 0. Tuy nhiên hai thuộc tính này không nhất thiết phải đi liền với nhau1. 2.3. Phân loại hàng hóa công cộng – Hàng hoá công cộng thuần tuý là hàng hoá công cộng mang đủ hai thuộc tính củahàng hoá công cộng. – Hàng hoá công cộng không thuần tuý : Trong thực tiễn, có rất ít hàng hoá công cộng thoả mãn một cách ngặt nghèo cả haithuộc tính nói trên, tức là có rất ít những loại hàng hoá công cộng được coi là thuầntuý. Đa số những hàng hoá công cộng được phân phối chỉ có một trong hai thuộc tính nóitrên và có ở những mức độ khác nhau. Những hàng hoá công cộng đó được gọi làhàng hoá công cộng không thuần tuý. Tuỳ theo mức độ tạo ra ngoại ứng trong sản xuất hoặc tiêu dùng hàng hoá, và tuỳtheo năng lực hoàn toàn có thể thiết lập được một chính sách để mua và bán quyền sử dụng nhữnghàng hoá này mà hàng hoá công cộng không thuần tuý hoàn toàn có thể được chia làm hailoại : + Hàng hoá công cộng hoàn toàn có thể tắc nghẽnLà những hàng hoá mà khi có thêm nhiều người cùng sử dụng chúng thì hoàn toàn có thể gâyra sự ùn tắc hay ùn tắc khiến quyền lợi của những người tiêu dùng trước đó bịgiảm sút. Hàng hóa công cộng hoàn toàn có thể ùn tắc có hai thuộc tính là : không loại trừvà có cạnh tranh đối đầu trong tiêu dùng. Khi đó ngân sách biên của việc tiêu dùng hàng hóacông cộng không còn bằng không nữa mà khởi đầu tăng lên kể từ điểm ùn tắc. + Hàng hoá hoàn toàn có thể loại trừ bằng giáHay gọi tắt là hàng hoá công cộng hoàn toàn có thể loại trừ, là những thứ hàng hoá mà lợi íchdo chúng tạo ra hoàn toàn có thể định giá. Hàng hóa công cộng hoàn toàn có thể loại trừ bằng giá có haithuộc tính là : có loại trừ và không cạnh tranh đối đầu trong tiêu dùng. CHƯƠNG 2 : GIÁO DỤC ĐẠI HỌC LÀ HÀNG HÓA CÔNG CỘNG THEOGÓC ĐỘ KINH TẾ2. 1 Khái niệm và đặc thù của giáo dục và giáo dục đại học2. 1.1. Khái niệm quy trình giáo dục và giáo dục đại họcQuá trình giáo dục là quy trình tác động ảnh hưởng có mục tiêu, có mạng lưới hệ thống của nhà giáo dụcđến đối tượng người tiêu dùng giáo dục trải qua việc tổ chức triển khai những hoạt động giải trí phong phú với nhữngnội dung, hình thức, chiêu thức giáo dục tương thích để hình thành cho học sinhnhững phẩm chất của người công dân theo nhu yếu của xã hội, của thời đại. Giáo dục ĐH là những hình thức giáo dục diễn ra ở những cơ sở học tập bậc sautrung học, cuối khóa học thường được trao văn bằng học thuật hoặc cấp chứng từ. Các cơ sở giáo dục ĐH không chỉ gồm có những trường ĐH và viện đại họcmà còn những trường chuyên nghiệp, trường sư phạm, trường cao đẳng, trường đạihọc công lập và tư thục hệ hai năm, và viện kỹ thuật. Điều kiện nhập học căn bảnđối với hầu hết những cơ sở giáo dục ĐH là phải hoàn thành xong giáo dục trung học, và tuổi nhập học thường thì là khoảng chừng 18 tuổi. 2.1.2. Đặc điểm của quy trình giáo dục + Giáo dục là quy trình có tính mục đích_Hoạt động giáo dục luôn có mục tiêu rõ ràng đó là việc xu thế những giá trị xãhộichohọcsinh. _ Mục đích giáo dục trong những nhà trường nhằm mục đích đào tạo và giảng dạy thế hệ trẻ, đào tạo và giảng dạy nguồnnhân lực ship hàng cho sự tăng trưởng kinh tế tài chính, văn hóa truyền thống xã hội theo nhu yếu của đấtnước. + Giáo dục là một quy trình biện chứng_ Giáo dục là 1 quy trình lâu bền hơn, liên tục, diễn ra suốt cuộc sống của con người chịuảnh hưởng của nhiều yếu tố trong đó yếu tố chủ yếu, lực lượng chính là nhà giáodụcvàgiáodụctrongnhàtrường. _ Toàn bộ quy trình giáo dục luôn có sự ảnh hưởng tác động biện chứng giữa đối tượng người dùng giáodục ( HS ) so với những hoạt động giải trí khác. Nổi bật là mối quan hệ tác động ảnh hưởng bản chấtgiữa GV và HS. + Sản phẩm giáo dục là thành quả chung của những lực lượng giáo dục_Quá trình giáo dục chịu sự ảnh hưởng tác động phức tạp của nhiều tác nhân, nhiều lực lượng, được triển khai trong hàng loạt đời sống hàng ngày của HS. Vì vậy loại sản phẩm của quátrình giáo dục ( những loại sản phẩm nhân cách ) là mẫu sản phẩm chung của nhiều lực lượng, của toàn xã hội trong đó giáo dục nhà trường đóng vai trò nòng cốt. Điều này đòihỏi phải có sự thống nhất giữa những lực lượng giáo dục trong xã hội. + Giáo dục là một quy trình tuân theo quy luật số đông nhưng đồng thời cũng bịchiphốibởinhữngđặcđiểmcáthể. _ Giáo dục được thực thi trong một tập thể lớp, GV lựa chọn nội dung, phươngpháp và hình thức tổ chức triển khai tương thích với hầu hết học viên trong lớp ( hướng đến cáichung, ưutiêncáichung ). _ Tuy nhiên trong những trường hợp đơn cử hoạt động giải trí giáo dục và hiệu quả giáo dụclại phụ thuộc vào vào đặc thù cá thể. Vì vậy trong quy trình giáo dục nhà giáo dụccần phải chớp lấy được những đặc thù cá thể để hoàn toàn có thể dự kiến và thực thi cácbiện pháp giáo dục mang tính riêng biệt. + Trong nhà trường quy trình giáo dục có quan hệ mật thiết với quy trình dạy học. _ Quá trình dạy học và quy trình giáo dục đều hướng đến giáo dục nhân cách chohọc sinh. Vì vậy nó thống nhất với nhau cùng giáo dục con người theo nhu yếu xãhội. _ Mặt khác 2 quy trình này luôn tác động ảnh hưởng, tương hỗ thôi thúc nhau. dạy học ( dạy chữ ) là cơ sở, là điều kiện kèm theo để dạy người. Ngược lại quy trình dạy học ( dạy người ) lại tạođiềukiệnthúcđẩyquátrìnhdạyhọc. + Quá trình dạy học được thực hiên trong đời sống hàng ngày trải qua những hoạtđộngsốngvàgiaolưucủatrẻ. _ Quá trình giáo dục khác với dạy học ở chỗ nó không chỉ thực thi trong những giờtrong nhà trường mà nó được thực thi trong hàng loạt đời sống hàng ngày, trongvàngoàinhàtrường. _ Vì vậy hàng loạt hoạt động giải trí sống, tiếp xúc, học tập, lao động của trẻ đều có thểdiễn ra quy trình giáo dục đạt những mục tiêu giáo dục. Nhà giáo dục cũng phải tậndụng điều này để phối hợp thực thi hoạt động giải trí với những lực lượng giáo dục khác. 2.2 Giáo dục ĐH là hàng hóa công cộng theo góc nhìn kinh tế2. 2.1. Các quan điểm trước đóTrong “ Kinh tế học ” của Samuelson, một Nhà kinh tế tài chính học được giải Nobel, khi nóivề hàng hóa, ông có đưa ra một ví dụ cổ xưa là cây đèn biển để minh họa cho loại “ HH công cộng ” ( thuần túy ). Với cây đèn biển, sự thụ hưởng ánh sáng để đi vàođúng bến của chiếc thuyền này trọn vẹn không loại trừ sự thụ hưởng của chiếcthuyền khác. Ở đây muốn thu phí cũng không thu được, do đó thị trường hay tưnhân sẽ không phân phối, Nhà nước nhất thiết phải cung ứng dịch vụ này ở dạng “ cho không ” cho xã hội. Và, cũng vì thế, ở đây người ta đã giống hệt “ công cộng ” với “ Nhà nước ” ( Public State ). Vậy là, một mẫu sản phẩm đi vào quy trình tiêu dùngthông qua việc mua và bán hoặc trao đổi kiểu “ cho không ”, trong cơ chế thị trường, vẫn được gọi là hàng hóa. Hàng hóa không nhất thiết gắn với việc mua và bán haythương mại. Dịch vụ Giáo Dục do vậy vẫn được gọi là một hàng hóa, còn việc cóđem ra “ mua và bán ”, có thu học phí hay trọn vẹn không tính tiền lại là việc khác. Nhưng với dịch vụ GD, khi một em học viên ngồi trên ghế Nhà trường để thụhưởng GD, rõ ràng có loại trừ sự thụ hưởng của em khác. Với dịch vụ GD, cũngtương tự như chiếc áo sơmi, ổ bánh mì …, sự tiêu dùng của tôi sẽ loại trừ sự tiêudùng của bạn, “ Kinh tế học ” gọi là “ HH cá thể ”. HH cá thể hoàn toàn có thể giao cho thịtrường tự do phân tán quyết định hành động sản xuất và phân phối một cách có hiệu suất cao. Vậytại sao ngay ở nhiều nước có truyền thống cuội nguồn CCTT vẫn gọi GD là “ HH công cộng ” ? Theo Élie Cohen và Claude Henry, những HH như GD, y tế, văn hóa truyền thống, v.v … dù “ Kinh tế học ” gọi là HH cá thể nhưng vẫn được gọi là “ ” HH công cộng ” vìchúng thỏa mãn nhu cầu hai tiêu chuẩn cơ bản sau : Tiêu chí một là “ tính thiết yếu ” của dịch vụvà tiêu chuẩn hai là bị rơi vào “ sự hạn chế của cơ chế thị trường ”. Nói riêng về GD, GD là thiết yếu vì nó là nhu yếu cơ bản của con người, là tiền đề cho việc pháttriển kinh tế tài chính – xã hội và còn để tạo nên mối liên kết xã hội. Giáo Dục cũng bị rơivào “ sự hạn chế của cơ chế thị trường ” do thị trường không tuyệt vời và hoàn hảo nhất và thể hiệnrõ nét nhất là “ tác động ảnh hưởng ngoại biên ” ( Externalities ) tích cực của GD. “ Tác độngngoại biên ”, nói nôm na là ảnh hưởng tác động của một người nào đó gây ra tác động ảnh hưởng ( tốthay xấu ) so với phúc lợi của người khác mà ảnh hưởng tác động này lại không được phảnánh qua thanh toán giao dịch thị trường. Một sinh viên học Đại học, quyền lợi chẳng những chosinh viên đó mà còn có tác động ảnh hưởng tốt cho xã hội, hiệu suất lao động xã hội sẽ caohơn, sau này hoàn toàn có thể đóng thuế thu nhập cho xã hội nhiều hơn, v.v … Nhưng nhữngảnh hưởng tốt đó lại không được xã hội trả tiền, nghĩa là ở đây, cơ chế thị trường bịhạn chế, không có tính năng, do không tính được việc lẽ ra là phải trả tiền này. Nhưvậy, gọi Giáo Dục là một “ HH công cộng ” là không theo cách tiếp cận về mức độloại trừ nhau trong sử dụng của “ Kinh tế học ”, mà là để nói về sự thỏa mãn nhu cầu hai tiêuchí nói trên của Giáo Dục. Và cũng do vậy, ở đây “ công cộng ” không có nghĩa làNhà nước nhất thiết phải phân phối ( hay độc quyền ), nghĩa là “ công cộng ” khôngđồng nhất với “ Nhà nước ” ( Public ≠ State ). 2.2.2. Giáo dục ĐH là hàng hóa công cộng không thuần túyVề góc nhìn kinh tế tài chính, có rất nhiều những quan điểm khác nhau của những nhà kinh tế tài chính họctrên quốc tế về việc liệu giáo dục Đại học là hàng hóa công cộng hay hàng hóa tưnhân, và nếu nó là hàng hóa công cộng thì sẽ là hàng hóa công cộng thuần túy haykhông thuần túy. Trả lời cho câu hỏi đó, nhóm 1 Kết luận rằng giáo dục Đại học làhàng hóa công cộng không thuần túy và đơn cử là có tính loại trừ nhưng khôngmang tính cạnh tranh đối đầu. Để dẫn chứng cho câu vấn đáp đó, nhóm 1 sẽ đi vào phântích dưới đây : 2.2.2. 1 Giáo dục ĐH có tính loại trừNhư tất cả chúng ta đã biết, tính loại trừ có nghĩa là khi hàng hóa được cung ứng lợi íchdo chúng tạo ra hoàn toàn có thể định giá. Khi xét về hàng hóa Giáo dục Đại học, Chính sáchhọc phí có ý nghĩa lớn trong việc triển khai chủ trương xã hội hoá giáo dục, tăng tựchủ cho cơ sở giáo dục Đại học, đồng thời biểu lộ sự san sẻ nghĩa vụ và trách nhiệm củangười dân với Nhà nước trong toàn cảnh nguồn ngân sách nhà nước còn hạn hẹp. Nguồn thu từ học phí đã tương hỗ tích cực cho chi liên tục cho những cơ sở giáodục Đại học. Chính vì thế, khi mỗi sinh viên muốn tận hưởng quyền lợi của giáo dụcĐại học thì cần phải chi trả một mức phí tương ứng ( trừ một vài trường hợp ưutiên thuộc diện miễm giảm học phí, được hưởng chủ trương học bổng … ). Hiểnnhiên đã tạo ra tính loại trừ ở đây, sinh viên nào có điều kiện kèm theo về vật chất, đủ khảnăng chi trả mức học phí mới tham gia vào giáo dục Đại học, còn sinh viên nàokhông đủ năng lực chi trả sẽ không tận hưởng quyền lợi đó. Ta sẽ lấy một ví dụ như sau để dẫn chứng cho điều đó, hai sinh viên cùng nănglực như nhau, đi học đều đúng số buổi như nhau, thực thi đúng lao lý của nhàtrường không vi phạm, đủ điều kiện kèm theo dự thi về mặt điểm số, thế nhưng một sinhviên đóng học phí không thiếu, một sinh viên không đóng học phí vừa đủ, nghiễm nhiênsinh viên không đóng học phí rất đầy đủ sẽ bị mất quyền dự thi, dẫn tới việc khôngđược thi những môn, thậm chí còn đình chỉ học ở những kì học sau, và sẽ không đạt được cáithành quả ở đầu cuối mà mình mong ước đó là tấm bằng Đại học, còn về sinhviên đã đóng đủ học phí, dự thi không thiếu sẽ hoàn toàn có thể nhận được bằng sau quy trình họctập. Rõ ràng số tiền học phí là một trong những yếu tố hầu hết quyết định hành động sinhviên có được “ tiêu dùng ” “ hàng hóa ” giáo dục ĐH hay không. Thời gian qua, chính sách quản lý tài chính so với giáo dục Đại học tại Nước Ta đãcó nhiều thay đổi cho tương thích với nhu yếu tăng trưởng. Điều này bộc lộ tại Nghịquyết số 35/2009 / QH12 ngày 19/6/2009 của Quốc hội khóa XII về chủ trương, khuynh hướng thay đổi 1 số ít chính sách kinh tế tài chính trong giáo dục và đào tạo và giảng dạy ( GD&ĐT ) từnăm 2010 – 2011 đến năm học năm trước – năm ngoái ; Nghị định số 49/2009 / NĐ-CP quy địnhvề miễn, giảm học phí, tương hỗ ngân sách học tập và chính sách thu, sử dụng học phí đốivới cơ sở giáo dục thuộc mạng lưới hệ thống giáo dục quốc dân từ năm học 2010 – 2011 đếnnăm học năm trước – năm ngoái. Đặc biêt, Nghị định số 16/2015 / NĐ-CP pháp luật chính sách tựchủ của đơn vị chức năng sự nghiệp công lập đã bộc lộ rõ tiềm năng thay đổi tổng lực cácĐơn vị sự nghiệp công lập nói chung và những trường ĐH công lập nói riêng ; đẩymạnh việc giao quyền tự chủ, tự chịu nghĩa vụ và trách nhiệm cho những đơn vị chức năng đồng nhất cả vềthực hiện trách nhiệm, tổ chức triển khai cỗ máy, nhân sự và kinh tế tài chính. Đổi mới cơ chế tài chínhtheo hướng trao quyền tự chủ, tự chịu nghĩa vụ và trách nhiệm cho những đơn vị chức năng giáo dục đại họccông lập là xu thế khách quan. Thời gian gần đây, việc thực thi chính sách tự chủ tàichính tại những trường Đại học công lập ở Nước Ta đã được tiến hành thử nghiệm và cónhững hiệu quả khởi đầu đáng ghi nhận, chính vì thế từ từ những trường ĐH ởViệt Nam sẽ tiến tới chính sách tự chủ kinh tế tài chính trọn vẹn, đồng nghĩ với việc trongtương lai gần giáo dục Đại học ở Nước Ta sẽ không được phân phối không lấy phí, màsinh viên sẽ đóng một mức học phí tương đối cao để bù đắp ngân sách để cung cấpgiáo dục ĐH khi những trường tiến tới tự chủ trọn vẹn. Do vậy tính loại trừ tronggiáo dục Đại học ngày càng cao. Bên cạnh việc giáo dục ĐH có tính loại trừ trải qua mức học phí, thìnó còn biểu lộ tính loại trừ trải qua một tiêu chuẩn rất đặc biệt quan trọng đó là năng lượng củangười học, khác với những hàng hóa thường thì khác giáo dục Đại học là mộthàng hóa nhu yếu người sử dụng nó phải có năng lượng nhất định, để thấy rõ điều đóta sẽ liên tục nghiên cứu và phân tích một sinh viên cần mẫn, có kỹ năng và kiến thức, có kiến thức và kỹ năng đáp ứngmọi nhu yếu của nhà trường qua những kì thi thì mới hoàn toàn có thể tiếp thu được hết kiếnthức mà giáo dục Đại học mang lại và đạt được tấm bằng Đại học, ngược lại mộtsinh viên dù có đóng khá đầy đủ học phí nhưng thiếu năng lượng, lười biếng, không tựnuôi dưỡng bản thân thì không thể nào tiếp thu được kỹ năng và kiến thức, không thể nào vượtqua những kì thi, sẽ bị loại ra khỏi việc “ tiêu dùng ” “ hàng hóa giáo dục Đại học ”, cụthể như lao lý của trường ĐH nếu không bảo vệ điểm tích góp đúng quyđịnh thì sẽ bị cảnh cáo học tập, đình chỉ học và buộc thôi học. Sinh viên nhờ ngườiđi học hộ ; sinh viên nhờ người thi hộ ; nhờ người làm hộ báo cáo giải trình thực tập, khóaluận tốt nghiệp đều bị kỷ luật ở mức đình chỉ học tập 1 học kỳ so với trường hợpvi phạm lần thứ nhất ; đình chỉ 1 năm so với trường hợp vi phạm lần thứ hai vàbuộc thôi học so với trường hợp vi phạm lần thứ ba. Tóm lại, sinh viên bắt buộcphải có đủ năng lượng thì mới hoàn toàn có thể tham gia học Đại học, nếu như không đáp ứngđược về năng lượng thì cũng sẽ bị loại trừ ra khỏi việc sử dụng hàng hóa giáo dục Đạihọc. Sau khi nghiên cứu và phân tích như trên, hoàn toàn có thể Tóm lại lại một lần nữa rằng giáo dục đại làmột “ hàng hóa ” có tính loại trừ, nó hoàn toàn có thể định giá được bằng mức học phí màmỗi sinh viên nộp vào khi học Đại học và trình độ của sinh viên khi tham giahọc Đại học. 2.2.2. 2. Giáo dục ĐH là hàng hóa không có tính cạnh tranhNhư tất cả chúng ta đã biết, tính không cạnh tranh đối đầu trong tiêu dùng hàng hóa côngcộng có nghĩa là khi hàng hóa đã được cung ứng, việc có thêm một hay nhiềungười cùng đồng thời sử dụng hàng hóa này cũng không làm tác động ảnh hưởng tới lợi íchcủa những người tiêu dùng hiện có. Ở đây tất cả chúng ta cần phải hiểu là “ đã được cungcấp ” có nghĩa là tất cả chúng ta chỉ tính đến những người đã đỗ Đại học, chứ không phảilà nói tổng thể những học viên chuẩn bị sẵn sàng thi lên ĐH, nên nói giáo dục ĐH là hànghóa có tính cạnh tranh đối đầu vì phải cạnh tranh đối đầu nhau để thi vào là không đúng. Theo những quan điểm của những nhà kinh tế tài chính học quốc tế có nhữngngười cho rằng giáo dục ĐH là hàng hóa có tính cạnh tranh đối đầu vì việc có thêm mộthay nhiều người đồng thời vào học sẽ làm quyền lợi của những người đang sử dụnggiảm xuống. Điều này ta không phủ nhận vì hoàn toàn có thể với trong thực tiễn những nước khácnhau việc có thêm sinh viên vào học sẽ làm mất đi thời cơ được nói, được học hỏi, được tiếp xúc với giáo viên của những sinh viên đang sử dụng, hay là việc có thêm
Source: https://vh2.com.vn
Category : Vận Chuyển