Networks Business Online Việt Nam & International VH2

Bình giảng bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt

Đăng ngày 05 June, 2023 bởi admin

Thương bà cháu nhớ ngày xưa
Dãi dầu cuối chợ nắng mưa sáng chiều
Biển đời đơn độc mái chèo
Thuyền bà chống đỡ trăm chiều bão giông.

(Bà ơi, Phạm Trung Dũng)

Bà ơi ! Thế là mùa đông năm nay, mùa đông tiên phong trong đời cháu phải xa bà. Nhớ nao lòng những mùa đông, những ngày tháng còn ở bên bà. Cháu đã tự hỏi rằng, có phải trong hành trình dài dài của cuộc sống mỗi người có những ngày tháng, những kỉ niệm và những con người mà ta không thể nào quên được ? Mùa đông nơi xứ người với những giấc ngủ ấm cúng, đẹp như trong những câu truyện cổ của An-đéc-xen, nhưng không hề bằng câu truyện đẹp ấm cúng tình yêu thương của bà dành cho cháu. Cháu nhớ bếp lửa ấp iu nồng đượm quá, bà ơi ! Chỉ là một bếp lửa chờn vờn sương sớm … mà sao tha thiết nghĩa tình thế, mà sao lắng sâu đến thế ! Thì ra ; có khi những điều nhỏ nhoi, đơn giản và giản dị nhất lại chứa đựng tâm tình, chắt đọng những điều thiêng liêng ; lại hiện hình lên những tình cảm thiết tha, chân thành không thể nào quên. Bà ơi ! Chỉ là một “ bếp lửa ” nhỏ đơn sơ thôi mà sao đọng lại trong lòng cháu những dư vị ngọt ngào đến vậy ?
Bằng những vần thơ theo dòng hồi tưởng, gợi nhớ về tuổi thơ của đứa cháu xa nhà ; bài thơ Bếp lửa đã ca tụng đức hi sinh, sự tần tảo và tình thương bát ngát của bà, đồng thời biểu lộ lòng kính yêu và biết ơn tha thiết của cháu so với bà. Ra đời vào năm 1963, bài thơ Bếp lửa đã tái hiện chân thực một khoảng chừng kí ức tuổi thơ của người cháu bên bà của mình. Tuổi thơ của người cháu gắn liền với hình ảnh người bà thân thương và bếp lửa ấp iu nồng đượm, khiến mỗi khi nhớ về bà, người cháu lại có những xúc cảm vô cùng yêu thương, xen lẫn cảm phục người bà của mình. Bài thơ không riêng gì nói lên tình cảm của người cháu dành cho bà mà còn chứng minh và khẳng định bếp lửa không chỉ làm ấm tình cảm bà cháu mà còn sưởi ấm cả một đời người .
Mở đầu bài thơ là hình ảnh bếp lửa, khơi gợi cho người cháu nhớ về người bà yêu thương và đáng kính :
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa .
Hình ảnh “ bếp lửa ” trong màn sương sớm đã được khắc họa giản dị và đơn giản nhưng rõ nét và sôi động qua ba câu thơ. Bếp lửa có lúc sáng mãnh liệt ; có lúc chập chờn, không định hình ; đã trở thành hình ảnh thân mật và quen thuộc trong đời sống hằng ngày của dân cư Nước Ta. Đó không chỉ là nơi để đun nấu mà còn là nơi sum vầy, ghi dấu những niềm vui ; nỗi buồn của mọi mái ấm gia đình. Điệp ngữ “ một bếp lửa ” cùng với những từ láy “ chờn vờn ” ; “ ấp iu ” đã gợi nên sự ấm cúng, đầy tình thương yêu như tấm lòng bà. Từ “ ấp iu ” gợi sự khôn khéo của bàn tay bà khi bà nhóm bếp lửa, tấm lòng yêu thương, chi chút của bà đến con cháu. Trong hồi tưởng của cháu, hình ảnh người bà luôn hiện hữu cùng bếp lửa qua bao năm tháng. Hình ảnh của bà hiện lên một cách nhẹ nhàng nhưng vô cùng đẹp tươi trong trái tim người cháu, bà vẫn luôn nhóm bếp lửa mỗi sớm, mỗi chiều và suốt cả cuộc sống .
Hình ảnh “ bếp lửa ” là biểu lộ đơn cử và sinh động về sự tần tảo, chăm nom và yêu thương của người bà so với con cháu trong mọi thực trạng khó khăn vất vả, khó khăn. Trước sự hi sinh của bà, người cháu luôn “ thương bà biết mấy nắng mưa ”. Từ đó làm bật lên tình cảm sâu nặng của người cháu một cách thật tự nhiên, không hề tả xiết vì những “ nắng mưa ”, khó nhọc, khó khăn vất vả của cuộc sống bà. Từ “ thương ” diễn đạt rất chân thực mà giản dị và đơn giản, không chút hoa mĩ tấm lòng thương mến bà của cháu .

Từ tình yêu thương và nỗi nhớ da diết, người cháu đã nhớ về những kỉ niệm của tuổi thơ được sống bên bà:

Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy .
Những vần thơ nhẹ nhàng như lời kể lại những năm tháng thơ ấu đầy gian nan của cháu với bóng đêm của nạn đói năm 1945. Khi nhớ về những ngày thơ ấu khó khăn bên bà, người cháu nhớ về năm đói kém đã sống trong sự nuôi nấng ; tình yêu thương sâu đậm của bà khi bố phải đi “ đánh xe ”, để cháu lại quê nhà cho bà chăm nom. Cụm từ “ đói mòn đói mỏi ” đã diễn đạt chân thật những cực khổ của hai bà cháu trong thời kì đó. Hình ảnh “ bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy ” đã cho thấy cái đáng sợ của giặc đói, tình cảnh cực khổ của nhân dân ta dưới thời kì đó :
Con đói lả ôm sống lưng mẹ khóc
Mẹ đợ con đấu thóc cầm hơi
Kiếp người cơm vãi, cơm rơi
Biết đâu nẻo đất phương trời mà đi !
{ Ba mươi năm đời ta có Đảng, Tố Hữu )
Thời gian đã đi qua nhưng kí ức tuổi thơ và tình cảm đậm sâu của tình bà trong cháu vẫn vẹn nguyên :
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay !
Người cháu vẫn như cảm nhận được mùi khói vẫn còn cay nồng nơi sống mũi, mùi khói “ hun nhèm ” cả kí ức tuổi thơ, chân thực và mang đầy nghĩa tình sâu nặng. Sự xúc động lan tỏa trong tâm hồn người cháu không chỉ vì khói cay của rơm rạ, củi bị ướt sương mà còn là khói bom đạn, là khó khăn vất vả thiếu thốn trong cuộc chiến tranh và tình yêu thương con cháu da diết của bà. Câu thơ đã biểu lộ rất chân thực và xúc động niềm thổn thức của người cháu khi nhớ về những năm tháng tuổi thơ bên bà kính yêu. Với những cụ thể và ngôn từ giản dị và đơn giản, chân thực, đoạn thơ đã thấm đượm bao tình cảm sâu nặng của người cháu với bà của mình .
Lội ngược dòng thời hạn từ trong màn sương khói u ám và sầm uất của thời thơ ấU ; tác giả liên tục đắm mình trong những hồi tưởng về tuổi thơ khi ở cạnh bà :
Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà
Bà hay kể chuyện những ngày ở
Huế Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế !
Đoạn thơ như đang kể về một câu truyện cổ tích nhưng lại làm hiện rõ những năm tháng khó nhọc cháu lớn lên trong sự yêu thương, đùm bọc của bà. “ Tám năm ròng ” kháng chiến đầy khó khăn vất vả gian lao nhưng so với tác giả, đó là một khoảng chừng thời hạn thật đẹp, thật thâm thúy, vui buồn cùng bà bên bếp lửa. Từ bếp lửa nhỏ bé thân thương, tuổi thơ cháu trải dài trên “ những cánh đồng xa ” với tiếng chim tu hú vang vọng, gợi lại trong tâm hồn người cháu bao kỉ niệm khó quên về người bà, về bếp lửa. Từ đó, gợi lên khoảng chừng thời hạn cháu đã mở màn tự lập, nhóm lên ngọn lửa tình cảm thắm nồng mà bà dành cho trong tim cháu. Tiếng chim tu hú lúc vang vọng lúc mơ hồ, khi lại thân mật, xót xa như giục giã, như khắc khoải gợi về miền thương nhớ, gợi về quê nhà nơi có người bà giàu tình yêu thương. Từ đó cho thấy tình cảnh vắng vẻ, cô quạnh và nỗi mong nhớ cha mẹ của người cháu. Nhà thơ đang kể, bất chợt quay sang tâm sự “ bà còn nhớ không bà ? ” để nhớ về những câu truyện bà hay kể, nhớ những việc làm tận tụy, đầy yêu thương của bà dành cho cháu .
Âm thanh đồng quê thân mật và bình dị của tiếng tu hú tha thiết như lời nói từ tấm lòng của cháu, tiếng quen thuộc đọng lại qua những lần bà “ kể chuyện những ngày ở Huế ”. Bằng nét thơ phát minh sáng tạo, người cháu đã bộc lộ tình cảm của mình dành cho bà khi tâm sự chân thành với những tiếng chim tu hú bình dị trên những cánh đồng xa. Tiếng chim tu hú trong khổ thơ làm cho khoảng trống kỉ niệm có chiều sâu khiến cho nỗi nhớ của cháu về bà bỗng trở nên thăm thẳm và vời vợi .
Từ trong miền kí ức của mình, tác giả không thể nào quên được dù bao nhiêu mùa tu hú đi qua thì bà vẫn luôn tảo tần chăm nom cháu :
Mẹ cùng cha công tác làm việc hận không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học .
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc .
Những lời thơ bình dị đã biểu lộ chân thật sự tận tình chăm nom cháu của bà khi “ Mẹ cùng cha công tác làm việc bận không về ”. Tình thương của bà so với cháu to lớn như biển trời bát ngát, bà đảm nhiệm vai trò của một người cha, một người mẹ và một người thầy. Bà chăm chút cho cháu từ cái ăn, cái mặc đến cả việc học tập. Bà dạy cho cháu những bài học kinh nghiệm làm người, chăm chút cho cháu dẫu vẫn phải khó khăn vất vả lo toan bao điều. Từ “ bà ” được lặp lại nhiều lần cùng với cấu trúc “ bà – cháu ” sóng đôi gợi lên tình cảm gắn bó, ấm cúng của tình bà cháu. Hình ảnh “ nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc ” mang đầy sắc tố trẻ thơ vô cùng đẹp tươi, giản dị và đơn giản mà hàm súc. Hình ảnh ấy cho thấy cháu đã hiểu được những khó khăn vất vả của bà và yêu thương bà mình, ngày ngày giúp bà “ nhóm bếp lửa ” đỡ đần phần nào việc làm của bà .
Tâm hồn cháu lúc này chỉ còn ngập tràn niềm yêu thương với bà. Cháu trách những chú chim tu hú :

Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà

Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa ?
Bằng lời thơ tha thiết và trầm buồn, cháu như đang trách cứ những chú tu hú bay ngoài đổng xa không đến ở cùng bà để bà đỡ cô quạnh, buồn tủi hay tác giả đang trách chính bản thân mình vô tâm ? Cách nói này đã thể hiện kín kẽ, ý nhị tình cảm yêu dấu, xót xa của tác giả trước nỗi đơn độc và sự khó khăn vất vả của bà .
Những dòng kỉ niệm của năm tháng cũ như những thước phim quay chậm về đời sống của hai bà cháu trong cuộc chiến tranh khó khăn :
Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở lại lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh
Chiến tranh, một danh từ thông thường nhưng sức lột tả của nó thì quyết liệt vô cùng, nó đã gây ra đau khổ cho bao người, bao nhà. Hai bà cháu trong bài thơ cũng trở thành một nạn nhân của cuộc chiến tranh : mái ấm gia đình bị chia cắt, nhà bị giặc đốt cháy rụi … Trong thực trạng ấy, người bà hiện lên thật đẹp với đức hi sinh cao quý. Từ “ lầm lụi ” biểu lộ hình ảnh người bà cũng như bao người hàng xóm lặng lẽ sớm hôm muốn san sẻ, gánh vác cùng con cháu những khó khăn vất vả, lo toan. Gian khổ là thế nhưng có được sự trợ giúp của hàng xóm, tình cảm của những người cùng cảnh ngộ, hai bà cháu đã dựng lại được túp lều tranh .
Ở bên bà, cháu thấy được những đức tính cao đẹp của bà. Bà vẫn chịu thương chịu khó cặm cụi vì không muốn con mình lo ngại :
Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh :
“ Bố ở chiến khu, bố còn việc bố
Mày có viết thư chớ kể này, kể nọ ,
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên ! ”
Chiến tranh khó khăn nhưng bà luôn “ vững lòng ”, chính phẩm chất cao đẹp ấy đã làm cho cháu luôn tự hào khi nhớ về bà. Lời dặn của bà chân thực và cảm động, chan chứa bao ý nghĩa từ tấm lòng bà. Qua đó không chỉ biểu lộ tình yêu thương con cháu của bà mà còn để cao phẩm chất cao quý, đức hi sinh, nhẫn nại của những người phụ nữ Nước Ta để yên lòng người nơi chiến tuyến. Trong ý thơ còn hàm chứa cả lòng khâm phục và kính trọng mà cháu dành cho bà, như tình cảm hướng về Tổ quốc, về những người thân yêu .
Từ bếp lửa thân thương như bao bếp lửa của mái ấm gia đình Việt, cháu nghĩ đến ngọn lửa thắp sáng của người bà kính yêu :
Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng …
Ba câu thơ như một nốt nhấn, một điệp khúc khó quên trong bản tình ca về bà cháu đầy thiêng liêng và cao quý. Hình ảnh ngọn lửa tỏa sáng trong câu thơ có sức truyền cảm can đảm và mạnh mẽ. Giữa những mất mát đau thương, bà vẫn ngày ngày nhóm bếp lửa, chất chứa bao nét đẹp ý nghĩa, sự tinh xảo, bình dị đơn sơ và tình yêu thương của cháu với bà. “ Rồi sớm rồi chiều ” bà vẫn nhen lên ngọn lửa như nhen nhóm lên trong lòng người cháu một tình cảm to lớn, ấp ủ bằng tình thương bát ngát, dạt dào suốt cuộc sống. “ Bếp lửa ” của tình yêu mái ấm gia đình, quê nhà giờ đây đã trở thành một “ ngọn lửa ” mang đậm giá trị hình tượng, bếp lửa ấy được bà “ nhen ” lên từ ngọn lửa trong lòng bà. Ngọn lửa ấy là ngọn lửa của tình yêu thương, ngọn lửa của niềm tin vào kháng chiến, ngọn lửa ấm nồng như tình bà cháu, ngọn lửa hồng soi sáng con đường cháu đi. Hình ảnh người bà hiện lên tuy mộc mạc nhưng thật tỏa nắng rực rỡ, bà luôn chịu khó, chắt chiu, giàu nghị lực và đức hi sinh cao quý như bao người phụ nữ Nước Ta trong cuộc kháng chiến .
Đi qua những hồi ức năm tháng của tuổi thơ, giờ đây, tác giả chợt suy ngẫm về cuộc sống bà :
Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận giờ đây
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm .
Cụm từ “ biết mấy nắng mưa ” được lặp lại từ khổ một như điểm nhấn nói về rất nhiều “ lận đận ”, nhiều “ nắng mưa ” trong cuộc sống bà. Thế nhưng, bà vẫn luôn bí mật chịu đựng, cần mẫn và chu đáo chăm sóc cho con cháu của mình. Dù đã “ mấy chục năm ” đi qua khó khăn, nhọc nhằn nhưng bà vẫn giữ “ thói quen dậy sớm ”, tần tảo, chịu thương chịu khó tưởng như không khi nào dứt. Cháu vẫn thương mãi thói quen của bà, thương bà nhóm bếp lửa suốt cả cuộc sống. Bà đã nhóm lửa bằng cả lòng đôn hậu để những vần thơ của cháu thấm đẫm tình cảm sâu nặng và lòng biết ơn thâm thúy .
Chiến tranh đã đi qua, nhưng bà ngày ngày vẫn :
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ
Ôi kì quặc và thiêng liêng – bếp lửa !
Điệp từ “ nhóm ” được nhắc lại bốn lần mang bốn nghĩa khác nhau, vang lên theo từng cung bậc tình cảm lớn dần, tỏa sáng dần nét “ kì khôi ”, thiêng liêng và nhất là tình nghĩa của bà. Đó như thể một lời khẳng định chắc chắn bà chính là người nhóm lên trong lòng cháu ngọn lửa yêu thương bằng đức hi sinh cao quý, biểu lộ niềm xúc động thiết tha, kết lại trong miền kí ức của người cháu. Bà “ nhóm tình yêu thương khoai sắn ngọt bùi ”, dạy cho cháu tình yêu xóm làng, yêu mảnh đất quê nhà bần hàn, bà “ nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui ”, dạy cho cháu biết yêu thương, san sẻ với mọi người. Cuối cùng, người bà kì diệu ấy “ nhóm dậy ”, thức tỉnh và bồi đắp cho đứa cháu cả về tâm hồn và cách sống, bà còn là người truyền lửa và giữ cho ngọn lửa ấy cháy sáng trong lòng mọi người .
Âm điệu thơ dạt dào như những con sóng, giàu sức lan tỏa như đó chính là xúc cảm đang dâng trào trong trái tim nhà thơ. Mỗi câu, mỗi chữ cứ hồng lên, nồng ấm biết bao tình cảm nhớ thương về bà. Câu thơ “ Ôi kì quặc và thiêng liêng – bếp lửa ” thể hiện rõ nhất thái độ kính trọng và xúc cảm đang ào ạt trong tâm hồn người cháu. Câu thơ chỉ có tám chữ mà có sức khái quát cả tâm lý lẫn tình cảm của tác giả so với bếp lửa gắn liền với hình ảnh người bà. Cách ngắt nhịp là một dấu gạch ngang đầy thẩm mỹ và nghệ thuật, tiềm ẩn bao xúc cảm và tâm lý không hề miêu tả hết bằng ngôn từ .
Chính tấm lòng yêu thương của bà đã khiến cho cháu không thể nào quên đi những năm tháng ấu thơ, dù cháu đã trưởng thành :
Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẳng khi nào quên nhắc nhở :
– Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa ? …
Đoạn thơ đã đúc rút thật đằm thắm lòng thương nhớ, kính yêu và biết ơn bà thâm thúy của tác giả. Bao năm dài đằng đẵng, đứa cháu giờ đã khôn lớn, sống trong một khung cảnh mới, một cuộc sống mới vừa đủ và ấm no nhưng không thể nào nguôi nhớ về bà. Đặc biệt, câu hỏi tu từ “ Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa ? ” cho thấy người cháu chẳng thể quên được bếp lửa thân thương của bà. Câu hỏi khép lại bài thơ có sức ám ảnh day dứt như tình cảm người cháu luôn nhớ về bà, nhớ về bếp lửa quê nhà .
Bằng những lời thơ trong sáng, bình dị và giàu chất trữ tình, âm điệu thơ sâu lắng, bài thơ mang triết lí sâu xa, thầm kín. Một trong những thành công xuất sắc của tác giả là tích hợp thuần thục giữa biểu cảm với miêu tả, tự sự, bình luận và sự phát minh sáng tạo trong việc kiến thiết xây dựng hình ảnh bếp lửa gắn liền với người bà .

Qua những hồi tưởng và suy ngẫm của người cháu, bài thơ Bếp lửa gợi lại những kỉ niệm đầy xúc động về người bà và tình bà cháu, đồng thời thể hiện lòng kính yêu, trân trọng và biết ơn của người cháu đối với gia đình, quê hương, đất nước. Tình yêu thương và lòng biết ơn bà là biểu hiện cụ thể của tình yêu thương, sự gắn bó với gia đình, quê hương và đó cũng là sự khởi đầu của tình yêu con người, tình yêu đất nước. Bếp lửa là một bài học đạo lí tha thiết. Bài thơ nhắc nhở ta về lối sống thuỷ chung ân nghĩa, về lòng biết ơn, cách cư xử với gia đình, láng giềng và quê hương, cội nguồn dân tộc.

Hoàng Kim Thanh Lớp 9A3 ,
Trường trung học cơ sở Nguyễn Thái Bình, TP. Vũng Tàu ( Có chỉnh sửa và bổ trợ ) ( Bài do cô giáo Vương Yến Linh – Giáo viên Trường trung học cơ sở Nguyễn Thái Bình cung ứng )

Source: https://vh2.com.vn
Category : Đánh Giá