Networks Business Online Việt Nam & International VH2

Điều 21. Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự

Đăng ngày 06 June, 2023 bởi admin

Điều 21. Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự

Người triển khai hành vi nguy khốn cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất năng lực nhận thức hoặc năng lực điều khiển và tinh chỉnh hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự .

Bình luận

Điều luật trên được trình bày giản tiện lại để dễ phân tích:

Điều kiện giả định : ( 1 ) Hành vi nguy khốn cho xã hội + ( 2 ) mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác => ( 3 ) làm mất năng lực nhận thức hoặc năng lực điều khiển và tinh chỉnh hành vi
Hậu quả : Không phải chịu trách nhiệm hình sự

Dễ dàng để nhận thấy đây là trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự do không thỏa mãn được yếu tố mặt chủ thể trong cấu thành tội phạm. Cụ thể là chủ thể đã không đáp ứng được điều kiện “..do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện…”. Cụ thể:

( 1 ) Hành vi nguy hại cho xã hội : Hành vi nguy khốn ở đây được hiểu là những hành vi hoàn toàn có thể hoặc đã gây tổn hại đến những mối quan hệ xã hội được Luật hình sự bảo vệ. Nói cách khác, hành vi đó phải là hành vi thuộc mặt khách quan của tối thiểu một tội được lao lý đơn cử trong Bộ Luật này. Đây là tiền đề để dẫn nhập vào những nội dung sau, bản thân nó không có giá trị trong việc có loại trừ trách nhiệm hình sự của chủ thể triển khai hành vi hay không và tín hiệu hành vi khách quan này không phải là mấu chốt của yếu tố .
( 2 ) Trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác : Đầu tiên cần phải chú ý quan tâm đến cụm “ trong khi đang ”. Trước tiên cần xác lập như thế nào là đang mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác. Cơ sở nào để xác lập một ai đó có đang mắc bệnh tâm thần hay không ? Có 2 trường hợp hoàn toàn có thể xảy ra

Trường hợp 1: Người đó đã có Giấy xác nhận của cơ quan Y tế có thẩm quyền về bệnh tâm thần đang mắc phải và (hoặc) tuyên bố mất năng lực hành vi của Tòa án.

Trường hợp 2 : Chưa có bất kể một sách vở nào từ cơ quan có thầm quyền chứng tỏ tình trạng bệnh lý của người thực thi hành vi .
Trường hợp 1 thường thì sẽ rất thuận tiện trong việc xác lập người đó có bị mắc bệnh tâm thần hay không, tuy nhiên trong trường hợp 2 thì việc này sẽ trở nên khó khăn vất vả hơn khi phải thực thi việc giám định bệnh tâm thần sau khi hành vi đã được thực thi trong thực tiễn. Và cái khó khăn vất vả nhất là làm rõ được 2 chữ “ trong khi ”. Ngành Y học đã chứng tỏ có 1 số ít bệnh tâm thần mà bộc lộ của bệnh lý không diễn ra một cách liên tục, cái mà nhân gian hay gọi 3 hồi tỉnh 3 hồi say nghĩa là mặc dầu bị mắc bệnh nhưng tỉnh thoảng họ vẫn tỉnh táo nhận thức một cách thông thường. Đối chiếu theo đúng pháp luật của điều luật trong trường hợp đó họ sẽ không được loại trừ trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên trong thực tiễn để xác lập việc có loại trừ hay không trong những trường hợp này rất khó khăn vất vả. Và điều luật này cũng nhiều lần bị tận dụng nhằm mục đích trốn tránh trách nhiệm bằng cách xin giấy ghi nhận bị bệnh tâm thần mà báo chí truyền thông hay gọi là kim bài miễn tử .

( 3 ) Làm mất năng lực nhận thức hoặc năng lực tinh chỉnh và điều khiển hành vi : mục ( 2 ) chỉ là điều kiện kèm theo cần mà thôi, để bảo vệ điều kiện kèm theo đủ, bệnh tâm thần hay bệnh khác nào đó phải dẫn đến mất năng lực nhận thức ( không hề biết được hành vi của mình là nguy hại cho xã hội ) hoặc mất năng lực điều khiển và tinh chỉnh hành vi ( vẫn ý thức được nhưng không hề tinh chỉnh và điều khiển được do bệnh lý – thường thì là những bệnh tương quan đến hệ thần kinh hoạt động ). Lưu ý ở đây là mất chứ không phải là hạn chế, nghĩa là trường hợp hạn chế năng lực nhận thức và hạn chế năng lực điều khiển và tinh chỉnh hành vi thì vẫn không thuộc trường hợp được loại trừ theo pháp luật tại điều luật này mà hạn chế đó hoàn toàn có thể được dùng làm địa thế căn cứ để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự .

Source: https://vh2.com.vn
Category : Đánh Giá