Networks Business Online Việt Nam & International VH2

Bất cập trong việc chuyển nhượng dự án đầu tư – Luật Thiên Phúc

Đăng ngày 24 April, 2023 bởi admin

Bất cập trong việc chuyển nhượng dự án đầu tư

Dự án đầu tư là sản phẩm, là kết quả được hình thành từ hoạt động đầu tư kinh doanh của nhà đầu tư nên nhà đầu tư được quyền sở hữu đối với dự án đầu tư. Vì vậy, Luật Đầu tư 2005 và cả Luật Đầu tư 2014 đều cho phép nhà đầu tư được quyền chuyển nhượng dự án đầu tư. Nhưng trong quá trình xây dựng quy định pháp luật và quá trình áp dụng thực tiễn, thực hiện pháp luật về chuyển nhượng dự án đầu tư trên thực tế trong một số ngành, nghề, lĩnh vực khác nhau không đồng nhất, xuất hiện nhiều khó khăn, hạn chế và bất cập. Sau đây, Luật Thiên Phúc sẽ cung cấp một số thông tin hữu ích cho khách hàng về Bất cập trong việc chuyển nhượng dự án đầu tư của các nhà đầu tư.

  1. Khái niệm dự án đầu tư và chuyển nhượng dự án đầu tư

Đầu tư theo nghĩa chung nhất là việc nhà đầu tư bỏ vốn ( tiền, gia tài hữu hình hoặc vô hình dung ), sức lực lao động, trí tuệ … theo những hình thức, phương pháp do pháp lý pháp luật để thực thi những hoạt động giải trí đầu tư nhằm mục đích đạt được những tác dụng theo tiềm năng, mục tiêu mà nhà đầu tư đặt ra. Trong đầu tư kinh doanh thương mại thì tiềm năng của những nhà đầu tư luôn là doanh thu .

Theo nghĩa rộng, có thể hiểu dự án đầu tư là tổng thể các hoạt động, các chi phí của nhà đầu tư được bố trí theo một kế hoạch chặt chẽ, với lịch trình thời gian và địa điểm xác định cụ thể, để tạo mới, mở rộng hoặc cải tạo những cơ sở vật chất nhất định nhằm đạt được những mục tiêu lợi nhuận nhất định trong tương lai. Dự án đầu tư là sản phẩm, là kết quả được tạo ra từ các hoạt động đầu tư kinh doanh của nhà đầu tư nên là tài sản của nhà đầu tư.

Theo nghĩa hẹp, dưới góc nhìn pháp lý, hoàn toàn có thể hiểu dự án Bất Động Sản đầu tư là gia tài của nhà đầu tư được hình thành từ những hoạt động giải trí đầu tư, sản xuất kinh doanh thương mại của nhà đầu tư gồm có những loại gia tài, quyền gia tài, quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của nhiều bên đan xen lẫn nhau không tách rời như gia tài hữu hình, gia tài vô hình dung, quyền sở hữu trí tuệ, những quyền, quyền lợi và nghĩa vụ và trách nhiệm của nhà đầu tư, người mua, nhà thầu … phát sinh từ / hoặc có tương quan đến dự án Bất Động Sản đầu tư .Chuyển nhượng dự án Bất Động Sản đầu tư được hiểu là sự chuyển dời quyền sở hữ dự án Bất Động Sản đầu tư từ nhà đầu từ này sang nhà đầu tư khác do những nhà đầu tư thực thi theo trình tự, thủ tục do luật định và được cơ quan nhà nước có thẩm quyền đồng ý chấp thuận, đồng ý chấp thuận .

  1. Điều kiện chuyển nhượng dự án đầu tư

Căn cứ Điều 46 Luật Đầu tư 2020, Nhà đầu tư có quyền chuyển nhượng hàng loạt hoặc một phần dự án Bất Động Sản đầu tư cho nhà đầu tư khác khi cung ứng những điều kiện kèm theo sau đây :– Dự án đầu tư hoặc phần dự án Bất Động Sản đầu tư chuyển nhượng không bị chấm hết hoạt động giải trí theo pháp luật tại khoản 1 và khoản 2 Điều 48 của Luật này ;– Nhà đầu tư quốc tế nhận chuyển nhượng dự án Bất Động Sản đầu tư, một phần dự án Bất Động Sản đầu tư phải phân phối điều kiện kèm theo pháp luật tại khoản 2 Điều 24 của Luật này ;– Điều kiện theo lao lý của pháp lý về đất đai trong trường hợp chuyển nhượng dự án Bất Động Sản đầu tư gắn với chuyển nhượng quyền sử dụng đất, gia tài gắn liền với đất ;

– Điều kiện theo quy định của pháp luật về nhà ở, pháp luật về kinh doanh trong trường hợp chuyển nhượng dự án đầu tư xây dựng nhà ở, dự án ;

– Điều kiện lao lý tại văn bản chấp thuận đồng ý chủ trương đầu tư, Giấy ghi nhận ĐK đầu tư hoặc theo lao lý khác của pháp lý có tương quan ( nếu có ) ;– Khi chuyển nhượng dự án Bất Động Sản đầu tư, ngoài việc triển khai theo pháp luật tại Điều này, doanh nghiệp nhà nước có nghĩa vụ và trách nhiệm thực thi theo pháp luật của pháp lý về quản trị, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh thương mại tại doanh nghiệp trước khi triển khai việc kiểm soát và điều chỉnh dự án Bất Động Sản đầu tư .

  1. Bất cập trong việc chuyển nhượng dự án đầu tư

Thứ nhất, Luật Đầu tư quy định nhà đầu tư có quyền chuyển nhượng toàn bộ hoặc chuyển nhượng một phân dự án đầu tư cho các nhà đầu tư khác. Trong đó quy định cụ thể về điều kiện là phải tuân thủ các điều kiện theo quy định của về đất đai, pháp luật về kinh doanh trong trường hợp chuyển nhượng dự án gắn với chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Thế nhưng Luật Đất đai không quy định cho chuyển nhượng dự án đầu tư. Do đó, sẽ có hiện tượng các nhà đầu tư lách luật bằng nhiều hình thức. Điển hình như việc góp vốn để thực hiện việc chuyển quyền sử dụng đất gắn với dự án đầu tư. Phương thức chuyển nhượng và góp vốn bằng Quyền sử dụng đất (QSDĐ) để thực hiện dự án đầu tư hiện đang là cản trở lớn đối với các doanh nghiệp muốn tiếp cận đất đai để đầu tư BĐS bởi các điều kiện quy định trong Luật Đất đai năm 2013 không tương thích và thông thoáng như tinh thần mở của Luật Kinh doanh và Luật Đầu tư.

Cụ thể, theo Luật Kinh doanh năm năm trước thì nếu doanh nghiệp có dự án Bất Động Sản đầu tư kinh doanh thương mại Bất Động Sản Nhà Đất đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt, có map tỷ suất 1/500, triển khai xong bồi thường, giải phóng mặt phẳng, thì được chuyển nhượng dự án Bất Động Sản đầu tư mà không phân biệt phương pháp trả tiền sử dụng đất hàng năm hay trả tiền thuê đất một lần cho hàng loạt thời hạn thuê. Nhưng với pháp luật của Luật Đất đai năm 2013 thì doanh nghiệp thuê đất trả tiền hàng năm để triển khai dự án Bất Động Sản đầu tư thì không được triển khai việc chuyển nhượng QSDĐ gắn với dự án Bất Động Sản đầu tư. Sự không hài hòa và hợp lý đó cũng là một trong những yếu tố thôi thúc sự “ lách luật ” khi những doanh nghiệp thuê đất trả tiền hàng năm chuyển nhượng dự án Bất Động Sản trải qua những dạng như chuyển nhượng quyền thực thi dự án Bất Động Sản đầu tư ; xây dựng công ty mẹ – công ty con rồi chuyển dự án Bất Động Sản đầu tư từ công ty mẹ sang công ty con dưới hình thức chuyển nhượng vốn .

Thứ hai, Luật Đầu tư và Luật kinh doanh hiện hành đang có những quy định chưa thống nhất làm cho các cơ quan thực thi và cả các doanh nghiệp “bối rối” nếu chuyển nhượng dự án. Ví dụ, Luật Kinh doanh 2014 quy định về chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ dự án đầu tư thì yêu cầu về trình tự, thủ tục là phải có chấp thuận của UBND cấp tỉnh thì hai bên mới được ký hợp đồng chuyển nhượng. Trong khi đó, Luật Đầu tư năm 2020 lại quy định phải có hợp đồng chuyển dự án đầu tư trong hồ sơ xin chấp thuận chuyển nhượng dự án đầu tư gửi UBND, nghĩa là hợp đồng chuyển nhượng một phần hay toàn bộ dự án đầu tư được coi là một thành phần trong bộ hồ sơ xin phép cơ quan nhà nước và được xem xét đồng thời với việc xem xét chấp thuận chuyển nhượng một phần hay toàn bộ dự án đầu tư. “Sự thiếu thống nhất này gây “lúng túng” trong quá trình áp dụng pháp luật, thủ tục phức tạp, “rườm rà” nên nhiều hồ sơ dự án bị ách tắc, dẫn thiếu nguồn cung.

Thứ ba, hoạt động chuyển nhượng dự án đầu tư trên thực tế phải thực hiện trong một thời gian rất dài. Điều này cho thấy quy định pháp luật còn phức tạp và việc thực hiện trên thực tế mất nhiều thời gian, công sức của nhà đầu tư. Trên thực tế, có trường hợp nhà đầu tư phải thực hiện một số việc như xin ý kiến cơ quan ban hành cho việc chuyển nhượng dự án đầu tư bị kéo dài. Điều này thể hiện rõ qua vụ chuyển nhượng dự án đầu tư ở 360 đường Giải phóng, phường Phương Liệt, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội được các nhà đầu tư thực hiện từ tháng 6/2016 đến nay vẫn chưa xong; việc chuyển nhượng một phần dự án Khu đô thị mới C2-Gamuda Gardens tại phường Trần Phú và phường Yên Sở, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội được thực hiện từ tháng 6 năm 2013 đến cuối năm 2014 mới hoàn thành; việc chuyển nhượng một phần dự án Khu đô thị mới Văn Khê mở rộng (Toà CT2-105) tại phường La Khê, quận Hà Đông, Hà Nội được các bên thực hiện từ giữa năm 2015 đến ngày 29/3/206, UBND thành phố Hà Nội mới ban hành Quyết định số 1983/QĐ-UBND cho phép Công ty Cổ phần Sông Đà Thăng Long được chuyển nhượng một phần dự án Khu đô tị mới Văn Khê mở rộng (Toà CT2-105 thuộc lô đất CT2) cho Công ty Cổ phần Đầu tư Hải Phát.

Thứ tư, các quy định của pháp luật về điều kiện để nhà đầu tư được thực hiện dự án đầu tư, để dự án đầu tư được chuyển nhượng, nhà đầu tư được chuyển nhượng và nhà đầu tư được nhận chuyển nhượng dự án đầu tư được thực hiện trên thực tế không nghiêm túc, cơ quan nhà nước không quản lý, không kiểm soát được các hoạt động chuyển nhượng dự án đầu tư.

Mặc dù pháp lý lao lý những điều kiện kèm theo để nhà đầu tư được triển khai dự án Bất Động Sản đầu tư, để dự án Bất Động Sản đầu tư được chuyển nhượng rất ngặt nghèo để Nhà nước hoàn toàn có thể quản trị, trấn áp nhưng trên thực tiễn, nhà đầu tư thường chuyển nhượng dự án Bất Động Sản đầu tư theo phương pháp chuyển nhượng vốn của doanh nghiệp chiếm hữu dự án Bất Động Sản đầu tư. Vụ việc chuyển nhượng dự án Bất Động Sản đầu tư kiến thiết xây dựng khu công trình khai thác và chế biến đá vôi làm vật tư thường thì tại mỏ đá vôi Om Làng, Cao Dương, Lương Sơn, Hòa Bình là một ví dụ nổi bật cho yếu tố này .

Trên đây, Luật Thiên Phúc đã giới thiệu đến khách hàng về Bất cập trong việc chuyển nhượng dự án đầu tư. Quý khách hàng có thể tham khảo thông tin và từ đó có phương hướng quản lí, sử dụng, tiến hành chuyển nhượng sao cho hiệu quả. Nếu khách hàng có câu hỏi còn vướng mắc có thể liên hệ trực tiếp với công ty Luật Thiên Phúc thông qua:

Source: https://vh2.com.vn
Category : Doanh Nghiệp