Nguồn gốc và bản chất của tiền thể hiện ở quá trình phát triển của hình thái giá trị trao đổi, hay nói cách khác, các hình thái biểu hiện...
TỔNG HỢP 20 BẢN ÁN TRANH CHẤP VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ – Luật sư Đà Nẵng – Luật sư FDVN
TÊN VÀ NỘI DUNG BẢN ÁN
TRANG
Bản án số 05/2022/KDTM-PT ngày 04/4/2022 của TAND tỉnh Đắk Lắk về “Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá”.
Nội dung: Công ty cổ phần thương mại Đ (sau đây viết tắt là Công ty Đ) và Công ty trách nhiệm hữu hạn xây dựng A (sau đây viết tắt là Công ty A) có quan hệ mua bán hàng hóa là vật liệu xây dựng rất nhiều năm với nhau. Trong thời gian từ ngày 26/12/2018 đến ngày 31/12/2019, Công ty Đ và Công ty A có ký hợp đồng mua bán vật liệu xây dựng. Tổng số tiền theo hợp đồng là 13.469.503.460 đồng, Công ty A có chuyển cho Công ty Đ số tiền là 12.938.000.000 đồng để thanh toán tiền hàng, theo đó số tiền đã mua hàng có hóa đơn giá trị gia tăng là 2.974.203.460 đồng. Sau đó Công ty Đ đã trả lại cho Công ty A số tiền là 10.495.300.000 đồng, theo 11 hóa đơn là các Phiếu thu và người nộp lại tiền cho Công ty A là bà Hoàng Diệu T, số tiền này nộp trực tiếp tiền mặt cho Công ty A, lý do nộp lại tiền là khi ký hợp đồng Công ty Đ không có hàng để giao hoặc giá cả thay đổi nên hai bên không tiếp tục thực hiện hợp đồng. Ngày 25/7/2019, Công ty Đ và Công ty A đã cùng đối chiếu và lập Biên bản đối chiếu công nợ (đại diện Công ty A do ông Trịnh Hữu N, là Phó giám đốc; ông Nguyễn Văn Q, là Kế toán trưởng và bà Đỗ Thị T, Trợ lý vật tư cùng ký), theo đó đến hết ngày 23/7/2019 bên mua (Công ty A) còn nợ bên bán số tiền là 531.503.460 đồng. Đến ngày 31/3/2020 hai bên tiếp tục lập Biên bản đối chiếu công nợ (do ông Phạm Văn T, là Quyền Giám đốc Công ty A đại diện) xác nhận nội dung Công ty A còn nợ Công ty Đ số tiền là 531.503.460 đồng. Bạn đang đọc: TỔNG HỢP 20 BẢN ÁN TRANH CHẤP VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ – Luật sư Đà Nẵng – Luật sư FDVN Ngày 24/4/2020, Công ty Đ có văn bản ý kiến đề nghị Công ty A giao dịch thanh toán tiền hàng còn nợ, nhu yếu trả nợ gốc và lãi suất vay trả chậm nhưng Công ty A không giao dịch thanh toán. Do đó, Công ty Đ khởi kiện nhu yếu Tòa án xử lý buộc Công ty A giao dịch thanh toán số tiền còn nợ gốc là 531.503.460 đồng và lãi suất vay theo lao lý kể từ khi so sánh nợ công, ngày 23/7/2019 cho đến khi trả xong nợ . Toà cấp sơ thẩm tuyên: Chấp nhận đơn kiện của Công ty cổ phần thương mại Đ. Buộc Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên xây dựng A trả cho Công ty cổ phần thương mại Đ số tiền 531.503.460 đồng và lãi suất số tiền 118.668.778 đồng. Tổng cộng 650.172.238 đồng. Toà cấp phúc thẩm nhận định: Đối với ý kiến của đại diện Công ty A cho rằng Công ty A đã thanh toán số tiền là 12.938.000.000 đồng, là vượt quá số tiền đã mua hàng hóa nên không còn nợ tiền Công ty Đ, xét thấy: Công ty Đ xác lập, sau khi nhận tiền từ Công ty A, do không có đủ hàng để giao cho theo hợp đồng, nên Công ty Đ đã chuyển trả lại ( nộp tiền mặt ) cho Công ty A số tiền là 10.495.300.000 đồng, theo 11 hóa đơn là những Phiếu thu ( từ bút lục số 209 đến 219 ) và ông Nguyễn Hữu T, thời gian đó là Giám đốc Công ty A đã ký xác nhận tại những phiếu thu tiền. Kết quả giám định chữ ký của Viện khoa học hình sự Bộ Công an cũng bộc lộ điều này . Toà cấp phúc thẩm tuyên: Không chấp nhận kháng cáo của Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên xây dựng A, giữ nguyên Bản án Kinh doanh thương mại sơ thẩm số: 15/2021/KDTM-ST, ngày 22/10/2021 của Toà án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk. Buộc Công ty nghĩa vụ và trách nhiệm hữu hạn một thành viên thiết kế xây dựng A phải trả cho Công ty CP thương mại Đ số tiền là 531.503.460 đồng và lãi suất vay chậm trả là 118.668.778 đồng, tổng số phải trả số tiền là 650.172.238 đồng ( Sáu trăm năm mươi triệu một trăm bảy mươi hai nghìn hai trăm ba mươi tám đồng ) . |
01-09
Bản án số: 09/2022/KDTM-ST ngày 24/01/2022 TAND quận Tân Bình, TP Hồ Chí Minh về “tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá”
Nội dung: Công ty Trách nhiệm hữu hạn Đầu tư Thương mại Dịch vụ (Công ty A) và Công ty Trách nhiệm hữu hạn K (Công ty K) ký kết Hợp đồng nguyên tắc, theo đó Công ty K đồng ý giao cho Công ty A làm đại diện phân phối trên toàn lãnh thổ Việt Nam các mặt hàng bánh kẹo có xuất xứ từ Thái Lan theo danh mục hàng hóa do Công ty K nhập về. Theo đó, Công ty A sẽ gửi đơn đặt hàng và hàng hóa sẽ được giao đến kho trong vòng 48 tiếng sau khi Công ty K nhận được thông báo chuyển khoản thanh toán. Sau khi ký kết hợp đồng, hai bên đã ký xác nhận đơn đặt hàng số 01/0819 – ĐH ngày 29/7/2019, Công ty A đã chuyển cho Công ty K để thực thi việc mua bán theo đơn đặt hàng như sau : Nhận định của Toà án: Phía bị đơn trình bày do hàng chuyển đến kho vào ban đêm, người phụ trách nhận hàng của nguyên đơn không đến được nên ông tự thực hiện việc nhận hàng của bị đơn và chuyển vào kho của nguyên đơn nhưng không có bất cứ chứng cứ nào chứng minh đồng thời bản thân ông cũng là người đại diện theo pháp luật của bị đơn là chủ thể có trách nhiệm phải giao hàng theo đơn đặt hàng nhưng khi giao hàng lại không lập biên bản xác nhận đã giao nhận hàng đầy đủ có nghĩa là không chứng minh được việc đã thực hiện trách nhiệm giao hàng của mình. Về mức lãi suất vay : Theo lao lý tại Điều 306 Luật Thương mại năm 2005 : “ Trường hợp bên vi phạm hợp đồng chậm thanh toán giao dịch tiền hàng hay chậm giao dịch thanh toán thù lao dịch vụ và những ngân sách hài hòa và hợp lý khác thì bên bị vi phạm hợp đồng có quyền nhu yếu trả tiền lãi trên số tiền chậm trả theo lãi suất vay nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời gian giao dịch thanh toán tương ứng với thời hạn trả, trừ trường hợp có thỏa thuận hợp tác khác hoặc pháp lý có pháp luật khác ” . Toà án tuyên: 1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn – Công ty Trách nhiệm hữu hạn Đầu tư Thương mại Dịch vụ A. 1.1. Công ty Trách nhiệm hữu hạn K có nghĩa vụ và trách nhiệm thanh toán giao dịch cho Công ty Trách nhiệm hữu hạn Đầu tư Thương mại Thương Mại Dịch Vụ A số tiền gốc 630.000.000 đồng ( Sáu trăm ba mươi triệu đồng ) và tiền lãi 137.132.258 đồng ( Một trăm ba mươi bảy triệu một trăm ba mươi hai ngàn hai trăm năm mươi tám đồng ). Thanh toán một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực hiện hành pháp lý . |
10-16
Bản án số: 39/2022/KDTM-PT ngày 25/3/2022 TAND thành phố Hà Nội về “Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá”
Nội dung: Công ty TNHH VT (sau đây gọi tắt là Công ty VT- nguyên đơn) và Hộ kinh doanh thẩm mỹ quốc tế B (sau đây gọi tắt là Thẩm mỹ B- bị đơn) có ký kết các hợp đồng mua bán hàng hóa số 2018/VVN-04/HĐMB ngày 10/02/2018. Đối tượng của Hợp đồng là: Máy chụp cắt lớp 3 trong 1 (Sử dụng cho phòng nha B), Model: PHT-65 LHS Brand name: Green 16; Xuất xứ: VT K; số lượng 01 máy; Giá: 1.704.750.000 đồng; giá này báo gồm cả 5% VAT và bao gồm chi phí vận chuyển, bảo hành. Theo thỏa thuận trong hợp đồng Thẩm mỹ B có nghĩa vụ thanh toán cho Công ty VT làm 03 đợt: – Đợt 1 : Đặt cọc 340.950.000 đồng vào ngày ký hợp đồng ( ngày 10/02/2018 ) – Đợt 3: Thanh toán 852.375.000 đồng trong vòng 18 tháng kể từ ngày bàn giao thiết bị. Thẩm mỹ B vẫn chưa giao dịch thanh toán đợt 3 cho Công ty VT. Trong quy trình sử dụng thì bác sỹ trình độ của phòng Nha B ( thuộc thẩm mỹ và nghệ thuật viện B ) mới đưa máy chụp cắt lớp 3 trong 1 ; Model PHT-65 LHS vào kiểm tra để triển khai hoạt động giải trí thì mới phát hiện phía Công ty VT đã giao cho Thẩm mỹ viện B không đúng mẫu sản phẩm mà hai bên đã thỏa thuận hợp tác trong Hợp đồng mua bán, đơn cử : Đầu máy : ghi thương hiệu Product name : X – RAY GENERATOR MODEl : DG 07-07 E 22 T2 Date : 2017 – 10 ; Thân máy : ghi thương hiệu Green 16 ; Xuất xứ : VT – HÀN QUỐC. Product : Computed Tomography X-ray Sytem Toà cấp sơ thẩm tuyên: 1. Không đồng ý nhu yếu khởi kiện của Công ty TNHH VT so với Hộ kinh doanh thương mại nghệ thuật và thẩm mỹ quốc tế B về nhu yếu thanh toán giao dịch tiền theo Hợp đồng mua bán số 2018 / VVN-04 / HĐMB ngày 10/02/2018 giữa Công ty TNHH VT và Hộ kinh doanh thương mại nghệ thuật và thẩm mỹ quốc tế B . Nhận định của toà cấp phúc thẩm: Về thẩm quyền xử lý tranh chấp : Tranh chấp giữa những đương sự là tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hóa. Bị đơn là Hộ kinh doanh thương mại thẩm mỹ và nghệ thuật quốc tế B có trụ sở tại : Số 463 KM, Q. BĐ, Thành Phố Hà Nội. Căn cứ khoản 1 điều 30, điểm b khoản 1 điều 35, điểm a khoản 1 điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự thì Tòa án nhân dân Q. BĐ thụ lý và xử lý xét xử sơ thẩm là đúng thẩm quyền . Toà cấp phúc thẩm tuyên: Sửa Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 65/2021/KDTM-ST ngày 18/10/2021 của Tòa án nhân dân quận BĐ và quyết định như sau: 1. Không gật đầu nhu yếu khởi kiện của Công ty TNHH VT về việc nhu yếu Hộ kinh doanh thương mại nghệ thuật và thẩm mỹ quốc tế B phải giao dịch thanh toán tiền còn thiếu theo Hợp đồng mua bán số 2018 / VVN-04 / HĐMB ngày 10/02/2018 giữa Công ty TNHH VT và Hộ kinh doanh thương mại nghệ thuật và thẩm mỹ quốc tế B . |
17-34
Bản án số: 06/2017/KDTM-PT ngày 06 tháng 6 năm 2017 TAND tỉnh Tiền Giang về “Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá”
Nội dung: Nguyên đơn anh Phạm Minh T và Bị đơn là Công ty trách nhiệm hữu hạn ST (Công ty ST- do Cao Minh V làm giám đốc, bà Nguyễn Thị Thanh V là thành viên góp vốn và chị Bùi Thị Thanh M là kế toán trưởng) thường xuyên thực hiện các giao dịch mua bán gạo với phương thức anh T giao gạo trước Công ty ST thanh toán sau. Trong năm 2013, anh có nhiều lần bán gạo cho Công ty TNHH ST và công ty trả tiền từng đợt. Đến ngày 07/11/2013 Công ty TNHH ST còn nợ anh số tiền là 7.479.825.000 đồng, sau đó công ty có trả một đợt tính đến ngày 22/4/2014 thì số tiền còn nợ lại là 7.069.000.000 đồng và sau đó công ty tiếp tục trả đến ngày 24/6/2016 còn nợ lại anh số tiền là 6.459.000.000 đồng có giấy xác nhận nợ của Bùi Thị Thanh M là kế toán trưởng của công ty. Anh T yêu cầu Công ty TNHH ST, bà Nguyễn Thị Thanh V và chị Bùi Thị Thanh M có nghĩa vụ liên đới trả cho anh số tiền là 6.459.000.000 đồng và yêu cầu tính lãi từ ngày 22/7/2016 đến ngày xét xử theo mức lãi suất 2%/tháng, yêu cầu trả ngay khi án có hiệu lực pháp luật. Bị đơn trình diễn : Năm 2013 công ty ông, bà có mua bán gạo với anh Pham Minh T. Công ty ông, bà chỉ mua bán vài chuyến hàng, việc mua bán đã giao dịch thanh toán xong trong năm 2013 hai bên không nợ nần gì nhau. Việc mua bán hai bên có hóa đơn chứng từ như giấy nhập và xuất hóa đơn trả tiền nhưng việc mua bán xong nên công ty không còn lưu giữ. Việc anh T cho rằng công ty ông, bà còn thiếu tiền gạo ông, bà không chấp thuận đồng ý vì anh T không xuất trình được giấy nhập hàng và những giấy nợ tiền gạo hợp pháp do giám đốc công ty ký cũng không có tài liệu xác lập số lượng gạo, giá gạo từng chuyến là bao nhiêu. Các giấy ghi nợ tiền chị Bùi Thị Thanh M ký mà anh T xuất trình cho rằng Công ty Trách Nhiệm Hữu Hạn ST nợ, ông, bà không chấp thuận đồng ý vì những biên nhận, xác nhận không biểu lộ là khoản nợ gạo, chị M không phải là người đại diện thay mặt theo pháp lý của công ty và cũng không được công ty ủy quyền ký nhận nợ, không có biên nhận nào do đại diện thay mặt hợp pháp của công ty ký và không có dấu của công ty, thực tiễn chị M đã nghỉ việc ở công ty từ ngày 01/9/2013 và làm tự do ở ngoài . Toà cấp sơ thẩm tuyên: – Chấp nhận một phần nhu yếu khởi kiện của anh Phạm Minh T . Toà cấp phúc thẩm nhận định: – Đối với chị M cho rằng thời gian chị M viết các tờ giấy đối chiếu công nợ cho anh T thì chị không còn làm việc tại Công ty TNHH ST là không có cơ sở để chấp nhận. Bị đơn là Công ty TNHH ST cùng chị M cho rằng chị M đã nghỉ làm kế toán từ tháng 8 năm 2013, đồng thời chứng minh bằng quyết định cho thôi việc số 01/QĐ ngày 15/8/2013 của Giám đốc Công ty TNHH ST. Căn cứ vào các chứng cứ tài liệu thu thập có trong hồ sơ thì thấy rằng quyết định cho thôi việc đối với chị M chỉ là quyết định mang tính đối phó, nhằm lẫn tránh trách nhiệm trong việc đối chiếu công nợ đối với ông T. Tại giấy lĩnh tiền mặt ngày 13/3/2015, ngày 17/3/2015, ngày 19/3/2015 chị M đã ký tên giao dịch với chức danh kế toán trưởng và người lĩnh tiền để giao dịch rút tiền tại Ngân hàng MB với số tiền lần lượt là 15.300.000.000đồng, 11.650.000.000đồng và 2.230.000.000 đồng. Từ ngày 01/6/2016 đến ngày 03/8/2016 chị M có 34 lần đến giao dịch tại ngân hàng BIDV chi nhánh Tiền Giang để giao dịch rút tiền cho Công ty TNHH ST với tổng số tiền 135.860.000.000đồng, số tiền mỗi lần rút từ 1.000.0000.000đồng đến 13.900.000.000đ. Tất cả các lần rút tiền này đều thể hiện chị M rút từ tài khoản của Công ty TNHH ST. Cho nên, đã có cơ sở xác định chị M vẫn làm nhiệm vụ kế toán tại Công ty TNHH ST cho đến ngày 03/8/2016. Đặc biệt ngày 24/6/2016 chị M cũng đến ngân hàng BIDV chi nhánh Tiền Giang rút tiền cho Công ty TNHH ST với số tiền 3.100.000.000 đồng, ngày rút tiền này trùng khớp với ngày đối chiếu công nợ lần thứ 3 với ông T là ngày 24/6/2016. Như vậy, với vai trò kế toán Công ty TNHH ST thì chị M có quyền đối chiếu công nợ theo qui định tại Điều 5 của Luật kế toán số 03/2003/QH11. – Riêng việc ông T cho rằng Ông V, bà Vân và chị M liên đới hoàn trả số tiền trên là không phù hợp với luật doanh nghiệp, cụ thể Công ty TNHH SThiện đang còn hoạt động thì Công Ty này phải chịu trách nhiệm thanh toán. Tại phiên tòa phúc thẩm chị H là người đại diện theo ủy quyền của Công ty TNHH ST thừa nhận vào khoảng đầu năm 2013 có giao dịch mua bán gạo với ông T vài chuyến, có hợp đồng mua bán cụ thể nhưng đã thanh toán xong, nay Công ty TNHH ST không còn lưu giữ chứng từ. Xét thấy lời khai nại của chị H là không có căn cứ, bởi lẽ việc lưu trữ các hợp đồng, hóa đơn nhập xuất hàng là qui định bắt buộc của chế độ kế toán, việc mua bán phát sinh từ năm 2013 đến nay mà không còn lưu trữ là không đúng qui định về nghiệp vụ kế toán. Từ căn cứ phân tích và nhận định trên, Hội đồng xét xử chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của ông T và sửa bản án sơ thẩm, buộc Công ty TNHH ST phải có trách nhiệm trả cho ông T số tiền 6.459.000.000đồng. – Xét yêu cầu kháng cáo của chị M về việc đề nghị Tòa án bác yêu cầu khởi kiện của ông T. Hội đồng xét xử thấy rằng, chị M không có mua bán gạo với tư cách cá nhân đối với ông T. Ông T cũng khẳng định không có giao dịch dân sự (cho mượn tiền) không yêu cầu cá nhân chị M trả nợ. Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của chị M, sửa bản án sơ thẩm theo hướng không buộc chị M chịu trách nhiệm cá nhân cho ông T số tiền 6.459.000.000 đồng. Toà cấp phúc thẩm tuyên: Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của ông Phạm Minh T và yêu cầu kháng cáo của chị Bùi Thị Thanh M: 1. Buộc Công ty trách nhiệm hữu hạn ST, địa chỉ: Ấp Đ, Xã S, Huyện C, tỉnh T phải trả cho ông Phạm Minh T số tiền 6.459.000.000đồng (sáu tỉ bốn trăm năm mươi chín triệu đồng). 2. Không gật đầu nhu yếu của ông T đòi ông Cao Minh V, bà Nguyễn Thị Thanh V và chị Bùi Thị Thanh M trực tiếp hoàn trả số tiền này. Kể từ ngày Ông T có đơn nhu yếu thi hành án, nếu Công ty TNHH ST chậm thi hành khoản tiền trên thì phải trả lãi theo qui định tại điều 357 của Bộ luật dân sự so với số tiền và thời hạn chậm thi Hnh án . 3. Các quyết định khác của bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm về phần yêu cầu tính lãi 2% không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị. |
35-44
Source: https://vh2.com.vn
Category : Vận Chuyển