Networks Business Online Việt Nam & International VH2

Thực trạng và đề xuất một số giải pháp về nguồn lao động chất lượng cao của Việt Nam

Đăng ngày 17 September, 2022 bởi admin

TÓM TẮT:

Báo cáo của Trung tâm Dự báo nhu cầu nhân lực TP. Hồ Chí Minh cho thấy, dự báo trong tháng 6/2021, thị trường lao động thành phố có nhu cầu tuyển dụng 20.000 chỗ làm việc, trong đó, nhu cầu tuyển dụng của các doanh nghiệp (DN) trong các khu công nghiệp – khu chế xuất (KCN – KCX) là 5.000 chỗ. Theo các nhà tuyển dụng, nhu cầu nhân lực tiếp tục theo xu hướng cần nhiều nhân lực chất lượng cao, tuy nhiên, việc tuyển dụng lực lượng này rất khó bởi nguồn cung lao động chưa đáp ứng được yêu cầu của các nhà tuyển dụng. Nhiều ngành nghề, lĩnh vực luôn ở trong tình trạng thiếu hụt trầm trọng nhân lực chất lượng cao như: kinh doanh tài chính, ngân hàng, kiểm toán, công nghệ thông tin, điện tử, viễn thông, cơ khí chế tạo,…

Từ khóa: nguồn lao động chất lượng cao, cung – cầu, TP. Hồ Chí Minh.

1. Thực trạng nguồn lao động chất lượng cao của Việt Nam

1.1. Tình trạng cung thiếu

Kết quả khảo sát các chủ sử dụng lao động tại 10 quốc gia ASEAN do Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) thực hiện cho thấy, DN trong khối ASEAN hiện đang rất lo ngại về tình hình thiếu hụt lực lượng lao động có tay nghề và kỹ năng; gần 50% chủ sử dụng lao động trong cuộc khảo sát cho biết, người lao động tốt nghiệp phổ thông không có được kỹ năng họ cần; cử nhân tốt nghiệp đại học dẫu được trang bị những kỹ năng có ích nhưng cũng chưa đáp ứng được nhu cầu của DN. Do trình độ phát triển không đồng đều, nên hiện nay lao động có tay nghề và kỹ năng cao trong khối ASEAN chủ yếu di chuyển vào thị trường Xin-ga-po, Ma-lai-xi-a và Thái-lan. Còn lại hầu hết các lao động di chuyển trong phạm vi ASEAN là lao động trình độ kỹ năng thấp hoặc không có kỹ năng.

Bên cạnh chất lượng thấp, cơ cấu tổ chức nhân lực lao động của Việt Nam cũng còn nhiều chưa ổn lớn. Cơ cấu trình độ của nhân lực lao động Việt Nam là : 1 ĐH trở lên / 0,32 cao đẳng / 0,61 tầm trung / 0,37 sơ cấp. Trong khi đó, theo quy luật của thị trường lao động, những người lao động trực tiếp ( trình độ sơ cấp, tầm trung, cao đẳng ) phải nhiều hơn rất nhiều lần so với lao động gián tiếp ( trình độ ĐH ). Đó cũng là một trong những nguyên do dẫn đến thực trạng thất nghiệp ở Việt Nam. Tính đến hết tháng 3/3021, cả nước có 417,3 nghìn người có trình độ kỹ thuật bị thất nghiệp ( chiếm 39,7 % ), nhưng người có trình độ ĐH trở lên có tỷ suất thất nghiệp cao nhất ( 155,5 nghìn người ) .
Tỷ lệ lao động qua huấn luyện và đào tạo thấp và cơ cấu tổ chức bất hài hòa và hợp lý là một trong những nguyên do dẫn đến hiệu suất lao động thấp. Theo nhìn nhận của ILO công bố trong năm 2019, hiệu suất của lao động Việt Nam thuộc nhóm thấp ở châu Á – Thái Bình Dương và ở ASEAN : Chỉ bằng 1/15 so với Xin-ga-po ; bằng 1/5 Ma-lai-xi-a và 2/5 Thái-lan, chưa kể so sánh với hiệu suất lao động của Nhật Bản, Nước Hàn, Ô-xtrây-li-a, Ấn Độ, Niu Di-lân, … là những đối tác chiến lược đã có những hiệp định quan trọng với ASEAN .

1.2. Tình trạng cầu thừa

Theo những chuyên viên, trong năm 2019, thị trường lao động đã định hình rõ nét việc chuyển dời nhu yếu sử dụng lao động giản đơn sang sử dụng nhóm lao động có kỹ năng và kiến thức và trình độ cao. Cụ thể, nhu yếu tuyển dụng trong năm 2019 của những Doanh Nghiệp liên tục tăng, trong đó cao nhất là những Doanh Nghiệp có vốn góp vốn đầu tư quốc tế với tỷ suất hơn 48,8 %. Xét theo nhóm, công nghiệp – kiến thiết xây dựng là nhóm ngành có sức hút lao động lớn nhất với hơn 70 % trong tổng số lao động dự kiến tuyển dụng thêm ; tiếp đến là ngành dịch vụ với hơn 28,7 %, sau cuối là ngành nông, lâm nghiệp và thủy hải sản .
Theo khảo sát của VietnamWorks, 74 % nhà tuyển dụng cho biết nhu yếu về nhân lực của họ sẽ tăng lên. Trong đó, 33 % số Doanh Nghiệp có kế hoạch tăng mạnh về quy mô nhân sự với nhu yếu tuyển dụng hơn 30 %, trong đó 15 % số Doanh Nghiệp sẽ tăng từ 30 % – 40 % ; 15 % tăng từ 40 % – 50 % và 3 % tăng đến hơn 50 %. Số DN còn lại, có 33 % cho rằng nhu yếu sẽ tăng 10 % – 20 % và 26 % cho rằng nhu yếu sẽ tăng 20 % – 30 % .

Ví dụ cụ thể tại TP. Hồ Chí Minh, báo cáo của Trung tâm Dự báo nhu cầu nhân lực TP. Hồ Chí Minh cho thấy, trong tháng 6/2021, thị trường lao động thành phố có nhu cầu tuyển dụng 20.000 chỗ làm, trong đó, nhu cầu tuyển dụng của các DN trong các khu công nghiệp – khu chế xuất (KCN – KCX) là 5.000 chỗ. Theo các nhà tuyển dụng, nhu cầu nhân lực tiếp tục theo xu hướng cần nhiều nhân lực chất lượng cao, tuy nhiên, việc tuyển dụng lực lượng này rất khó bởi nguồn cung lao động chưa đáp ứng được nhu cầu của các nhà tuyển dụng. Nhiều ngành nghề, lĩnh vực luôn ở trong tình trạng thiếu hụt trầm trọng nhân lực chất lượng cao như: kinh doanh tài chính, ngân hàng, kiểm toán, công nghệ thông tin, điện tử, viễn thông, cơ khí chế tạo…

Có thể thấy tại thị trường lao động TP Hồ Chí Minh, nghịch lý là đang rất thừa lao động không tương thích những ngành nghề nằm trong xu thế tăng trưởng, nhưng lại rất thiếu nhân lực chất lượng cao ở những ngành thiết yếu cho sự tăng trưởng. Có hơn 70 % số sinh viên tốt nghiệp ra trường chưa được trang bị tốt về trình độ cũng như kỹ năng và kiến thức mềm, trình độ ngoại ngữ để tiếp cận việc làm. Ngoài ra, bằng cấp cao không quyết định hành động yếu tố xin việc khó hay dễ mà nguồn nhân lực đó có cung ứng được nhu yếu của nhà tuyển dụng hay không. Thậm chí, nhiều công ty cho biết họ đang gặp khó khăn vất vả trong tuyển dụng nhân lực chất lượng cao. Hàng năm, công ty phải bỏ ra hàng trăm nghìn USD để đưa người lao động đi đào tạo và giảng dạy lại, vì nguồn nhân lực tuyển vào không phân phối được nhu yếu việc làm .

2. Một số giải pháp khắc phục

Một là : phải xác lập cho rõ nguồn nhân lực là tài nguyên quý giá nhất trong công cuộc thay đổi và tăng trưởng quốc gia, cần lấy nguồn nhân lực làm tài nguyên sửa chữa thay thế, gọi là tài nguyên nguồn nhân lực, hoặc tài nguyên con người .
Hai là, Nhà nước thiết kế xây dựng kế hoạch nguồn nhân lực gắn với kế hoạch tăng trưởng kinh tế tài chính – xã hội, công nghiệp hóa, văn minh hóa quốc gia, hội nhập kinh tế tài chính quốc tế ; xác lập thật rõ thiết kế xây dựng nguồn nhân lực là nghĩa vụ và trách nhiệm của những nhà hoạch định và tổ chức triển khai triển khai chủ trương, nghĩa vụ và trách nhiệm của cả mạng lưới hệ thống chính trị .
Ba là, nhà nước và những cơ quan chức năng của nhà nước có giải pháp xử lý hiệu suất cao những yếu tố vừa cấp bách, vừa lâu dài hơn của nguồn nhân lực, trong đó có yếu tố khai thác, đào tạo và giảng dạy, sử dụng nguồn nhân lực, tạo chuyển biến can đảm và mạnh mẽ trong việc khai thác, giảng dạy, sử dụng từ nguồn nhân lực trong công nhân, nông dân, tri thức, người kinh doanh, dịch vụ, …
Bốn là, Nhà nước cần có kế hoạch phối hợp, tạo nguồn nhân lực từ nông dân, công nhân, tri thức ; có kế hoạch khai thác, đào tạo và giảng dạy, tu dưỡng, sử dụng những nguồn nhân lực cho đúng .

Năm là, không ngừng nâng cao trình độ học vấn. Hiện nay, nhìn chung, trình độ học vấn bình quân của cả nước mới ở khoảng lớp 6/ đầu người. Tỷ lệ biết chữ mới đạt khoảng 93%. Vì vậy, cần giải pháp để nâng cao trình độ học vấn của mặt bằng chung cả nước, thực hiện toàn xã hội học tập và làm việc.

Sáu là, Đảng và Nhà nước cần có chủ trương rõ ràng, minh bạch, đúng đắn so với việc sử dụng, trọng dụng nhân tài, nhất là trọng dụng những nhà khoa học và chuyên viên thật sự có kĩ năng góp sức. .
Bảy là, nhà nước cần có quyết định hành động đúng đắn về việc được phép góp vốn đầu tư những nghành nào trong việc nâng cao nguồn nhân lực. Cải thiện chủ trương tiền tệ và kinh tế tài chính, tăng trưởng hạ tầng, hiện đại hóa giáo dục là những yếu tố quan trọng vào thời gian lúc bấy giờ .
Tám là, cải tổ thông tin về nguồn nhân lực theo hướng thoáng rộng và dân chủ, giúp mọi người thấy được tầm quan trọng của tăng trưởng nguồn nhân lực ; Mở những đợt tuyên truyền thoáng rộng, về nguồn nhân lực, chất lượng đời sống, thông tin về học tập, giáo dục ngành nghề trong những những tầng lớp nhân dân, nhất là trong người trẻ tuổi, học viên .
Chín là, hàng năm, Nhà nước cần tổng kết về lý luận và thực tiễn về nguồn nhân lực ở Việt Nam, nhìn nhận đúng mặt được, mặt chưa được, kịp thời rút ra những kinh nghiệm tay nghề, trên cơ sở đó thiết kế xây dựng chủ trương mới và kiểm soát và điều chỉnh chủ trương đã có về nguồn nhân lực ở Việt Nam, như : chủ trương hướng nghiệp, chủ trương dạy nghề, học nghề, chủ trương quản trị nhà nước về dạy nghề, học nghề ; chủ trương dự báo nhu yếu lao động và cân đối lao động theo ngành nghề, cấp trình độ ; chủ trương lôi cuốn những thành phần kinh tế tài chính tích cực tham gia vào nghành nghề dịch vụ tạo nguồn nhân lực cho quốc gia ; chủ trương chi ngân sách để giảng dạy nguồn nhân lực ; chủ trương so với những tổ chức triển khai phi chính phủ ( NGO ) có tương quan đến yếu tố nhân tài, nhân lực ; chủ trương so với lao động đi thao tác ở quốc tế và lôi cuốn những thành phần kinh tế tài chính tham gia đưa lao động đi thao tác ở quốc tế ; chủ trương bảo vệ quyền, quyền lợi hợp pháp, chính đáng của nông dân, công nhân, tri thức, chăm sóc đời sống vật chất, ý thức cho người lao động .
nhà nước và những cơ quan chức năng cần có chủ trương, giải pháp phối hợp thật tốt giữa giảng dạy và sử dụng trong tổng thể và toàn diện tăng trưởng kinh tế tài chính của quốc gia, cung ứng có hiệu suất cao nguồn lao động có chất lượng cao cho nhu yếu tăng trưởng của nền kinh tế tài chính .

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

  1. Tổng cục Thống kê (2019), Bản tin cập nhật thị trường lao động Việt Nam,
    NXB Bộ Lao động Thương binh và Xã hội;
  2. Phạm Thị Bạch Tuyết (2014), Thực trạng và những vấn đề đặt ra đối với lao động ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Đại học Khoa học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh, số 60/2014;
  3. Một số website: vn, molisa.gov.vn…

 The current situation and some solutions for improving the supply of high-quality human resources in Vietnam

Master. Mai Thanh Hang

Faculty of Accounting, University of Economics – Technology for Industries

ABSTRACT:

According to the Ho Chi Minh City Human Resources Forecast and Labor Market Information Center, the city’s labor market will create 20,000 jobs in June 2021. In which, enterprises in the city’s industrial parks – the export processing zone will need 5,000 workers. According to employers, the demand for high-quality human resources keeps increasing. However, it is difficult for employers to recruit high quality employees as the labour supply has not yet met the requirements of employers. Many industries such as financial and banking, auditing, information technology, electronics, telecommunications, mechanical engineering, etc. always seek high-quality human resources .

Keywords: high quality human resources, supply – demand, Ho Chi Minh City.

[Tạp chí Công Thương – Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ, Số 15, tháng 6 năm 2021]

Source: https://vh2.com.vn
Category : Startup