Networks Business Online Việt Nam & International VH2

Nền Tảng Của Giáo Dục Học Phật Giáo

Đăng ngày 16 September, 2022 bởi admin

HỘI THẢO VESAK 2019 

CHỦ ĐỀ 

CÁCH TIẾP CẬN CỦA PHẬT GIÁO VỀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC TOÀN CẦU 

NỀN TẢNG CỦA GIÁO DỤC HỌC PHẬT GIÁO

Thích Phước Nguyên

blank

Tóm tắt

Giáo dục theo quan niệm Phật giáo chính là một vấn đề trí thức, không bám chấp vào tự ngã hay nói đúng đắn hơn, một thái độ trí thức, không chấp nhận hiện hữu tự ngã; kinh Phật đề xuất con đường giáo dục thoát khỏi sự nô lệ bản ngã. Trong kinh Brahmajāla (Phạm võng), có một phát biểu, khiến các nhà giáo dục hiện đại phải giật mình. Đức Phật dạy: “Người ngu tán thán giới đức của Như Lai, chỉ có người trí mới tán thán trí đức của Như Lai”. Vì vậy, Phật giáo thường được mệnh danh là tôn giáo trí thức. Thái độ trí thức này, là nguyên nhân đức Phật giới thiệu một nền tảng giáo dục đặc sắc và ưu việt, đó chính là sự hướng dẫn cá nhân có một thái độ do tự mình suy nghiệm, nhìn bằng đôi mắt của mình, đi bằng đôi chân của mình và quyết định hơn là nhắm mắt đi theo lời Phật.

Từ khoá: Giáo dục học Phật giáo, đạo đức, Bát Thánh đạo.

 

I. Giới hạn yếu tố

Giáo dục ( education ) là nền tảng cơ bản của trái đất, tùy theo mỗi vương quốc, chủng tộc, tôn giáo và tập quán văn hóa truyền thống mà giải pháp giáo dục được linh động vận dụng khác nhau. Bất cứ một tổ chức triển khai nào muốn sống sót và tăng trưởng, cần phải đặt giáo dục lên số 1. Chưa khi nào con người ngưng phát minh sáng tạo, kỳ vọng nâng cao được tầm mức giáo dục của trái đất. Từ thuở sơ khai, hình như ‘ định mệnh ’ buộc loài người phải đương đầu với một quốc tế cứ muốn chặn lại năng lượng phát minh sáng tạo cá thể, khi nó nhận ra có quá nhiều bế tắc trên con đường giáo dục, để hoàn toàn có thể bắt kịp dòng chảy xiết của tư duy tiến hóa, nó phải không ngừng học hỏi. Nhu cầu hiểu biết không ngừng thôi thúc nó phải hoạt động. Thế mà yếu tố đảm nhiệm chưa khi nào được thỏa, và nỗi sợ bóng tối vô tri cũng chưa từng lắng dịu. Các giải pháp giáo dục có vẻ như bất tận trong tầm nhìn, nhưng lại khan hiếm trong tầm với ; đôi lúc những chiêu thức ấy trở nên mơ hồ khó mà chớp lấy được. Điều nó phải học hỏi để làm là vận dụng, tiến hành và nâng cao những chiêu thức giáo dục ấy một cách hài hòa và hợp lý. Trước khi học tập cách làm này, nó phải biết học cái gì. Nó được thuyết phục để tin yêu những chiêu thức giáo dục do ai thuyết minh và truyền thừa những gì. Mặt khác, đời sống con người lại tưởng chừng như không có ý nghĩa. Sống và chết một cách ngẫu nhiên, không bình thường và không có mục tiêu. Nếu trái đất không được hình thành nền giáo dục, có lẽ rằng người ta không hề biết được diện mạo quốc tế sẽ như thế nào, tốt hơn hay xấu hơn, khi họ nghĩ về những phương diện phong phú của sự sống.

Trong một bản kinh, khi đề cập đến các giáo pháp cao quý, đức Phật nhấn mạnh đến tầm quan trọng của “tri thức quảng bác” (Skt. bahu-śruta; Pāli. bahussuta)[1]; từ cơ sở đó, giáo dục như thế nào để đạt một trình độ gọi là huệ vô nhiễm (prajñā amalā), nhận thức nhìn thẳng vào yếu tính của tồn tại. Nói rõ hơn, như định nghĩa bởi Abhidharmakośabhāṣya: tatra prajñā dharmapravicayaḥ, “hoạt tính của huệ được gọi là giản trạch (pravicaya)”[2]. Đó là khả năng tư duy thẩm sát, hiểu theo Phạn ngữ, hay phân tích và lựa chọn, hiểu theo từ Hán dịch. Bằng khả năng đó mà đi sâu vào yếu tính của tồn tại. Thấy rõ bản chất và yếu tính của tồn tại, đó là mục đích cứu cánh của nhận thức, là nhu cầu hiểu biết toàn diện, từ đó xây dựng nền tảng của giáo dục học Phật giáo.

Tại Ấn Độ, kể từ thời Veda, khi con người mở màn có những khái niệm về khởi nguyên, tư duy về nguồn gốc quốc tế không ngừng ảnh hưởng tác động vào đời sống thường nhật của họ, hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp. Tin tưởng vào sự sống sót của một đấng phát minh sáng tạo, hay một nguyên tắc sáng thế, tìm hiểu và khám phá mục tiêu và ý nghĩa của sự sáng thế ấy, từ đó thiết lập những định chế xã hội và chiêu thức giáo dục thích hợp, để bóc lột, để áp bức, để rao giảng theo một ý thức hệ, và cũng để tìm hướng thoát ly những đàn áp tư tưởng ; đây không đơn thuần chỉ là những tin cậy viễn vông nữa. Nó quyết định hành động đau khổ hay niềm hạnh phúc của một cá thể trong xã hội, vai trò của giáo dục cũng thành hình ngay từ buổi sơ khai. Giáo dục học Phật giáo không cần đặt nền tảng trên một ý thức hệ nào, giáo dục học Phật giáo phá vỡ mọi ý thức hệ. Nhưng, trên forum giáo dục toàn thế giới, cuộc đấu tranh ý thức hệ vẫn diễn tiến không ngừng. Như thế, bất kỳ một ý tưởng sáng tạo nào, tín ngưỡng tôn giáo hoặc tư duy triết học, trong lịch sử vẻ vang tăng trưởng của nó hay trong một mạng lưới hệ thống văn minh vật chất của xã hội, luôn luôn hướng đến một mạng lưới hệ thống giáo dục tổng lực, trong đó mọi cấp bậc đào luyện, mọi giá trị hiện hữu, đều được biện minh và pháp luật thành những nguyên tắc, những chân lý thường nghiệm và siêu nghiệm, mà tổng thể mọi sinh vật trong ngoài hành tinh phải tuân theo, ý nghĩa sống hay chết, đau khổ hay phước lạc, đều được phác họa linh động và rành mạch. Nhu cầu khám phá nhằm mục đích đạt đến một tri thức nhất định, để hiểu biết những sự vật hiện tượng kỳ lạ quanh ta, không riêng gì đơn thuần là sự tò mò theo lý tính, mà chính những hiểu biết là công cụ bảo vệ sự sống, và cũng là một dạng lương thực thiết yếu để sống sót. Từ những cái được thấy, được nghe, rồi suy diễn ra những thứ bí hiểm hay ẩn tàng không hề thấy, không hề nghe, không hề cảm, không hề biết, để rồi sinh khởi kỳ vọng hay lo ngại, đó là thực chất và hiệu suất cao của hoạt động giải trí tư duy. Từ đó, những nhà giáo dục đặt yếu tố năng lực tư duy và phát minh sáng tạo, đưa giáo dục đến tầm mức không bị đóng khuôn trong một lề thói hay tập quán thường nhật nào. Vậy thì, giáo dục học Phật giáo đánh giá và nhận định trong ý nghĩa triết học, là sự tăng trưởng của nhu yếu hiểu biết, từ những câu hỏi đơn thuần như định danh và định nghĩa về những sống sót và quan hệ cục bộ, tiến dần lên những mối quan hệ phức tạp, mà trong kinh dẫn chứng rất nhiều, ở đây không thiết yếu phải lập lại dài dòng. Tất cả những câu hỏi cho yếu tố nhận thức giáo dục đều hoàn toàn có thể tìm thấy giải đáp trong kinh Phật. Phương pháp giáo dục mà Phật dạy, tất cả chúng ta, hoặc do hạn chế bởi thời đại và ngôn từ, bởi vương quốc và văn hóa truyền thống ; hoặc do bởi pháp tính thâm sâu, sự lãnh hội không hề thuận tiện, và lại càng khó khăn vất vả trong sự truyền thừa từ thầy đến đệ tử. Vì vậy, nền tảng của giáo dục học Phật giáo cần có một mạng lưới hệ thống giáo nghĩa đồng nhất, trong đó những chi tiết cụ thể giáo nghĩa quan hệ với nhau một cách mạch lạc. Như vậy, ý nghĩa triết học của giáo dục là ý nghĩa mạng lưới hệ thống. Triết học được hiểu ở đây là mạng lưới hệ thống giáo dục đồng nhất, gồm có tổng thể những gì mà tư duy đặt thành nghi vấn và nhu yếu giải đáp, gồm cả yếu tố nhân sinh và thiên hà, từ đó hình thành một nền tảng của giáo dục học Phật giáo [ 3 ].

Như chúng ta thấy, khai triển để nâng cao giáo dục là nền tảng cho ổn định và thanh bình của xã hội, vì vậy, sự phát triển của giáo dục bao hàm việc mở rộng hoằng pháp, hướng dẫn về nhân cách sống. Khía cạnh giáo dục đạo đức, từ đó cần phải được chú trọng. Sự hoàn thiện phẩm cách dĩ nhiên là mục đích cao quý của giáo dục trong Phật giáo, nhưng nếu không có phương pháp và nỗ lực thì không tài nào có thể tiến hành. Điều này được ám chỉ đến trong câu nói cuối cùng của đức Phật: appamādena sampādetha (strive on with diligence): “Các vị hãy tự mình nỗ lực tinh chuyên”.  Theo quan điểm hiện đại, “appamāda” (non-infatuation): nỗ lực, lời dạy này có thể được xem là bối cảnh giáo dục của Phật giáo.

 

II. Giáo dục thế nào: Giáo lý về đạo đức

Vậy thì phải có giáo dục học Phật giáo ( Buddhist pedagogy ). Nó không những dạy con người sống theo chánh pháp, nghĩa là hợp pháp và lương thiện, mà còn dạy cách cư xử thế nào để có quyền lợi cho bản thân và người khác, xa hơn là cho cả một hội đồng dân tộc bản địa. Vì vậy, nó không được bỏ lỡ yếu tố truyền trao và tiếp đón. Nói giáo dục học văn minh đang nỗ lực xử lý những yếu tố truyền đạt cái gì, truyền đạt cách nào và cho ai thì thật nhàm chán. Người ta đã tập trung chuyên sâu nhiều vào việc truyền đạt kỹ năng và kiến thức, nói một cách rành mạch, tri thức và năng lực. Đây chỉ là tên gọi tổng quát của nhiều thứ kỹ năng và kiến thức được truyền dạy để phô diễn hay ứng phó mà thôi. Các nhà giáo dục tân tiến thường có khuynh hướng truyền đạt trước hết và tối hậu cái gì thiết yếu cho tri thức của mình và thỏa mãn nhu cầu bản lĩnh cá thể, dầu cái ấy có là cốt yếu trong những điều tra và nghiên cứu giáo dục hay không. Giáo dục học hoàn toàn có thể nghiên cứu và điều tra phương pháp truyền đạt tối ưu những nguồn tri thức khan hiếm, và phương pháp những forum giáo dục hoạt động giải trí để truyền đạt. Nhưng định nghĩa giải pháp giáo dục nào đi nữa cũng chỉ hoàn toàn có thể thành công xuất sắc khi đời sống con người có đạo đức.

Về căn bản, con người cần thức ăn đạo đức cho đời sống tinh thần của mình[4]. Nhu cầu này khởi điểm từ khoảnh khắc mới có tri giác cho đến khi lâm chung. Vào thời kỳ đầu tiên của cuộc đời, con người chưa có khả năng phân tích và phán đoán, vì vậy, nó phải sống nhờ vào giáo dục truyền đạt. Nói theo giáo dục học, nó là kẻ đi vay tri thức. Cái gì nó đã học hôm qua, hôm nay nó phải tư duy và ghi nhớ. Và cái gì hôm nay nó suy nghiệm, ngày mai sẽ nâng cao và truyền lại. Đó là quy luật hoạt động, và sự thực hiện ấy đặt trên cơ sở giáo lý về giới (śīla, phẩm cách), trong đó gồm các  học xứ (śikṣāpada), nói rõ là các điều khoản đạo đức cần phải học tập.

Bây giờ, vấn đề được đặt ra là: Con người cần phương pháp giáo dục gì để nó có thể tư duy và phát triển? Trước hết, với tư cách là một sinh vật, nó chỉ cần thực phẩm vật chất. Khi tiến hóa thành một động vật, nó cần thêm một loại thực phẩm nữa: Thực phẩm xúc chạm. Đến một trình độ tồn tại cao hơn, là một con người, nó cần đầy đủ bốn loại thực phẩm: thực phẩm vật chất, thực phẩm xúc chạm, thực phẩm tinh thần, và thực phẩm nhận thức[5]. Như vậy giáo dục phải gồm đủ hai phương diện: hình thể và tâm thức. Giáo dục đầy đủ hai phương diện trên nền tảng đạo đức học Phật giáo: không sát hại sinh vật, không lấy vật không được cho, không tà dâm, không nói lời dối trá, không uống các loại rượu; từ đó đạo đức phổ quát xã hội hình thành, giáo dục mới có nền tảng vững chắc.

 

III. Giáo dục những ai: Các trình độ giáo dục

Trong mỗi giai đoạn phát triển, nhận thức phát sinh ngay khi có sự tương giao giữa giác quan và ngoại cảnh, đoạn kinh thường được các nhà Phật học viện dẫn: “Sau khi duyên đến mắt và các sắc, nhận thức mắt phát sinh”[6],  đoạn kinh khác cũng nói: “Nếu mắt nội xứ không bị hư hoại; sắc ngoại giới không lọt vào tầm nhìn, không có sự chú ý thích đáng, thức tương ứng không phát sinh…”[7]. Nhưng tùy theo trình độ nhận thức mạnh hay yếu mà phương pháp giáo dục cũng được đề xuất vận dụng khác nhau, trong các bản kinh thường phân thành ba hạng người: 1. Hạng người trí tuệ bị trùm kín. 2. Hạng người trí tuệ đầu gối. 3. Hạng người trí tuệ phổ quát[8]. Nơi khác, dựa trên thị hiếu và hành vi của con người, đức Phật lại phân thành bốn hạng: “1. Hạng người từ chỗ tối hướng đến chỗ tối; 2. Hạng người từ chỗ tối hướng đến chỗ sáng; 3. Hạng người từ chỗ sáng hướng đến chỗ tối; 4. Hạng người từ chỗ sáng hướng đến chỗ sáng”[9].

Tùy thuộc vào năng lực trí tuệ và tập quán, đức Phật chia thành nhiều trình độ giáo dục. Trong các kinh điển Phật giáo sơ kì, để chỉ chung cho phương pháp giáo dục, thường dùng thành ngữ “giáo giới thị đạo” (anuśāsanīprātihāryam): giáo dục là một phép lạ; khai thị cho người khác thấy được bản chất của tồn tại: “Đây là Khổ, đây là tập khởi của Khổ, đây là sự chấm dứt Khổ, đây là con đường thoát Khổ”[10]. Nhưng không phải với bất cứ ai đức Phật cũng dạy thẳng vào những chân lý siêu nghiệm (chân đế), có khi Phật giảng bằng những chân lý thường nghiệm (tục đế), như tai họa của vị ngọt khát ái, hay bố thí và thành quả của bố thí v.v… Từ những giáo lý như vậy, đối với người nghe, trí tuệ được phát sinh qua ba giai đoạn: “tuệ do nghe, tuệ do tư duy và tuệ do tu tập”[11].

Do vậy, so với người làm giáo dục cần nắm rõ trình độ nhận thức của thính chúng, hay đơn cử là học trò của mình, để vận dụng tương thích những nguyên tắc giáo dục, không áp bức tư tưởng người nghe, lấy người nghe làm TT, chỉ rõ cho họ thấy giá trị thật sự của giáo dục không nằm ở chỗ giáo sư trình diễn những sở trường của mình và học trò dò dẫm góp nhặt những điều thầy rao giảng ; thực chất của giáo dục là phát minh sáng tạo, so với mỗi trình độ đệ tử khác nhau đều hoàn toàn có thể linh động truyền đạt, so với người nghe hoàn toàn có thể tự do suy nghiệm theo phong phú khunh hướng, không bị gò bó trong một mô thức có sẵn, từ đó vượt ngoài toàn bộ mọi ý niệm chủ quan để thấy được những điều mà ta chưa thấy [ 12 ]. Vấn đề giáo dục con người không phải là yếu tố giáo dục thuần túy đạo đức hay thiện ác như thường bị hiểu nhầm. Đức Phật tìm hiểu và khám phá sự phản ứng con người trước những đối tượng người dùng ngoại cảnh như : Sắc, thanh, hương, vị, xúc v.v…. Dưới nhãn quan của Phật, giá trị hay mức độ giải thoát của con người tùy thuộc phản ứng trước ngoại cảnh. Và giáo dục học Phật giáo ở đây nhằm mục đích đào luyện con người ra khỏi sự chi phối hay đúng hơn sự nô lệ của sự vật. Phật giáo không khi nào chủ trương dùng vẻ đẹp, tài lộc, danh lợi, dọa nạt để dụ dỗ người đi vào cửa Phật. Giáo dục trong Phật giáo bác bỏ mọi hình thức nô lệ, dầu chỉ là nô lệ tâm linh hay thần quyền, ở mức thô thiển hay phức tạp.

 

IV. Đặc tính của giáo dục trong Phật giáo

blankGiáo dục học Phật giáo, không phải là một mô hình với các phép lạ siêu nhiên, cách thức thực hành huyền bí, mà nó đầy đủ các đặc tính thực tiễn, bất cứ ai đi theo con đường giáo dục này đều có thể tự thực hành và kiểm chứng. Kinh nói có sáu đặc tính: “1. Thiết thực hiện tại; 2. Dập tắt nóng bức; 3. Siêu việt thời gian; 4. Hướng dẫn đến cao thượng; 5. Trực tiếp quán sát; 6. Thể nghiệm nội tâm bởi bậc Trí”[13]. Đây gọi là những đặc tính của giáo dục trong Phật giáo, dựa trên đặc tính này mà đưa đến những thành quả đạo đức và trí tuệ tương xứng.

Đặc tính ấy, được biểu hiện rõ qua ba hạng mục: Giới – Định – Tuệ, gọi là con đường thực nghiệm tuệ giác và giải thoát; Giới: rèn luyện phẩm cách, Định: rèn luyện sự chú tâm, Tuệ: rèn luyện sự phân tích và lựa chọn. Trong hoàn cảnh hiện nay, theo quan điểm Phật giáo như đã phát biểu trong bản kinh dẫn trên, ta có thể thừa nhận rằng ngay từ đầu, nếu con người thấy được loại hình giáo dục thích hợp là lựa chọn tốt nhất của mình, trước khi tưởng tượng ra được bất cứ một mô thức giáo dục nào khi đối mặt với giới hạn của môi trường và sự khan hiếm của các phương tiện ngoại tại để thỏa mãn nhu cầu hiểu biết của mình.

Ở đây, không thiết yếu phải nói tới loại khoa học giáo dục được nặn ra theo khung sườn đầu óc phương Tây. Mặc dù, những thành tựu giáo dục như được nhìn thấy lúc bấy giờ ở phương Tây từ thời chủ nghĩa thực dân cho đến đại chiến chống khủng bố thời nay, giáo dục phương Tây có vẻ như chứng tỏ lợi thế của mình so với mạng lưới hệ thống giáo dục của phương Đông, tân tiến giáo dục của nó đã cải tổ rất nhiều về tiêu chuẩn nhận thức. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa dân chúng được niềm hạnh phúc hơn. Thay vào đó, sự thành tựu đầy kinh ngạc về giáo dục đang đẩy quả đât đến nhiều biến cố hàng loạt, khó mà Dự kiến được hệ quả của nó. Sự tiếp đón giáo dục Tây phương không nhất thiết phải diễn ra ồ ạt và đánh mất truyền thống giáo dục Đông phương như lúc bấy giờ. Giáo dục học Phật giáo muốn đề ra chiêu thức giáo dục con người, muốn cải tổ xã hội, phải có can đảm và mạnh mẽ và sáng suốt khám phá thực sự : sự thật tâm linh, thực sự tri thức và đạo đức, thực sự xã hội ; dầu thực sự ấy có xấu xa không tốt đẹp, nhất định không che đậy, tuyên truyền nịnh bợ, không dối mình gạt người ; như vậy mới là đặc tính chân chính của giáo dục học Phật giáo.

 

V. Phương pháp giáo dục

Như đã nói, giáo dục cần tổng lực về mọi mặt, giáo dục chỉ đúng ý nghĩa và vị trí của nó, khi giáo dục không bị phiến diện và thiên kiến ở bất kỳ thực trạng nào. Có thể đề ra mấy điểm trọng điểm sau đây : 1. Giáo dục đối sánh tương quan giữa con người và thực trạng ; 2. Giáo dục đối sánh tương quan giữa con người và hành vi ; 3. Giáo dục đối sánh tương quan giữa con người và tri thức ; 4. Giáo dục đối sánh tương quan giữa con người và đạo đức ; 5. Giáo dục đối sánh tương quan giữa con người và thời hạn ; 6. Giáo dục đối sánh tương quan giữa con người và chân lý. Những khái niệm này gợi lên những ý tưởng sáng tạo về truyền đạt và tiếp đón như giáo dục học văn minh hoàn toàn có thể nhận thức trong một chừng mực nào đó. Tuy nhiên, đức Phật đã đề bạt lấy Pháp tối thượng làm trí tuệ toàn hảo mà quả đât được khuyến khích đạt đến. Pháp tối thượng nói đến ở đây gồm bảy chi phần hay yếu tố của pháp thù diệu, mà kinh gọi là bảy diệu pháp. Chúng là : 1. Niềm tin ; 2. Hổ thẹn ; 3. Sỉ diện ; 4. Nỗ lực ; 5. Ghi nhớ ; 6. Tập trung ; 7. Tuệ giác [ 14 ]. Vì thế, những yếu tố của sự thành tựu giáo dục này phải được xem là những tác nhân truyền đạt tri thức có phẩm chất cao nhất. Tuy nhiên, hầu hết những tác giả viết về giáo dục có lẽ rằng đều miễn cưỡng đống ý một định nghĩa khá lý tưởng như vậy về giáo dục, chính do, theo giả định của họ, giáo dục được định nghĩa là “ gồm hai hình thức : giáo dục thân thể ( sức khoẻ, sinh lý, oai nghi như : đi, đứng, nằm, ngồi ) và giáo dục tâm hồn ( tư duy nhận thức, tâm ý, thị hiếu ) mà mỗi cá thể chiếm hữu ”. Như tất cả chúng ta thấy, thường thì người ta phân biệt giữa giáo dục sức khỏe thể chất tương thích những nhu yếu thể trạng của con người, và giáo dục tâm ý dùng làm phương tiện đi lại nhằm mục đích đạt được những thỏa mãn nhu cầu lý tưởng. Vì giáo dục học văn minh chỉ giải quyết và xử lý những chuyện trong quốc tế này, thì hệ quả hài hòa và hợp lý kèm theo là họ chỉ chăm sóc đến tiêu chuẩn đại trà phổ thông, ở tầm mức thường nghiệm.

Tóm lại, phương pháp giáo dục như vậy đã được Phật chỉ dạy. Sự chuyên cần hay nỗ lực được nhấn mạnh. Hăng hái, tinh chuyên, dũng mãnh… đôi khi được hiểu như là dùng để diễn tả tư thế của tâm ý; mặc dầu các diễn tiến tâm lý của chúng có các khác biệt nhỏ. Tuy nhiên, một cách tổng quát, chúng thường được mô tả là thiết yếu nhất trong mọi đường hướng giáo dục, đó là sự nỗ lực “appamāda”. Đức Phật đã dạy: “Không buông lung, con đường dẫn đến bất tử. Buông lung, con đường dẫn đến chỗ chết. Không buông lung, không bị chết. Người buông lung sống như thây ma”[15].

Sự buông tuồng, lười nhác, không có ý hướng học hỏi, đây là những sức ì của tâm thức, là những gánh nặng trong giáo dục. Nó làm nội tâm con người khởi động trạng thái miễn cưỡng tiếp đón tri thức. Các nhà giáo dục cũng hoàn toàn có thể gọi nó là sự bị động đối lại với đảm nhiệm. Theo những nhà giáo dục định nghĩa, lười nhác là một phạm trù đốt cháy tri thức hoàn toàn có thể được giám sát bằng đơn vị chức năng thời hạn. Với sự tương hỗ của văn minh giáo dục, giới học viên, sinh viên ngày này hoàn toàn có thể nâng cao hiệu suất học tập để tích lũy được một lượng tri thức cao hơn mà không phải tiêu tốn quá nhiều thời hạn. Đó là đặc thù của nền giáo dục văn minh được người ta phong cho cái tên là nền giáo dục quốc tế, được hình thành trên kiểu mẫu giáo dục phương Tây. Việc quá tập trung chuyên sâu vào truyền đạt và tiếp đón tri thức này, nhưng lại thiếu những loại dinh dưỡng giáo dục khác, trong kinh Phật gọi là những loại thức ăn ý thức thiết yếu cho giá trị tuệ giác tối hậu của trái đất, đã tạo nên thực trạng mất cân đối giữa tăng trưởng giáo dục sức khỏe thể chất và niềm tin. Ngày nay, với đà văn minh ngoạn mục của giáo dục, và với sự thành tựu có vẻ như thần kỳ của những phương tiện đi lại tương hỗ giáo dục, người ta hiểu biết nhiều về phương pháp vật chất hoạt động giải trí, nhưng sự hiểu biết của họ về cấu trúc niềm tin được cấu trúc thế nào, từ đó đưa ra mô thức giáo dục thích ứng, được ví như là loại thức ăn nào phải được dùng cho tâm ý, thì còn hữu hạn một cách đáng quan ngại. Chảy máu chất xám, thừa nhân lực nhưng thiếu năng lực, thiếu sự phát minh sáng tạo trong giáo dục lúc bấy giờ ; toàn bộ triệu chứng này của căn bệnh ‘ béo phì giáo dục ’ thật ra là hiệu quả của thực trạng mất cân đối trong sự tăng trưởng đào tạo và giảng dạy nhân tài. Nhìn chung, tăng trưởng giáo dục trên quốc tế thời nay đã nâng cao tầm nhận thức của trái đất lên một mức đáng kể. Tuy nhiên, truyền đạt quá độ và đảm nhiệm quá độ, dứt khoát kéo theo sự bất bình đẳng trong việc cân đối nhận thức trên cán cân giáo dục quốc tế. Về mối bận tâm này, tất cả chúng ta nên tìm hiểu thêm lời dạy của đức Phật tương quan đến yếu tố thời sự này, để hoàn toàn có thể đưa ra một phướng hướng xử lý.

 

VI. Kết luận

blankNhiều tác giả khi viết về giáo dục học Phật giáo, đã vội vã phê bình các phương pháp giáo dục khác, sự phê phán này không nên hời hợt, cần xét đến nền tảng trùng phùng giữa giáo dục Đông phương và Tây phương[16]. Giáo dục của Phật giáo giúp người ta nhìn thẳng vào chính mình; do đó, cần xác định rõ bản thệ giáo dục hiện tại là gì, những khát vọng vĩnh cửu của con người về giáo dục, cũng cần hiểu rõ thực tính của giáo dục. Tuy nói rằng giáo dục học Phật giáo vượt ra ngoài biểu tượng và ngôn ngữ, nhưng nó luôn luôn hòa bình với sự sụp đổ của ngôn ngữ, thoát khỏi sự hủy diệt của những trào lưu tư tưởng, giá trị của giáo dục học Phật giáo được thấy ngay giữa lòng thế gian đau khổ. Đức Phật dạy, hãy chiến thắng tự thân, sự sống vẫn là điều linh thiêng. Nếu thấy được như vậy, thì không chỉ xây dựng được nền tảng của giáo dục, mà còn thấy được nền tảng của mọi khoa học và triết học của nhân loại.

Như vậy, những nguyên do nền tảng cho tăng trưởng giáo dục, tốt hơn hoặc xấu hơn như thời nay nhìn thấy, được quấn chặt với lòng tham, thù hận và ảo tưởng. Thanh tẩy ba độc tố này là mục tiêu tối hậu của con đường giáo dục của Phật giáo. Trong toàn cảnh giáo dục đạo đức toàn thế giới, một mạng lưới hệ thống giáo dục nào đó vẫn còn sống sót để đáp ứng những nhu yếu cho quả đât. Đối với những ai chọn đi theo con đường giáo dục hướng dẫn đến giải thoát tuyệt đối, đến thành tựu Niết-bàn, đức Phật dạy cách xả bỏ tổng lực những dục lạc và khát ái trần gian. Đối với những ai còn bị trói chặt trong năm thứ dục vọng, Ngài thuyết minh con đường giáo dục về đời sống thường nhật đơn giản và giản dị để họ hoàn toàn có thể sống bình an và niềm hạnh phúc ngay trong kiếp nhân sinh hiện tại, cũng như trong tương lai. Giáo lý cho con đường giáo dục được tóm tắt đơn thuần trong hai tiêu điểm : bao dung và đạo đức. Để hoàn toàn có thể tu tập được như vậy, người đó cần đạt đến một trình độ tư duy nhận thức nhất định. Do đó, nền tảng của giáo dục học Phật giáo là một con đường có mục tiêu, nhắm đến việc đào luyện nhận thức và phẩm chất con người cho đời sống xã hội toàn thế giới hóa hiện tại và tương lai. Liên quan đến con đường có mục tiêu này, nó phải gồm đủ tám khuôn khổ, thiết lập như vậy thì nó sẽ trở thành con đường giải phóng giáo dục văn minh, đưa nền giáo dục lên đường hướng về “ như thật đạo ”, tức là “ Bát Thánh đạo ” : ( 1 ) khoa học như thật ( chánh kiến ), ( 2 ) triết học như thật ( chánh tư duy ), ( 3 ) ngôn ngữ học như thật ( chánh ngữ ), ( 4 ) chính trị học như thật ( chánh nghiệp ), ( 5 ) xã hội học như thật ( chánh mạng ), ( 6 ) đạo đức học và luật học như thật ( chánh tinh tấn ), ( 7 ) đạo học, tâm lý học và phân tâm học như thật ( chánh niệm ), ( 8 ) tôn giáo học ( chánh định ). Vì vậy, những điều kiện kèm theo để tăng trưởng giáo dục phải là một sự cân đối giữa sở học bát ngát và thực tiễn hành vi.

Tuy nhiên, giáo dục học Phật giáo, chỉ có thể thực thi với điều kiện thiết yếu: mục đích trong đời sống này của một cá nhân phải được xác lập và tất cả mọi hành vi của nó phải được hướng dẫn bởi đạo đức; bất kể một mô thức giáo dục nào, xuất phát từ động cơ gì đi chăng nữa, có thành vấn đề hay không, cần phải xét về lý tưởng dẫn đạo và mục đích cuối cùng của nó. Trong phương diện này, nếu cần đi tìm một đường hướng cho giáo dục học Phật giáo, lời đức Phật dạy về Bát Thánh đạo hy vọng đóng góp nhiều nguyên tắc chỉ đạo cho các nghiên cứu giáo dục đạo đức toàn cầu.

 

Thư mục trích dẫn

Ernst Waldschmidt, Die Einleitung des Saṅgītisūtra, Zeitschrift der deutschen morgenländischen Gesellschaft, 1955, pp. 298–318.

Jeffrey Samuels, Journal of the American Academy of Religion, Toward an Action-Oriented Pedagogy: Buddhist Texts and Monastic Education in Contemporary Sri Lanka, 2004, Vol. 72, No. 4, pp. 955-971. DOI:10.1093/jaarel/lfh085.

Journal of Transformative Education, The Buddha in the Classroom: Toward a Critical Spiritual Pedagogy, 2007, DOI: 10.1177/1541344607306362.

P. Pradhan (ed.), Abhidharmakośa-bhāṣya by Vasubandhu, 1967, tr. 15.

Pāli Text Society (PTS), Dīgha Nikāya 33, Saṅgītisutta, London: 1989-1921, Vol. iii, pp. 253.

Pāli Text Society, Dīgha Nikāya 1, Brahmajālasutta, London: 1989-1921, Vol. i, pp. 20-45.

Pāli Text Society, Khuddaka Nikāya, Dhammapada, p. 7.

Pāli Text Society, Majjhima Nikāya 28, Mahāhatthipadopamasutta, Vol. i, p. 190.

Phước Nguyên (dịch & chú), A-tì-đạt-ma Tập dị môn túc luận, Nxb. Hồng Đức, tr. 210.

Sharon Luk, Sea of Fire A Buddhist Pedagogy of Dying and Black Encounters across Two Waves, DOI: 10.1080/10999949.2018.1521691.

Taishō Tripiṭaka ( 大正新脩大藏經 ), Vol. 29, no. 1558, 阿毘達磨俱舍論 1, p. 1 b3. Taishō Tripiṭaka, Vol. 01, no. 1, 長阿含經 2, p. 11 a7. Taishō Tripiṭaka, Vol. 01, no. 210, 法句經 1, p. 562 b21 – 22. Taishō Tripiṭaka, Vol. 01, no. 26, 中阿含經 7, p. 467 a4 – 6. Taishō Tripiṭaka, Vol. 02, no. 125, 增壹阿含經 27, p. 699 b17. Taishō Tripiṭaka, Vol. 02, no. 99, 雜阿含經 33, pp. 237 c29 – 238 a4. Taishō Tripiṭaka, Vol. 27, no. 1545, 阿毘達磨大毘婆沙論 12, p. 58 c19 – 21. Taishō Tripiṭaka, Vol. 29, no. 1559, 阿毘達磨俱舍釋論 1, p. 162 a2. Taishō Tripiṭaka, Vol. 30, no. 1579, 瑜伽師地論 8, p. 313 a14.

Tuệ Sỹ, Trường A-hàm, kinh Chúng tập, Nxb. Phương Đông, 2012.

Zane Ma Rhea, Buddhist pedagogy in teacher education: cultivating wisdom by skillful means, DOI: 10.1080/1359866X.2017.1399984.

*Nguồn: http://www.undv2019vietnam.com/Subtheme-03/vi/02.pdf

Source: https://vh2.com.vn
Category : Startup