Networks Business Online Việt Nam & International VH2

Bài tập về công ty hợp danh

Đăng ngày 23 April, 2023 bởi admin

Ngày đăng: 29/03/2013, 09:20

công ty hợp danh: Cũng như pháp luật nhiều nước trên thế giới không có một định nghĩa chung cụ thể và chính xác về loại hình công ty hợp danh, pháp luật Việt Nam hiện hành mà cụ thể là Luật Doanh nghiệp 2005 đã định nghĩa công ty hợp danh dưới dạng liệt kê các đặc điểm cơ bản của nó. Khoản 1 Điều 130 của Luật Doanh nghiệp Việt Nam 2005 định nghĩa: Công ty hợp danh là doanh nghiệp, trong đó: – Phải có ít nhất hai thành viên là chủ sở hữu chung của công ty, cùng nhau kinh doanh dưới một tên chung ( sau đây gọi là thành viên hợp danh); ngoài các thành viên hợp danh có thể có thành viên góp vốn; – Thành viên hợp danh phải là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty; – Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty. Định ngĩa này cho thấy hai vấn đề lớn cần phải bàn: Vấn đề lớn thứ nhất, công ti hợp danh theo quan niệm của Luật Doanh nghiệp năm 2005 phải có ít nhất hai thành viên hợp danh, có ngĩa là hai người chịu trách nhiệm liên đới và vô hạn định đối với các khoản nợ của công ti. Điều này là đúng nếu Luật Doanh ngiệp năm 2005 không quan niệm công ti hợp danh bao gồm cả công ti hợp vốn đơn giản. Như trên đã nói, bản chất của công ti hợp danh (general partnership) đúng ngĩa là sự liên kết của các thương nhân đơn lẻ (sole trader hay sole proprietorship) để kinh doanh dưới một tên hãng chung. Vì vậy, công ti hợp danh phải có từ hai thành viên hợp trở lên, nếu không thì sẽ vẫn chỉ là thương nhân đơn lẻ. Còn đối với công ti hợp vốn đơn giản thì chỉ cần có một thành viên hợp danh (hay “thành viên nhận vốn” – gọi một cách dễ hiểu hơn và đỡ bị nhầm hơn về ngữ ngĩa) và một thành viên góp vốn là đủ. Ngay ở Hoa Kì người ta quan niệm: “Công ti hợp danh hữu hạn (limited partnership) bao gồm hai hay nhiều người, với ít nhất một thành viên hợp danh và một thành viên chịu trách nhiệm hữu hạn”. Cần lưu ý thêm: “công ti hợp danh hữu hạn: gọi theo cách của chúng ta xưa kia là “công ti hợp vốn đơn giản” hay “công ti hợp tư đơn thường”. Để thấy hết quan niệm sai lầm về công ti hợp danh theo pháp luật của Việt Nam hiện nay, cần khảo sát tình huống sau: Lại Thị Lợi và Cù Thị Như Lan cùng nhau thành lập một công ti hợp danh mang tên Lại Cù. Công ti hoạt động rất hiệu quả, đóng góp lớn cho ngân sách nhà nước, giải quyết được rất nhiều việc làm cho một địa bàn có nhiều người thất nghiệp, thực hiện chính sách kij tế lớn của địa phương. Khôw may Cù Thị Như Lan qua đời để lại tài sản cho người thừa kế duy nhất mang tên Cù Thị Khoái, không có khả năng kinh doanh và không được sự tin tưởng về mặt kinh doanh của Lại Thị Lợi. Khoái không muốn rút khỏi công ti, nhưng cũng đồng ý chỉ là thành viên góp vốn của công ty. Lợi không muốn kết nạp thêm bất kì ai vào công ti vì không tin tưởng và không muốn chia xẻ cơ hội kinh doanh. Biết rằng tỉ lệ quyền lợi của Lợi và Lan trong công ti Lại Cù bằng nhau. Để giải quyết tình huống này, có các giải pháp sau: Thứ nhất, Khoái rút khỏi công ti. Điều này trái với ý chí của Lợi và Khoái. Lưu ý: Luật tư không thể buộc bất kì ai hành động trái với ý muốn của họ, nếu không có lí do chính đáng từ phía cộng đồng. Giả định Khoái rút khỏi công ti, công ti chỉ còn lại mình Lợi. Lúc này công ti không thể còn là công ti hợp danh nữa, vì nó chống lại bản chất thực sự của công ti hợp danh, và xét về luật thực định thì nó cũng chống lại các qui định về công ti hợp danh. Thứ hai, công ti Lại Cù chuyển đổi thành công ti tráz jiệm hữu hạn. Điều này trái với ý muốn của Lợi. Hơn nữa, pháp luật Việt Nam hiện không dự liệu trường hợp chuyển đổi hình thức giữa công ti đối vốn và công ti đối nhân. Thứ ba, Khoái thay thế vị trí thành viên hợp danh của Lan trong công ti Lại Cù. Điều này trái với ý chí của Lợi và Khoái, đồng thời chống lại tính chất đối nhân (tin tưởng lẫn nhau và nhắm tới nhân thân của nhau giữa các thành viên hợp danh) của công ti hợp danh. Thứ tư, công ti Lại Cù kết nạp thêm thành viên hợp danh mới. Điều này cũng trái với ý chí của Lợi và Khoái, đồng thời chống lại tính chất đối nhân của công ti hợp danh. Thứ năm, công ti Lại Cù giải thể để Lợi thành lập công ti khác. Giải pháp này chống lại lợi ích của cộng đồng vì công ti đang phát triển và có nhiều đóng góp cho xã hội. Đồng thời, Lợi bị mất cơ hội làm ăn và gánh chịu chi phí lớn cho việc tạo dựng lại công ti… Các giải pháp trên đều có các khiếm khuyết lớn có thể khiến cho luật không đi vào đời sống xã hội, nhiều khi còn cản trở việc phát triển kinh tế, xã hội. Tốt nhất là chúng ta nên chọn giải pháp mà các hệ thống tài phán trên thế giới hiện nay vẫn đang sử dụng. Đó là thiết kế qui chế pháp lí riêng cho công ti hợp danh và cho công ti hợp vốn đơn giản. Nhưng trước hết cần phải nhận thức công ti hợp danhcông ti hợp vốn đơn giản là hai hình thức công ti khác biệt. Đồng thời nhà làm luật cần thiết kế đầy đủ các giải pháp đối với việc chuyển đổi hình thức công ti. Vấn đề lớn thứ hai, thành viên hợp danh theo Luật Doanh ngiệp năm 2005 phải là cá nhân, có ngĩa là pháp nhân không thể góp vốn thành lập công ti hợp danh. ở trên đã nói, bản chất thủa ban đầu của công ti hợp danh là sự liên kết giữa các thương gia thể nhân hay thương nhân đơn lẻ để cùng kinh doanh dưới một tên hãng chung. Tuy nhiên, ngày nay khi đã cách xa cái thủa ban đầu đó hàng thiên niên kỉ, thì công ti hợp danh mang bản chất là sự liên kết giữa các thương nhân mà trong đó có cả thương gia thể nhân và thương gia pháp nhân, có ngĩa là thành viên của công ti hợp danh có thể là pháp nhân. Về mặt lí thuyết cho thấy pháp nhân mô phỏng vị trí pháp lí của thể nhân. Nó có tên gọi, cơ sở, quốc tịch, ý chí, sản nghiệp, trách nhiệm, có ngĩa là nó có các quyền dân sự như thể nhân trừ một số quyền đặc trưng của thể nhân như về gia đình, về chính trị… Đứng trước pháp luật, thể nhân hay pháp nhân đều được gọi là người, nhưng để phân biệt giữa chúng người ta gắn vào đó các tính từ. Sự phân biệt như vậy là cần thiết để thiết lập đời sống pháp lí khác nhau cho chúng, song sự phân biệt đó không làm cản trở tới việc tham gia vào các hoạt động kinh tế của pháp nhân. Về mặt pháp luật thực định, chúng ta đã thấy Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 có một hình thức đầu tư là hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hay hợp đồng hợp tác kinh doanh mà các luật gia trên thế giới quan niệm đó chính là hình thức công ti hợp danh, mặc dù khi xây dựng Luật Doanh ngiệp năm 1999, nhiều quan điểm ở Quốc hội cho rằng, hình thức công ti hợp danh là quá mới đối với Việt Nam, nên đã cắt xén dự thảo để chỉ thông qua vỏn vẹn năm điều về công ti hợp danh. Điều đáng lưu ý rằng, các bên trong hợp đồng hợp tác kinh doanh theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam có thể là pháp nhân. Vậy tại sao Luật Doanh ngiệp năm 2005 cho rằng thành viên của công ti hợp danh chỉ có thể là thể nhân? Có lẽ nhà làm luật ngĩ, thành viên hợp danh của công ti hợp danh phải chịu trách nhiệm vô hạn định đối với các khoản nợ của công ti nên buộc phải là cá nhân, vì xem điểm b, khoản 1, Điều 130 của Luật Doanh ngiệp năm 2005 có bóng dáng của những nhận thức như vậy. Chịu trách nhiệm vô hạn định có ngĩa là phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình hiện có hoặc sẽ có trong tương lai. Vậy cả thể nhân và pháp nhân đều phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với các khoản nợ của họ, chỉ có điều khác biệt là pháp nhân khi đã bị thanh lí hết tài sản thì có thể không tồn tại nữa, còn thể nhân thì vẫn có cơ hội để làm ăn, có ngĩa là có thể có tài sản trong tương lai. Câu chuyện này còn liên quan tới luật phá sản mà chúng ta sẽ có dịp đề cập tới. Ngày nay, các công ti thường lựa chọn các hình thức đầu tư rất linh hoạt. Họ có thể sử dụng hình thức công ti hợp danh để tạo ra các chi nhánh chung hoặc để kiểm soát hữu hiệu một công ti hoặc nhiều công ti khác trong việc khai thác một cơ hội kinh doanh nào đó. Vậy tại sao Luật Doanh ngiệp năm 2005 lại hạn chế quyền tự do lựa chọn hình thức đầu tư của các thương nhân mà không có lí do chính đáng từ phía cộng đồng? Để lí giải đầy đủ cho quan niệm thành viên hợp danh có thể là pháp nhân, chúng ta còn phải nắm được vị thế pháp lí của thành viên hợp danh. Công ti hợp danhcông ti dân sự rất gần gũi nhau, nhưng không chuyển đổi được sang nhau. Các thành viên của công ti hợp danh mặc nhiên được coi là có tư cách thương gia và liên đới chịu trách nhiệm với các khoản nợ của công ti. Cơ cấu tổ chức của công ti hợp danh gọn nhẹ, do đó nó rất thiz hợp với việc tổ chức các doanh ngiệp nhỏ. Hình thức công ti này xuất hiện ngày càng jiều trong mối liên hệ giữa các công ti để hình thành một chi nhánh chung giữa các công ti, các tập đoàn, làm cơ sở cho việc phân nhánh mới. Trong Giáo trình Luật kij tế, Tập 1: Luật doanh ngiệp, Tình huống – Phân tích – Bình luận của Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, có đoạn viết: “Luật sư thường được xem là cơ quan bổ trợ công lí, bởi vậy các hãng luật thường hoạt động dưới dạng hợp danh chứ không phải các công ti thương mại” (3). Đọc đoạn văn này ai đó băn khoăn: Phải chăng hợp danh hay công ti hợp danh không phải là công ti thương mại? Có lẽ vẫn cấn cá ở việc xem dịch vụ pháp lí có phải là hành vi thương mại hay không và việc tổ chức dịch vụ pháp lí dưới hình thức hợp danh phải chăng là một hợp đồng dân sự, nên sự ra đời của đoạn văn trên chỉ đề cập riêng tới các công ti luật mà không nhằm nói tới công ti hợp danh nói chung. Trong khi đó, từ trước tới nay ở đâu người ta cũng nói công ti hợp danhcông ti thương mại, là thương nhân bởi hình thức và nó được phân biệt với công ti dân sự. Trong các đặc điểm pháp lí của công ti hợp danh còn có một vấn đề phải bàn là: công ti hợp danh có tư cách pháp nhân hay không? Nhiều luật gia Việt Nam cho tới bây giờ vẫn chưa đồng tình với việc Luật Doanh ngiệp năm 2005 quan niệm công ti hợp danh có tư cách pháp nhân. Rõ ràng, công ti hợp danh cũng có tên gọi, trụ sở, quốc tịch, sản nghiệp, ý chí và trách nhiệm. Điều đó cho thấy không thể quan niệm nó là một cái gì đó khác hơn pháp nhân. Còn các thành viên của nó xét về mặt pháp lí là những người bảo lãnh liên đới cho các hoạt động của công ti. Hoàn toàn có sự tách bạch giữa tài sản của công ti và tài sản của các thành viên, Từ định nghĩa trên có thể nhận thấy pháp luật Việt Nam ghi nhận công ty hợp danh bao gồm cả hai loại: hợp danh thông thường và hợp danh hữu hạn. Tuy nhiên, nếu pháp luật nhiều nước Đông Nam Á khác phân tách hai loại hình công ty hợp danh riêng biệt: thứ nhất là công ty hợp danh mang bản chất “ hợp danh tuyệt đối”- tức công ty hợp danh thông thường, chỉ bao gồm một loại thành viên duy nhất là thành viên hợp danh chịu trách nhiệm vô hạn đối với các nghĩa vụ của công ty; thứ hai là công ty hợp danh mang bản chất “ hợp danh tương đối”- tức công ty hợp danh hữu hạn, ngoài thành viên hợp danh còn có loại thành viên góp vốn chịu trách nhiệm hữu hạn trong phạm vi vốn góp vào công ty, thì ở Việt Nam cả hai loại công ty hợp danh này đều được ghi nhận nhưng không có sự phân tách mà gộp chung dưới một tên gọi duy nhất là “ công ty hợp danh”. Thật vậy, pháp luật Việt Nam quy định công ty hợp danh là doanh nghiệp phải có ít nhất là hai thành viên hợp danh, ngoài các thành viên hợp danh còn có thể có thêm thành viên góp vốn. Nói như vậy có nghĩa là công ty hợp danh theo pháp luật Việt Nam có thể chỉ có một loại thành viên duy nhất là thành viên hợp danh, và phải có số lượng ít nhất là hai thành viên hợp danh mới được thành lập hợp pháp. Đây chính là hình thức công ty hợp danh thông thường mang bản chất “ hợp danh tuyệt đối” giống như quy định của pháp luật nhiều nước trên thế giới. Những điểm khác biệt ở đây là pháp luật Việt Nam đồng thời quy định “ ngoài các thành viên hợp danh có thể có thành viên góp vốn”, tức là đã ghi nhận loại hình công ty hợp danh hữu hạn hay chính là công ty hợp vốn đơn giản theo quy định của pháp luật các nước, và đây cũng là một loại hình công ty đối nhân. Đối với công ty hợp danh hữu hạn ở Việt Nam cũng phải đáp ứng điều kiện cần thiết đó là phải có ít nhất hai thành viên hợp danh và không quy định số lượng thành viên góp vốn, sự xuất hiện của chỉ một thành viên góp vốn cũng đủ làm cho bản chất của công ty hợp danh trở thành “ hợp danh không tuyệt đối” Như vậy, nếu pháp luật các nước chỉ ghi nhận một loại hình công ty hợp danh hay có sự phân tách riêng biệt hai loại hình của nó, thì pháp luật Việt Nam đã đồng thời ghi nhận sự tồn tại của cả hai loại hình công ty công ty hợp danh là: hợp danh thông thường và hợp danh hữu hạn và được gộp dưới một cái tên chung nhất đó là “ công ty hợp danh”. Đó cũng chính là điểm khác biệt cơ bản của pháp luật Việt Nam so với pháp luật các nước trên thế giới cũng như trong khu vực Đông Nam Á. Nhưng nhìn chung, khái niệm công ty hợp danh theo Luật Doanh nghiệp của Việt Nam có nội hàm công ty đối nhân theo pháp luật các nước. Việc quy định về công ty hợp danh, Luật Doanh nghiệp đã ghi nhận sự tồn tại của các công ty đối nhân ở Việt Nam 2_ Thành viên công ty hợp danh: Theo luật Doanh nghiệp Việt Nam 2005 quy định công ty hợp danh bao gồm hai loại thành viên: thành viên hợp danh và thành viên góp vốn. Vì vậy, tìm hiểu quy chế thành viên trong công ty hợp danh tức là phân tích hai loại thành viên này cùng những quyền và nghĩa vụ pháp lý cơ bản của nó. 2.1_ Thành viên hợp danh: Thành viên hợp danh là loại thành viên cơ bản trong công ty hợp danh, là điều kiện cần thiết và tiên quyết cho sự ra đời của công ty hợp danh. Đối với Việt Nam, muốn thành lập công ty hợp danh phải có ít nhất là hai thành viên hợp danh. Điểm b Khoản 1 Điều 130 Luật Doanh nghiệp 2005 quy định: “ Thành viên hợp danh phải là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty”. Theo đó, thành viên hợp danh trong công ty hợp danh ở Việt Nam chỉ có thể là cá nhân, pháp luật không cho phép một pháp nhân, một tổ chức trở thành thành viên hợp danh trong công ty hợp danh. Đối với một số trường hợp đặc biệt, nếu công ty hợp danh hoạt động trong những ngành nghề như dịch vụ pháp lý, khám chữa bệnh, dược phẩm, dịch vụ thú y, thuốc thú y, thiết kế công trình, kiểm toán, môi giới chứng khoán, .thì thành viên hợp danh trong công ty đó phải có chứng chỉ hành nghề, trình độ chuyên môn hoặc bằng cấp, nghiệp vụ nhất định. Thành viên hợp danh chịu chế độ trách nhiệm vô hạn và liên đới bằng toàn bộ tài sản của mình đối với các nghĩa vụ và khoản nợ của công ty. Chủ nợ có quyền yêu cầu bất cứ thành viên hợp danh nào thanh toán các khoản nợ của công ty đối với chủ nợ. Mặt khác, các thành viên hợp danh phải bằng toàn bộ tài sản của mình ( tài sản đầu tư vào kinh doanh và tài sản dân sự) chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ của công ty. Với một chế độ trách nhiệm vô hạn như vậy, Luật Doanh nghiệp đồng thời trao ch thành viên hợp danh những quyền hạn chủ yếu trong việc điều hành và quản lý công ty. Nói cách khác, thành viên hợp danh giữ vai trò quyết định sự hình thành, phát triển và tồn tại của công ty hợp danh về cả mặt pháp lý lẫn thực tế. Điều 134 Luật Doanh nghiệp 2005 đã quy định những quyền hạn và nghĩa vụ cơ bản của thành viên hợp danh. Cụ thể, thành viên hợp danh trong công ty hợp danh có quyền từ việc điều hành, quản lý công ty, sử dụng tài sản của công ty vào việc kinh doanh nhân danh công ty đến những việc nội bộ khác của công ty .Bên cạnh đó, thành viên hợp danh phải có nghĩa vụ quản lý công ty theo đúng quy định của pháp luật, liên đới chịu trách nhiệm vô hạn đối với mọi khoản nợ của công ty .Có thể thấy, Luật Doanh nghiệp đã trao cho thành viên hợp danh quyền của một chủ công ty thực sự, đồng thời cũng áp dụng một chế độ trách nhiệm vô hạn mà loại thành viên này phải chịu khi thực hiện các hoạt động nhân danh công ty. Thành viên hợp danh phải chịu trách nhiệm về các hoạt động của công ty kể từ khi đăng ký vào danh sách thành viên công ty, bất kể thành viên đó có trực tiếp tham gia vào các hoạt động phát sinh trách nhiệm ấy hay không, trừ trường hợp thành viên đó và các thành viên còn lại có thoả thuận khác ( Khoản 3 Điều 139 Lụât Doanh nghiệp 2005). Ngay cả khi đã chấm dứt tư cách thành viên công ty hợp danh thì trong thời hạn hai năm, thành viên hợp danh vẫn phải liên đới chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với các khoản nợ của công ty đã phát sinh trước ngày chấm dứt tư cách thành viên ( Khoản 5 Điều 138 Luật Doanh nghiệp 2005). Xuất phát từ việc thành viên hợp danh nắm giữ vai trò quan trọng trong việc thành lập và quản lý công ty hợp danh mà điều kiện để trở thành thành viên hợp danh cũng chính là điều kiện được quy định tại Khoản 2 Điều 13 Luật Doanh nghiệp 2005, theo đó, các cá nhân sau đây không thể trở thành thành viên hợp danh của công ty hợp danh: – Cán bộ, công chức theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức; – Sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân Việt Nam; sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp trong các cơ quan, đơn vị thuộc công an nhân dân Việt Nam; – Cán bộ lãnh đạo, quản lý nghiệp vụ trong các doanh nghiệp 100% vốn sở hữu nhà nước, trừ những người được cử làm đại diện theo uỷ quyền để quản lý phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp khác; – Người chưa thành niên; người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc bị mất năng lực hành vi dân sự; – Người đang chấp hành hình phạt tù hoặc đang bị Toà án cấm hành nghề kinh doanh; – Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật về phá sản. Cũng chính từ vai trò quan trọng và chế độ trách nhiệm vô hạn của thành viên hợp danh mà Luật Doanh nghiệp 2005 ( Điều 133) đã có một số quy định hạn chế đối với quyền của thành viên hợp danh, đó là: – Thành viên hợp danh không được làm chủ doanh nghiệp tư nhân hoặc làm thành viên hợp danh của công ty hợp danh khác; trừ trường hợp được sự nhất trí của các thành viên hợp danh còn lại. – Thành viên hợp danh không được quyền nhân danh cá nhân hoặc nhân danh người khác thực hiện kinh doanh cùng ngành, nghề kinh doanh của công ty đó để tư lợi hoặc phục vụ lợi ích của tố chức, cá nhân khác. – Thành viên hợp danh không được quyền chuyển một phần hoặc toàn bộ phần vốn góp của mình tại công ty cho người khác nếu không được sự chấp thuận của các thành viên hợp danh còn lại. Việc pháp luật hạn chế quyền của thành viên hợp danh cũng là một điều dễ hiểu bởi thành viên hợp danh giữ vai trò quyết định trong sự tồn tại và phát triển của công ty hợp danh, hơn nữa tính đối nhân luôn gắn liền với loại thnhf viên này, do đó việc cho phép thành viên hợp danh được tự do chuyển nhượng vốn cũng như được tự do thoải mái trong hoạt động kinh doanh sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của công ty, đến trật tự của môi trường kinh doanh nói chung và làm méo mó bản chất đối nhân cơ bản của công ty hợp danh. Để tạo sự linh hoạt cho các thành viên hợp danh trong hoạt động kinh doanh, pháp luật một số nước đã trao tư cách thương nhân cho loại thành viên này, có nghĩa là thành viên hợp danh có quyền hoạt động thương mại một cách độc lập, nhân danh chính bản thân mình hoặc nhân danh công ty hợp danh. Về vấn đề này, pháp luật Việt Nam không có quy định cụ thể, nhưng xét trên tinh thần chung của các văn bản hiện hành: Luật Thương mại Việt Nam 2005 quy định: “ Thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng lý kinh doanh”. Đồng thời, theo Luật Doanh nghiệp Việt Nam thì thành viên hợp danh có quyền “ nhân danh công ty tiến hành các hoạt động kinh doanh các ngành nghề kinh doanh đã đăng ký” và “ không được quyền nhân danh cá nhân hoặc nhân danh người khác thực hiện kinh doanh cùng ngành, nghề kinh doanh của công ty đó để tư lợi hoặc phục vụ lợi ích của tổ chức, cá nhân khác” ( Theo Điều 134 và Điều 133 Luật Doanh nghiệp 2005). Theo đó, pháp luật Việt Nam ghi nhận cá nhân cũng có tư cách thương nhân nếu đáp ứng được điều kiện nhất định, tức là cá nhân đó có quyền nhân danh chính mình để hoạt động thương mại một cách độc lập. Nhưng đối với cá nhân là thành viên hợp danh trong công ty hợp danh thì không được nhân […]… thôi Đây tỏ ra là sự thiệt thòi của công ty hợp danh so với các loại hình công ty khác đều được Luật Doanh nghiệp điều chỉnh Nhưng nếu xét về bản chất đối nhân của công ty hợp danh thì điều này trở nên hợp lý, ở công ty hợp danh yếu tố nhân thân luôn được coi trọng hàng đầu, việc thay đổi thành viên hợp danh là hết sức khó khăn và phức tạp, nếu cho phép công ty hợp danh phát hành và chào bán chứng khoán… 1999 đã không công nhận tư cách pháp nhân của công ty hợp danh Đến Luật Doanh nghiệp 2005 thì công ty hợp danh đã được công nhận là một tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân Việc công nhận công ty hợp danh có tư cách pháp nhân nhằm tạo điều kiện bình đẳng cho công ty khi tham gia vào trường kinh doanh cạnh tranh với các loại hình doanh nghiệp khác Cũng như tạo sự công bằng cho công ty hợp danh khi mà… viên hợp danh – Các trường hợp khác do điều lệ công ty quy định Như vậy, có thể nhận thấy thành viên hợp danh là loại thành viên cơ bản của công ty, nắm giữ vai trò quan trọng trong quản lý và điều hành mọi công việc của công ty, đồng thời chịu chế độ trách nhiệm liên đới và vô hạn đối với mọi khoản nợ cũng như các nghĩa vụ của công ty hợp danh. .. thành viên hợp danh của công ty mặc dù không có mối quan hệ nhân thân nào cả, điều đó sẽ ảnh hưởng đến tính đối nhân- bản chất cơ bản của công ty đối nhân Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa là công ty hoặc… kiện trên, ta thấy hợp pháp, có cơ cấu tổ chức chặt chẽ và nhân danh mình thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh một cách độc lập Nhưng đối với điều kiện về sự độc lập về tài sản của công ty và tính tự chịu trách nhiệm thì công ty hợp danh không đáp ứng đựơc, bởi lẽ trong công ty hợp danh tồn tại loại thành viên hợp danh với chế độ trách… thành viên này trong công ty hợp danh, đồng thời ghi nhận sự tồn tại của hai hình thức công ty hợp danh đó là hợp danh thông thường( chỉ có các thành viên hợp danh) và hợp danh hữu hạn( có sự xuất hiện của thành viên góp vốn) Khác với thành viên hợp danh, thành viên góp vốn không nhất thiết phải là cá nhân Các tổ chức, pháp nhân cũng có thể trở thành thành viên góp vốn trong công ty hợp danh Theo Khoản… theo Điều lệ của công ty 4_ Tư cách pháp lý của công ty hợp danh Khoản 2 Điều 130 Luật Doanh nghiệp 2005 quy định: “ Công ty hợp danh có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh” Việc Luật Doanh nghiệp 2005 công nhận tư cách pháp nhân của công ty hợp danh là một điểm mới khác biệt so với Luật doanh nghiệp 1999 Luật Doanh nghiệp 1999 đã quy định công ty hợp danh không có… thuận của các thành viên hợp danh còn lại, và họ không được quyền nhân danh cá nhân hoặc nhân danh người khác thực hiện kinh doanh cùng ngành, nghề của công ty Như vậy, Luật Doanh nghiệp 2005 đã quy định khá cụ thể về quy chế thành viên của công ty hợp danh Theo đó, công ty hợp danh bao gồm hai loại thành viên: thành viên hợp danh nắm vai trò quản lý và điều hành trong công ty, chịu trách nhiệm vô hạn… các loại hình công ty, dù mang bản chất đối vốn hay đối nhân thì vốn vẫn luôn có tầm quan trọng nhất định 3.1_ Về việc góp vốn vào công ty: Công ty hợp danh là loại hình công ty mang bản chất đối nhân, yếu tố được quan tâm hàng đầu là nhân thân của các thành viên trong công ty chứ không phải là vốn Điều đó thể hiện sự khác biệt so với các loại hình công ty đối vốn như công ty cổ phần, công ty trách nhiệm… lệ công ty không có quy định khác) Vai trò của người đứng đầu công ty hợp danh cũng có sự khác biệt so với vị trí, vai trò của người đứng đầu công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần Nếu Chủ tịch, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc của công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần có một vị trí quan trọng so với các thành viên khác trong công ty, có quyền thực hiện những công việc kinh doanh của công ty. tách hai loại hình công ty hợp danh riêng biệt: thứ nhất là công ty hợp danh mang bản chất “ hợp danh tuyệt đối”- tức công ty hợp danh thông thường, chỉ. hợp danh chịu trách nhiệm vô hạn đối với các nghĩa vụ của công ty; thứ hai là công ty hợp danh mang bản chất “ hợp danh tương đối”- tức công ty hợp danh

Bài tập về công ty hợp danh 1_ Khái niệmdanh: Cũng như pháp luật nhiều nước trên thế giới không có một định nghĩa chung cụ thể và chính xácloại hìnhdanh, pháp luật Việt Nam hiện hành mà cụ thể là Luật Doanh nghiệp 2005 đã định nghĩadưới dạng liệt kê các đặc điểm cơ bản của nó. Khoản 1 Điều 130 của Luật Doanh nghiệp Việt Nam 2005 định nghĩa:là doanh nghiệp, trong đó: – Phải có ít nhất hai thành viên là chủ sở hữu chung củaty, cùng nhau kinh doanh dưới một tên chung ( sau đây gọi là thành viêndanh); ngoài các thành viêncó thể có thành viên góp vốn; – Thành viênphải là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mìnhcác nghĩa vụ củaty; – Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệmcác khoản nợ củatrong phạm vi số vốn đã góp vàoty. Định ngĩa này cho thấy hai vấn đề lớn cần phải bàn: Vấn đề lớn thứ nhất,titheo quan niệm của Luật Doanh nghiệp năm 2005 phải có ít nhất hai thành viêndanh, có ngĩa là hai người chịu trách nhiệm liên đới và vô hạn định đối với các khoản nợ củati. Điều này là đúng nếu Luật Doanh ngiệp năm 2005 không quan niệmtibao gồm cảtivốn đơn giản. Như trên đã nói, bản chất củati(general partnership) đúng ngĩa là sự liên kết của các thương nhân đơn lẻ (sole trader hay sole proprietorship) để kinh doanh dưới một tên hãng chung. Vì vậy,tiphải có từ hai thành viêntrở lên, nếu không thì sẽ vẫn chỉ là thương nhân đơn lẻ. Còn đối vớitivốn đơn giản thì chỉ cần có một thành viên(hay “thành viên nhận vốn” – gọi một cách dễ hiểu hơn và đỡ bị nhầm hơnngữ ngĩa) và một thành viên góp vốn là đủ. Ngay ở Hoa Kì người ta quan niệm: “Công tihữu hạn (limited partnership) bao gồm hai hay nhiều người, với ít nhất một thành viênvà một thành viên chịu trách nhiệm hữu hạn”. Cần lưu ý thêm: “công tihữu hạn: gọi theo cách của chúng ta xưa kia là “công tivốn đơn giản” hay “công titư đơn thường”. Để thấy hết quan niệm sai lầmtitheo pháp luật của Việt Nam hiện nay, cần khảo sát tình huống sau: Lại Thị Lợi và Cù Thị Như Lan cùng nhau thành lập mộttimang tên Lại Cù.ti hoạt động rất hiệu quả, đóng góp lớn cho ngân sách nhà nước, giải quyết được rất nhiều việc làm cho một địa bàn có nhiều người thất nghiệp, thực hiện chính sách kij tế lớn của địa phương. Khôw may Cù Thị Như Lan qua đời để lại tài sản cho người thừa kế duy nhất mang tên Cù Thị Khoái, không có khả năng kinh doanh và không được sự tin tưởngmặt kinh doanh của Lại Thị Lợi. Khoái không muốn rút khỏiti, nhưng cũng đồng ý chỉ là thành viên góp vốn củaty. Lợi không muốn kết nạp thêm bất kì ai vàoti vì không tin tưởng và không muốn chia xẻ cơ hội kinh doanh. Biết rằng tỉ lệ quyền lợi của Lợi và Lan trongti Lại Cù bằng nhau. Để giải quyết tình huống này, có các giải pháp sau: Thứ nhất, Khoái rút khỏiti. Điều này trái với ý chí của Lợi và Khoái. Lưu ý: Luật tư không thể buộc bất kì ai hành động trái với ý muốn của họ, nếu không có lí do chính đáng từ phíađồng. Giả định Khoái rút khỏiti,ti chỉ còn lại mình Lợi. Lúc nàyti không thể còn làtinữa, vì nó chống lại bản chất thực sự củatidanh, và xétluật thực định thì nó cũng chống lại các qui địnhtidanh. Thứ hai,ti Lại Cù chuyển đổi thànhti tráz jiệm hữu hạn. Điều này trái với ý muốn của Lợi. Hơn nữa, pháp luật Việt Nam hiện không dự liệu trườngchuyển đổi hình thức giữati đối vốn vàti đối nhân. Thứ ba, Khoái thay thế vị trí thành viêncủa Lan trongti Lại Cù. Điều này trái với ý chí của Lợi và Khoái, đồng thời chống lại tính chất đối nhân (tin tưởng lẫn nhau và nhắm tới nhân thân của nhau giữa các thành viêndanh) củatidanh. Thứ tư,ti Lại Cù kết nạp thêm thành viênmới. Điều này cũng trái với ý chí của Lợi và Khoái, đồng thời chống lại tính chất đối nhân củatidanh. Thứ năm,ti Lại Cù giải thể để Lợi thành lậpti khác. Giải pháp này chống lại lợi ích củađồng vìti đang phát triển và có nhiều đóng góp cho xã hội. Đồng thời, Lợi bị mất cơ hội làm ăn và gánh chịu chi phí lớn cho việc tạo dựng lạiti… Các giải pháp trên đều có các khiếm khuyết lớn có thể khiến cho luật không đi vào đời sống xã hội, nhiều khi còn cản trở việc phát triển kinh tế, xã hội. Tốt nhất là chúng ta nên chọn giải pháp mà các hệ thống tài phán trên thế giới hiện nay vẫn đang sử dụng. Đó là thiết kế qui chế pháp lí riêng chotivà chotivốn đơn giản. Nhưng trước hết cần phải nhận thứctivàtivốn đơn giản là hai hình thứcti khác biệt. Đồng thời nhà làm luật cần thiết kế đầy đủ các giải pháp đối với việc chuyển đổi hình thứcti. Vấn đề lớn thứ hai, thành viêntheo Luật Doanh ngiệp năm 2005 phải là cá nhân, có ngĩa là pháp nhân không thể góp vốn thành lậptidanh. ở trên đã nói, bản chất thủa ban đầu củatilà sự liên kết giữa các thương gia thể nhân hay thương nhân đơn lẻ để cùng kinh doanh dưới một tên hãng chung. Tuy nhiên, ngày nay khi đã cách xa cái thủa ban đầu đó hàng thiên niên kỉ, thìtimang bản chất là sự liên kết giữa các thương nhân mà trong đó có cả thương gia thể nhân và thương gia pháp nhân, có ngĩa là thành viên củaticó thể là pháp nhân.mặt lí thuyết cho thấy pháp nhân mô phỏng vị trí pháp lí của thể nhân. Nó có tên gọi, cơ sở, quốc tịch, ý chí, sản nghiệp, trách nhiệm, có ngĩa là nó có các quyền dân sự như thể nhân trừ một số quyền đặc trưng của thể nhân nhưgia đình,chính trị… Đứng trước pháp luật, thể nhân hay pháp nhân đều được gọi là người, nhưng để phân biệt giữa chúng người ta gắn vào đó các tính từ. Sự phân biệt như vậy là cần thiết để thiết lập đời sống pháp lí khác nhau cho chúng, song sự phân biệt đó không làm cản trở tới việc tham gia vào các hoạt động kinh tế của pháp nhân.mặt pháp luật thực định, chúng ta đã thấy Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 có một hình thức đầu tư làtác kinh doanh trên cơ sởđồng hayđồngtác kinh doanh mà các luật gia trên thế giới quan niệm đó chính là hình thứctidanh, mặc dù khi xây dựng Luật Doanh ngiệp năm 1999, nhiều quan điểm ở Quốc hội cho rằng, hình thứctilà quá mới đối với Việt Nam, nên đã cắt xén dự thảo để chỉ thông qua vỏn vẹn năm điềutidanh. Điều đáng lưu ý rằng, các bên trongđồngtác kinh doanh theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam có thể là pháp nhân. Vậy tại sao Luật Doanh ngiệp năm 2005 cho rằng thành viên củatichỉ có thể là thể nhân? Có lẽ nhà làm luật ngĩ, thành viêncủatiphải chịu trách nhiệm vô hạn định đối với các khoản nợ củati nên buộc phải là cá nhân, vì xem điểm b, khoản 1, Điều 130 của Luật Doanh ngiệp năm 2005 có bóng dáng của những nhận thức như vậy. Chịu trách nhiệm vô hạn định có ngĩa là phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình hiện có hoặc sẽ có trong tương lai. Vậy cả thể nhân và pháp nhân đều phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với các khoản nợ của họ, chỉ có điều khác biệt là pháp nhân khi đã bị thanh lí hết tài sản thì có thể không tồn tại nữa, còn thể nhân thì vẫn có cơ hội để làm ăn, có ngĩa là có thể có tài sản trong tương lai. Câu chuyện này còn liên quan tới luật phá sản mà chúng ta sẽ có dịp đề cập tới. Ngày nay, cácti thường lựa chọn các hình thức đầu tư rất linh hoạt. Họ có thể sử dụng hình thứctiđể tạo ra các chi nhánh chung hoặc để kiểm soát hữu hiệu mộtti hoặc nhiềuti khác trong việc khai thác một cơ hội kinh doanh nào đó. Vậy tại sao Luật Doanh ngiệp năm 2005 lại hạn chế quyền tự do lựa chọn hình thức đầu tư của các thương nhân mà không có lí do chính đáng từ phíađồng? Để lí giải đầy đủ cho quan niệm thành viêncó thể là pháp nhân, chúng ta còn phải nắm được vị thế pháp lí của thành viêndanh.tivàti dân sự rất gần gũi nhau, nhưng không chuyển đổi được sang nhau. Các thành viên củatimặc nhiên được coi là có tư cách thương gia và liên đới chịu trách nhiệm với các khoản nợ củati. Cơ cấu tổ chức củatigọn nhẹ, do đó nó rất thizvới việc tổ chức các doanh ngiệp nhỏ. Hình thứcti này xuất hiện ngày càng jiều trong mối liên hệ giữa cácti để hình thành một chi nhánh chung giữa cácti, cácđoàn, làm cơ sở cho việc phân nhánh mới. Trong Giáo trình Luật kij tế,1: Luật doanh ngiệp, Tình huống – Phân tích – Bình luận của Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, có đoạn viết: “Luật sư thường được xem là cơ quan bổ trợlí, bởi vậy các hãng luật thường hoạt động dưới dạngchứ không phải cácti thương mại” (3). Đọc đoạn văn này ai đó băn khoăn: Phải chănghaytikhông phải làti thương mại? Có lẽ vẫn cấn cá ở việc xem dịch vụ pháp lí có phải là hành vi thương mại hay không và việc tổ chức dịch vụ pháp lí dưới hình thứcphải chăng là mộtđồng dân sự, nên sự ra đời của đoạn văn trên chỉ đề cập riêng tới cácti luật mà không nhằm nói tớitinói chung. Trong khi đó, từ trước tới nay ở đâu người ta cũng nóitilàti thương mại, là thương nhân bởi hình thức và nó được phân biệt vớiti dân sự. Trong các đặc điểm pháp lí củaticòn có một vấn đề phải bàn là:ticó tư cách pháp nhân hay không? Nhiều luật gia Việt Nam cho tới bây giờ vẫn chưa đồng tình với việc Luật Doanh ngiệp năm 2005 quan niệmticó tư cách pháp nhân. Rõ ràng,ticũng có tên gọi, trụ sở, quốc tịch, sản nghiệp, ý chí và trách nhiệm. Điều đó cho thấy không thể quan niệm nó là một cái gì đó khác hơn pháp nhân. Còn các thành viên của nó xétmặt pháp lí là những người bảo lãnh liên đới cho các hoạt động củati. Hoàn toàn có sự tách bạch giữa tài sản củati và tài sản của các thành viên, Từ định nghĩa trên có thể nhận thấy pháp luật Việt Nam ghi nhậnbao gồm cả hai loại:thông thường vàhữu hạn. Tuy nhiên, nếu pháp luật nhiều nước Đông Nam Á khác phân tách hai loại hìnhriêng biệt: thứ nhất làmang bản chất “tuyệt đối”- tứcthông thường, chỉ bao gồm một loại thành viên duy nhất là thành viênchịu trách nhiệm vô hạn đối với các nghĩa vụ củaty; thứ hai làmang bản chất “tương đối”- tứchữu hạn, ngoài thành viêncòn có loại thành viên góp vốn chịu trách nhiệm hữu hạn trong phạm vi vốn góp vàoty, thì ở Việt Nam cả hai loạinày đều được ghi nhận nhưng không có sự phân tách mà gộp chung dưới một tên gọi duy nhất là “danh”. Thật vậy, pháp luật Việt Nam quy địnhlà doanh nghiệp phải có ít nhất là hai thành viêndanh, ngoài các thành viêncòn có thể có thêm thành viên góp vốn. Nói như vậy có nghĩa làtheo pháp luật Việt Nam có thể chỉ có một loại thành viên duy nhất là thành viêndanh, và phải có số lượng ít nhất là hai thành viênmới được thành lậppháp. Đây chính là hình thứcthông thường mang bản chất “tuyệt đối” giống như quy định của pháp luật nhiều nước trên thế giới. Những điểm khác biệt ở đây là pháp luật Việt Nam đồng thời quy định “ ngoài các thành viêncó thể có thành viên góp vốn”, tức là đã ghi nhận loại hìnhhữu hạn hay chính làvốn đơn giản theo quy định của pháp luật các nước, và đây cũng là một loại hìnhđối nhân. Đối vớihữu hạn ở Việt Nam cũng phải đáp ứng điều kiện cần thiết đó là phải có ít nhất hai thành viênvà không quy định số lượng thành viên góp vốn, sự xuất hiện của chỉ một thành viên góp vốn cũng đủ làm cho bản chất củatrở thành “không tuyệt đối” Như vậy, nếu pháp luật các nước chỉ ghi nhận một loại hìnhhay có sự phân tách riêng biệt hai loại hình của nó, thì pháp luật Việt Nam đã đồng thời ghi nhận sự tồn tại của cả hai loại hìnhlà:thông thường vàhữu hạn và được gộp dưới một cái tên chung nhất đó là “danh”. Đó cũng chính là điểm khác biệt cơ bản của pháp luật Việt Nam so với pháp luật các nước trên thế giới cũng như trong khu vực Đông Nam Á. Nhưng nhìn chung, khái niệmtheo Luật Doanh nghiệp của Việt Nam có nội hàmđối nhân theo pháp luật các nước. Việc quy địnhdanh, Luật Doanh nghiệp đã ghi nhận sự tồn tại của cácđối nhân ở Việt Nam 2_ Thành viêndanh: Theo luật Doanh nghiệp Việt Nam 2005 quy địnhbao gồm hai loại thành viên: thành viênvà thành viên góp vốn. Vì vậy, tìm hiểu quy chế thành viên trongtức là phân tích hai loại thành viên này cùng những quyền và nghĩa vụ pháp lý cơ bản của nó. 2.1_ Thành viêndanh: Thành viênlà loại thành viên cơ bản trongdanh, là điều kiện cần thiết và tiên quyết cho sự ra đời củadanh. Đối với Việt Nam, muốn thành lậpphải có ít nhất là hai thành viêndanh. Điểm b Khoản 1 Điều 130 Luật Doanh nghiệp 2005 quy định: “ Thành viênphải là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mìnhcác nghĩa vụ củaty”. Theo đó, thành viêntrongở Việt Nam chỉ có thể là cá nhân, pháp luật không cho phép một pháp nhân, một tổ chức trở thành thành viêntrongdanh. Đối với một số trườngđặc biệt, nếuhoạt động trong những ngành nghề như dịch vụ pháp lý, khám chữa bệnh, dược phẩm, dịch vụ thú y, thuốc thú y, thiết kếtrình, kiểm toán, môi giới chứng khoán, .thì thành viêntrongđó phải có chứng chỉ hành nghề, trình độ chuyên môn hoặc bằng cấp, nghiệp vụ nhất định. Thành viênchịu chế độ trách nhiệm vô hạn và liên đới bằng toàn bộ tài sản của mình đối với các nghĩa vụ và khoản nợ củaty. Chủ nợ có quyền yêu cầu bất cứ thành viênnào thanh toán các khoản nợ củađối với chủ nợ. Mặt khác, các thành viênphải bằng toàn bộ tài sản của mình ( tài sản đầu tư vào kinh doanh và tài sản dân sự) chịu trách nhiệmcác nghĩa vụ củaty. Với một chế độ trách nhiệm vô hạn như vậy, Luật Doanh nghiệp đồng thời trao ch thành viênnhững quyền hạn chủ yếu trong việc điều hành và quản lýty. Nói cách khác, thành viêngiữ vai trò quyết định sự hình thành, phát triển và tồn tại củacả mặt pháp lý lẫn thực tế. Điều 134 Luật Doanh nghiệp 2005 đã quy định những quyền hạn và nghĩa vụ cơ bản của thành viêndanh. Cụ thể, thành viêntrongcó quyền từ việc điều hành, quản lýty, sử dụng tài sản củavào việc kinh doanh nhânđến những việc nội bộ khác của.Bên cạnh đó, thành viênphải có nghĩa vụ quản lýtheo đúng quy định của pháp luật, liên đới chịu trách nhiệm vô hạn đối với mọi khoản nợ của.Có thể thấy, Luật Doanh nghiệp đã trao cho thành viênquyền của một chủthực sự, đồng thời cũng áp dụng một chế độ trách nhiệm vô hạn mà loại thành viên này phải chịu khi thực hiện các hoạt động nhânty. Thành viênphải chịu trách nhiệmcác hoạt động củakể từ khi đăng ký vàosách thành viênty, bất kể thành viên đó có trực tiếp tham gia vào các hoạt động phát sinh trách nhiệm ấy hay không, trừ trườngthành viên đó và các thành viên còn lại có thoả thuận khác ( Khoản 3 Điều 139 Lụât Doanh nghiệp 2005). Ngay cả khi đã chấm dứt tư cách thành viênthì trong thời hạn hai năm, thành viênvẫn phải liên đới chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với các khoản nợ củađã phát sinh trước ngày chấm dứt tư cách thành viên ( Khoản 5 Điều 138 Luật Doanh nghiệp 2005). Xuất phát từ việc thành viênnắm giữ vai trò quan trọng trong việc thành lập và quản lýmà điều kiện để trở thành thành viêncũng chính là điều kiện được quy định tại Khoản 2 Điều 13 Luật Doanh nghiệp 2005, theo đó, các cá nhân sau đây không thể trở thành thành viêncủadanh: – Cán bộ,chức theo quy định của pháp luậtcán bộ,chức; – Sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp,nhân quốc phòng trong các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân Việt Nam; sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp trong các cơ quan, đơn vị thuộcan nhân dân Việt Nam; – Cán bộ lãnh đạo, quản lý nghiệp vụ trong các doanh nghiệp 100% vốn sở hữu nhà nước, trừ những người được cử làm đại diện theo uỷ quyền để quản lý phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp khác; – Người chưa thành niên; người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc bị mất năng lực hành vi dân sự; – Người đang chấp hành hình phạt tù hoặc đang bị Toà án cấm hành nghề kinh doanh; – Các trườngkhác theo quy định của pháp luậtphá sản. Cũng chính từ vai trò quan trọng và chế độ trách nhiệm vô hạn của thành viênmà Luật Doanh nghiệp 2005 ( Điều 133) đã có một số quy định hạn chế đối với quyền của thành viêndanh, đó là: – Thành viênkhông được làm chủ doanh nghiệp tư nhân hoặc làm thành viêncủakhác; trừ trườngđược sự nhất trí của các thành viêncòn lại. – Thành viênkhông được quyền nhâncá nhân hoặc nhânngười khác thực hiện kinh doanh cùng ngành, nghề kinh doanh củađó để tư lợi hoặc phục vụ lợi ích của tố chức, cá nhân khác. – Thành viênkhông được quyền chuyển một phần hoặc toàn bộ phần vốn góp của mình tạicho người khác nếu không được sự chấp thuận của các thành viêncòn lại. Việc pháp luật hạn chế quyền của thành viêncũng là một điều dễ hiểu bởi thành viêngiữ vai trò quyết định trong sự tồn tại và phát triển củadanh, hơn nữa tính đối nhân luôn gắn liền với loại thnhf viên này, do đó việc cho phép thành viênđược tự do chuyển nhượng vốn cũng như được tự do thoải mái trong hoạt động kinh doanh sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển củaty, đến trật tự của môi trường kinh doanh nói chung và làm méo mó bản chất đối nhân cơ bản củadanh. Để tạo sự linh hoạt cho các thành viêntrong hoạt động kinh doanh, pháp luật một số nước đã trao tư cách thương nhân cho loại thành viên này, có nghĩa là thành viêncó quyền hoạt động thương mại một cách độc lập, nhânchính bản thân mình hoặc nhândanh.vấn đề này, pháp luật Việt Nam không có quy định cụ thể, nhưng xét trên tinh thần chung của các văn bản hiện hành: Luật Thương mại Việt Nam 2005 quy định: “ Thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lậppháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng lý kinh doanh”. Đồng thời, theo Luật Doanh nghiệp Việt Nam thì thành viêncó quyền “ nhântiến hành các hoạt động kinh doanh các ngành nghề kinh doanh đã đăng ký” và “ không được quyền nhâncá nhân hoặc nhânngười khác thực hiện kinh doanh cùng ngành, nghề kinh doanh củađó để tư lợi hoặc phục vụ lợi ích của tổ chức, cá nhân khác” ( Theo Điều 134 và Điều 133 Luật Doanh nghiệp 2005). Theo đó, pháp luật Việt Nam ghi nhận cá nhân cũng có tư cách thương nhân nếu đáp ứng được điều kiện nhất định, tức là cá nhân đó có quyền nhânchính mình để hoạt động thương mại một cách độc lập. Nhưng đối với cá nhân là thành viêntrongthì không được nhân […]… thôi Đây tỏ ra là sự thiệt thòi củaso với các loại hìnhkhác đều được Luật Doanh nghiệp điều chỉnh Nhưng nếu xétbản chất đối nhân củathì điều này trở nênlý, ởyếu tố nhân thân luôn được coi trọng hàng đầu, việc thay đổi thành viênlà hết sức khó khăn và phức tạp, nếu cho phépphát hành và chào bán chứng khoán… 1999 đã khôngnhận tư cách pháp nhân củaĐến Luật Doanh nghiệp 2005 thìđã đượcnhận là một tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân Việcnhậncó tư cách pháp nhân nhằm tạo điều kiện bình đẳng chokhi tham gia vào trường kinh doanh cạnh tranh với các loại hình doanh nghiệp khác Cũng như tạo sựbằng chokhi mà… viên- Các trườngkhác do điều lệquy định Như vậy, có thể nhận thấy thành viênlà loại thành viên cơ bản của công ty hợp danh, là điều kiện tiên quyết cho sự ra đời củaty, nắm giữ vai trò quan trọng trong quản lý và điều hành mọiviệc củaty, đồng thời chịu chế độ trách nhiệm liên đới và vô hạn đối với mọi khoản nợ cũng như các nghĩa vụ củadanh. .. thành viêncủamặc dù không có mối quan hệ nhân thân nào cả, điều đó sẽ ảnh hưởng đến tính đối nhân- bản chất cơ bản của công ty hợp danh – một loại hìnhđối nhân Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa là công ty hợp danh không có khả năng huy động vốn Trong quá trình hoạt động, công ty hợp danh có thể tăng vốn Điều lệ bằng cách tăng vốn góp của các thành viên tronghoặc… kiện trên, ta thấy công ty hợp danh đáp ứng ba điều kiện đó là: được thành lậppháp, có cơ cấu tổ chức chặt chẽ và nhânmình thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh một cách độc lập Nhưng đối với điều kiệnsự độc lậptài sản củavà tính tự chịu trách nhiệm thìkhông đáp ứng đựơc, bởi lẽ trongtồn tại loại thành viênvới chế độ trách… thành viên này trongdanh, đồng thời ghi nhận sự tồn tại của hai hình thứcđó làthông thường( chỉ có các thành viêndanh) vàhữu hạn( có sự xuất hiện của thành viên góp vốn) Khác với thành viêndanh, thành viên góp vốn không nhất thiết phải là cá nhân Các tổ chức, pháp nhân cũng có thể trở thành thành viên góp vốn trongTheo Khoản… theo Điều lệ của4_ Tư cách pháp lý củaKhoản 2 Điều 130 Luật Doanh nghiệp 2005 quy định: “có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh” Việc Luật Doanh nghiệp 2005nhận tư cách pháp nhân củalà một điểm mới khác biệt so với Luật doanh nghiệp 1999 Luật Doanh nghiệp 1999 đã quy địnhkhông có… thuận của các thành viêncòn lại, và họ không được quyền nhâncá nhân hoặc nhânngười khác thực hiện kinh doanh cùng ngành, nghề củaNhư vậy, Luật Doanh nghiệp 2005 đã quy định khá cụ thểquy chế thành viên củaTheo đó,bao gồm hai loại thành viên: thành viênnắm vai trò quản lý và điều hành trongty, chịu trách nhiệm vô hạn… các loại hìnhty, dù mang bản chất đối vốn hay đối nhân thì vốn vẫn luôn có tầm quan trọng nhất định 3.1_việc góp vốn vàoty:là loại hìnhmang bản chất đối nhân, yếu tố được quan tâm hàng đầu là nhân thân của các thành viên trongchứ không phải là vốn Điều đó thể hiện sự khác biệt so với các loại hìnhđối vốn nhưcổ phần,trách nhiệm… lệkhông có quy định khác) Vai trò của người đứng đầucũng có sự khác biệt so với vị trí, vai trò của người đứng đầutrách nhiệm hữu hạn,cổ phần Nếu Chủ tịch, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc củatrách nhiệm hữu hạn,cổ phần có một vị trí quan trọng so với các thành viên khác trongty, có quyền thực hiện nhữngviệc kinh doanh của. tách hai loại hình công ty hợp danh riêng biệt: thứ nhất là công ty hợp danh mang bản chất “ hợp danh tuyệt đối”- tức công ty hợp danh thông thường, chỉ. hợp danh chịu trách nhiệm vô hạn đối với các nghĩa vụ của công ty; thứ hai là công ty hợp danh mang bản chất “ hợp danh tương đối”- tức công ty hợp danh

Source: https://vh2.com.vn
Category : Doanh Nghiệp