Đồ họa của Tech Insider cho thấy những lục địa sẽ hợp nhất thành một dải đất duy nhất trong vòng 250 triệu năm tới . Bạn đang đọc: Các...
Bài thuyết minh chuyên đề CỒNG CHIÊNG TÂY NGUYÊN – Tài liệu text
Bài thuyết minh chuyên đề CỒNG CHIÊNG TÂY NGUYÊN
Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (349.49 KB, 7 trang )
CHUYÊN ĐỀ
KHÔNG GIAN VĂN HÓA CỒNG CHIÊNG TÂY NGUYÊN
Nói về Tây Nguyên, chúng ta chợt nghĩ đến một vùng đất đỏ badan rực lên
màu lửa với những vườn cà phê trĩu quả, những cánh rừng bạt ngàn màu xanh, là
quê hương của nhà rông hùng vĩ, là mảnh đất của những ché rượu cần với những lễ
hội mang màu sắc Tây nguyên hoang dã nhưng cũng rất đỗi thanh bình hay đó là
những thiên sử thi hùng tráng. Thế nhưng trong chiều sâu văn hóa, chúng ta như
lắng nghe được tiềng trầm bổng hào hùng từ ngàn xưa vọng lại của những chiếc
cồng chiếc chiêng, mà ta gọi đó là Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên.
Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên trải rộng suốt 5 tỉnh Kon
Tum, Gia Lai, Đăk Lăk, Đăk Nông, Lâm Đồng và chủ nhân của loại hình văn hóa
đặc sắc này là cư dân các dân tộc Tây Nguyên: Bana, Xêđăng, Mnông, Cơho,
Rơmăm, Êđê, Giarai Cồng chiêng gắn bó mật thiết với cuộc sống của người Tây
Nguyên, là tiếng nói của tâm linh, tâm hồn con người, để diễn tả niềm vui, nỗi
buồn trong cuộc sống, trong lao động và sinh hoạt hàng ngày của họ.
Cồng chiêng là loại nhạc khí bằng hợp kim đồng, có khi pha vàng, bạc hoặc
đồng đen. Cồng là loại có núm, chiêng không núm. Nhạc cụ này có nhiều cỡ,
đường kính từ 20cm đến 60cm, loại cực đại từ 90cm đến 120cm. Cồng chiêng có
thể được dùng đơn lẻ hoặc dùng theo dàn, bộ từ 2 đến 12 hoặc 13 chiếc, thậm chí
có nơi từ 18 đến 20 chiếc.
Cồng chiêng Tây Nguyên là loại nhạc cụ độc đáo, đặc sắc và đa dạng.Các
dàn cồng chiêng Tây Nguyên lấy thang bồi âm tự nhiên làm cơ sở để thiết lập
thang âm của riêng mình.Trong đó, mỗi biên chế của từng tộc người đều cấu tạo
bởi thang 3 âm, 5 âm hay 6 âm cơ bản.Song, cồng chiêng vốn là nhạc cụ đa âm,
bên cạnh âm cơ bản bao giờ cũng vang kèm một vài âm phụ khác. Thành thử trên
thực tế, một dàn 6 chiêng sẽ cho ta tối thiểu 12 âm hay nhiều hơn nữa. Điều đó lý
giải tại sao âm sắc cồng chiêng nghe thật đầy đặn và có chiều sâu.
Cồng chiêng Tây Nguyên có nguồn gốc từ truyền thống văn hóa và lịch sử
rất lâu đời.Về cội nguồn, có nhà nghiên cứu cho rằng, cồng chiêng là “hậu duệ”
của đàn đá.trước khi có văn hóa đồng, người xưa đã tìm đến loại khí cụ đá: cồng
đá, chiêng đá tre, rồi tới thời đại đồ đồng, mới có chiêng đồng Từ thuở sơ khai,
cồng chiêng được đánh lên để mừng lúa mới, xuống đồng; biểu hiện của tín
ngưỡng – là phương tiện giao tiếp với siêu nhiên âm thanh khi ngân nga sâu lắng,
khi thôi thúc trầm hùng, hòa quyện với tiếng suối, tiếng gió và với tiếng lòng
người, sống mãi cùng với đất trời và con người Tây Nguyên. Tất cả các lễ hội
trong năm, từ lễ thổi tai cho trẻ sơ sinh đến lễ bỏ mả, lễ cúng máng nước, lễ mừng
cơm mới, lễ đóng cửa kho, lễ đâm trâu. hay trong một buổi nghe khan đều phải
có tiếng cồng. Tiếng chiêng dài hơn đời người, tiếng chiêng nối liền, kết dính
những thế hệ.
Theo quan niệm của người Tây Nguyên, đằng sau mỗi chiếc cồng, chiêng
đều ẩn chứa một vị thần.Cồng chiêng càng cổ thì quyền lực của vị thần càng
cao.Cồng chiêng còn là tài sản quý giá, biểu tượng cho quyền lực và sự giàu có. Đã
có thời một chiếc chiêng giá trị bằng hai con voi hoặc 20 con trâu. Vào những ngày
hội, hình ảnh những vòng người nhảy múa quanh ngọn lửa thiêng, bên những vò
rượu cần trong tiếng cồng chiêng vang vọng núi rừng, tạo cho Tây Nguyên một
không gian lãng mạn và huyền ảo. Cồng chiêng do vậy góp phần tạo nên những sử
thi, những áng thơ ca đậm chất văn hóa Tây Nguyên vừa lãng mạn, vừa hùng
tráng.
Cồng chiêng đã đi vào sử thi Tây Nguyên như để khẳng định tính trường tồn
của loại nhạc cụ này: “Hãy đánh những chiêng âm thanh nhất, những chiêng kêu
trầm nhất. Đánh nhè nhẹ cho gió đưa xuống đất.Đánh cho tiếng chiêng vang xa
khắp xứ. Đánh cho tiếng chiêng luồn qua sàn lan đi xa. Đánh cho tiếng chiêng
vượt qua nhà vọng lên trời.Đánh cho khỉ trên cây cũng quên bám chặt vào cành
đến phải ngã xuống đất. Đánh cho ma quỷ mê mải nghe đến quên làm hại con
người. Đánh cho chuột sóc quên đào hang, cho rắn nằm ngay đơ, cho thỏ phải
giật mình, cho hươu nai đứng nghe quên ăn cỏ, cho tất cả chỉ còn lắng nghe tiếng
chiêng của Đam San ”.
Trên cơ sở đó, cồng chiêng Tây Nguyên ẩn chứa nhiều giá trị sâu sắc, có thể
coi là hình ảnh đại diện cho một vùng đất anh hùng, là biểu trưng cho cộng đồng
các dân tộc Tây Nguyên và là một màu sắc độc đáo trong bức tranh văn hóa Việt
Nam đa đạng, đậm dà bản sắc. Giá trị của Cồng chiêng Tây Nguyên thể hiện qua
bản chất nghệ thuật mà nó mang lại.
Cồng chiêng không do cư dân Tây Nguyên tự đúc ra mà xuất phát từ một
sản phẩm hàng hoá (mua từ các nơi khác về) được nghệ nhân chỉnh sửa thành một
nhạc cụ. Phương pháp chỉnh sửa chiêng cộng với tai âm nhạc nhạy cảm của nghệ
nhân sửa chiêng đã thể hiện trình độ thẩm âm tinh tế và hiểu biết cặn kẽ về chế độ
rung và lan truyền âm thanh trên mặt chiêng và trong không gian. Có hai phương
pháp chỉnh sửa mà người nghệ nhân ở Tây Nguyên sử dụng: Gõ, gò theo hình vảy
tê tê và theo hình lượn sóng. Do vậy, kỹ thuật gõ, gò theo đường tròn trên những
điểm khác nhau quanh tâm điểm của từng chiếc chiêng là một phát hiện vật lý
đúng đắn, khoa học (mặc dù trình độ phát triển xã hội của người Tây Nguyên thuở
xưa chưa biết đến vật lý học). Đây là sáng tạo lớn của cư dân các dân tộc ít người
Tây Nguyên.
Để đáp ứng các yêu cầu thể hiện bằng âm nhạc khác nhau, các tộc người Tây
Nguyên đã lựa chọn nhiều biên chế dàn cồng chiêng khác nhau:
Dàn chiêng có 2 hay 3 chiếc: Biên chế này tuy nhỏ nhưng theo quan niệm
của nhiều tộc người Tây Nguyên, đây là biên chế cổ xưa nhất. Dàn 2 chiêng bằng
gọi là chiêng Tha, của người Brâu; dàn 3 cồng núm của người Churu, Bana, Giarai,
Gié-Triêng cũng thuộc loại này
Dàn chiêng có 6 chiêng phổ biến ở nhiều tộc người: Dàn 6 chiêng bằng của
người Mạ; dàn Stang của người Xơđăng; dàn chiêng của các nhóm Gar, Noong,
Prơng thuộc dân tộc Mnông; dàn chiêng Diek của nhóm Kpạ người Êđê. Cũng có
dàn gồm 6 cồng núm như nhóm Bih thuộc dân tộc Êđê. Dàn chiêng 6 chiếc có thể
đảm trách nhịp điệu như dàn cồng núm của nhóm Bih thuộc dân tộc Êđê, dàn Diek
của nhóm Kpạ dân tộc Êđê, dàn chiêng của nhóm Noong dân tộc Mnông.
Dàn chiêng 11 hoặc 12 chiếc gồm 3 cồng núm và 8-9 chiếc chiêng bằng của
các tộc người Giarai (ngành Aráp), Bana (ngành TồLồ, Kon K’Đeh), người
Xơđăng (ngành Steng).
Các dàn chiêng có biên chế 3 chiêng trở lên thường có chiếc trống lớn và
cặp chũm choẹ.Riêng dàn 3 cồng núm của người Churu thì phải có chiếc khèn 6
âm phối hợp.
Ở nhiều tộc người như Churu, Xơđăng, Mnông và đặc biệt tộc người Giarai,
Bana, phụ nữ (nhất là các cô gái trẻ) làm thành một dàn múa đồng hành với bản
nhạc chiêng.Điều đáng nói là các điệu múa này được coi là thành tố không thể
thiếu của việc diễn tấu các bài cồng chiêng (không được dùng bên ngoài diễn tấu
cồng chiêng hoặc trình diễn giải trí).
Cồng chiêng là một nhạc cụ nghi lễ, các bài nhạc cồng chiêng trước hết là sự
đáp ứng cho yêu cầu của mỗi lễ thức và được coi như một thành tố hữu cơ của lễ
thức đó.Như thế, mỗi nghi lễ có ít nhất một bài nhạc chiêng riêng. Trong mỗi nghi
lễ, lại có thể có nhiều công đoạn có nhạc chiêng riêng:
Người ngành Aráp dân tộc Giarai ở vùng Ea H’Leo tỉnh
Đắc Lắc có các bài nhạc chiêng cho các lễ đâm trâu, khóc
người chết trong tang lễ, mừng nhà rông mới, mừng chiến thắng, lễ xuống giống, lễ
cầu an cho lúa, mùa gặt Ngoài ra, còn có những bài chiêng dùng cho các sinh
hoạt cộng đồng như: Lễ thổi tai cho trẻ sơ sinh, mừng nhà mới, chúc sức khoẻ
Các bài chiêng cũng đạt đến một trình độ biểu cảm âm nhạc phù hợp với
trạng thái tình cảm của con người trong mỗi nghi lễ: Chiêng tang lễ hay bỏ mả thì
chậm rãi, man mác buồn; chiêng mùa gặt thì thánh thót, vui tươi; chiêng đâm trâu
thì nhịp điệu giục giã
Nếu chỉ là cồng chiêng thì đơn thuần nó chỉ là một nhạc cụ nhưng để hiểu,
để cảm và để chứng minh cho một lịch sử hào hùng, chúng ta cần phải đặt cồng
chiêng trong không gian của văn hóa với những giá trị sâu sắc.
Thứ nhất, văn hoá cồng chiêng Tây Nguyên bắt rễ từ truyền thống văn
hoá và truyền thống lịch sử của cộng đồng có liên quan
Từ cơ tầng văn hoá Đông Nam Á thời tiền sử, vào khoảng cuối nửa đầu
thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên, trên đất nước Việt Nam ngày nay đã
hình thành và phát triển 3 trung tâm văn hoá lớn thuộc thời đại đồ đồng (Bronze
Age): Văn hoá Đông Sơn ở miền Bắc; văn hoá Sa Huỳnh ở miền Trung; văn hoá
Đồng Nai ở Nam Bộ. Các cộng đồng dân cư của 3 trung tâm này có những mối
giao lưu văn hóa thường xuyên và nhiều chiều với nhau. Cả 3 trung tâm đều có kỹ
nghệ đúc đồng đặc biệt phát triển, sáng tạo nên những công cụ, vũ khí, đồ trang
sức, đặc biệt là các loại nhạc cụ bằng đồng rất độc đáo. Các hiện vật khảo cổ của
văn hoá Đông Sơn như trống đồng, cây đèn Lạch Trường có những hình chạm
khắc cách chơi các loại nhạc cụ đó.
Khu vực Tây Nguyên hiện nay nằm trong các tuyến văn hoá truyền thống
giao thoa và phát triển của 3 trung tâm đó, đồng thời cũng nằm trong bối cảnh
chung của khu vực Đông Nam Á. Các nhà khảo cổ đã tìm thấy di chỉ khảo cổ
Lung Leng (tỉnh Kon Tum), cũng như ở các di chỉ khảo cổ khác tại Tây Nguyên
nhiều hiện vật đồ đồng, đồ sắt, nhất là khuôn đúc rìu đồng (Nguyễn Khắc Sử,
Thông báo khảo cổ học, 2004). Điều đó có nghĩa là, cư dân cổ xưa ở Tây Nguyên
đã từng có một kỹ nghệ đúc đồng, một nền văn hoá thời kim khí.
Điều đáng nói là tất cả các nhạc cụ trên, nhất là cồng chiêng, đều tiếp tục
được sử dụng và tồn tại đến ngày nay như một thành tố hữu cơ trong nền âm nhạc
của các dân tộc Việt Nam, dù là họ sinh sống ở phía Bắc hay ở duyên hải miền
Trung.
Thứ 2, cồng chiêng đóng vai trò là phương tiện khẳng định cộng đồng và
bản sắc văn hoá dân tộc của cộng đồng các dân tộc ít người ở Tây Nguyên
Di sản văn hoá của các thế hệ tộc người ở Tây Nguyên gồm: Kho tàng ngữ
văn dân gian, nghệ thuật điêu khắc dân gian, tri thức dân gian, nhưng nổi trội nhất
là sử thi và cồng chiêng. Người dân nơi đây có cồng chiêng để ứng xử với thiên
nhiên, cầu xin, giãi bày với thần linh, tổ tiên, đối thoại với cộng đồng và với chính
mình.Khó có nhạc khí nào, sinh hoạt văn hoá nào lại có nhiều vai trò đến vậy.Với
các dân tộc ít người ở Tây Nguyên, phương tiện để khẳng định cộng đồng và bản
sắc cộng đồng là cồng chiêng và văn hoá cồng chiêng.
Mỗi dân tộc ở Tây Nguyên có một cách tổ chức dàn cồng chiêng khác nhau,
cách chơi cũng khác nhau. Có ít nhất 3 phong cách âm nhạc lớn của cồng chiêng
Tây Nguyên: Cồng chiêng Êđê nhịp điệu phức hợp, tốc độ nhanh, cường độ lớn;
cồng chiêng Mnông cường độ không lớn mặc dù tốc độ khá nhanh; cồng chiêng
Bana – Giarai thiên về tính chất chủ điệu (một bè trầm của cồng có núm vang lên
âm sắc vững chãi, hùng tráng, một bè giai điệu thánh thót của chiêng không có
núm với âm sắc đanh gọn, lảnh lót).
Bản sắc văn hoá các dân tộc ít người Tây Nguyên thể hiện đậm đà nhất
trong cồng chiêng và sinh hoạt văn hoá cồng chiêng. Tín ngưỡng, lễ hội, nghệ
thuật tạo hình, múa dân gian và ẩm thực dân gian đều thể hiện, gắn bó mật thiết
với cồng chiêng (các tượng tròn ở nhà mồ của các dân tộc Tây Nguyên chỉ trở nên
đẹp hơn với ngày lễ bỏ mả trong một không gian huyền ảo đầy những tiếng cồng
chiêng sâu lắng).
Với các dân tộc Tây Nguyên, phương tiện để nối kết cộng đồng cũng lại là
cồng chiêng.Tiếng cồng chiêng vang lên để nối kết cá thể với cộng đồng, giữa
cộng đồng này với cộng đồng khác của cùng một dân tộc. Điều đáng lưu ý là Tây
Nguyên có nhiều dân tộc, nhưng các dân tộc luôn hoà hợp lẫn nhau trong văn hoá
cồng chiêng mà vẫn giữ được bản sắc văn hoá của dân tộc mình, không có hiện
tượng loại trừ hay đồng hoá văn hoá của nhau trong sinh hoạt văn hoá cồng
chiêng. Các dân tộc đều có thể đến với nhau khi sinh hoạt văn hoá cồng chiêng.
Tiếng cồng chiêng luôn đem đến một cảm xúc rạo rực khó tả trong mỗi con
người, như sự đồng thanh tương ứng khiến họ tìm đến với nhau.
Thứ 3, cư dân các dân tộc ít người ở Tây Nguyên đã đạt đến những hiểu
biết sâu và có các kỹ thuật điêu luyện trong việc sử dụng cồng chiêng trong văn
hoá và âm nhạc của mình
Điều này thể hiện ở việc chỉnh âm chiêng mua về với tư cách là một hàng
hoá để nó trở thành một nhạc cụ trong dàn cồng chiêng của dân tộc; thể hiện ở
việc lựa chọn các biên chế dàn chiêng, ở việc quy định giới tính, tư thế và kỹ xảo
diễn tấu. Ngoài ra, họ còn sáng tác nhiều bản nhạc chiêng cho những công dụng
khác nhau.
Thứ 4, cồng chiêng Tây Nguyên có giá trị như một bằng chứng độc đáo
của đặc trưng truyền thống văn hoá
Cồng chiêng có mặt trong nền văn hoá của nhiều nước trên thế giới (nhất là
châu Á). Tuy nhiên, dạng cồng chiêng được tổ chức thành dàn để diễn tấu độc lập
hoặc kết hợp với các nhạc cụ khác thì chủ yếu thấy ở các nước Đông Nam Á. Ở
Việt Nam, hầu như tất cả các tộc người đều sử dụng cồng chiêng. Nhưng các dân
tộc thường chỉ dùng 1-2 cồng phối hợp với một trống dùng trong nghi lễ hoặc giữ
nhịp cho múa.Người Mường ở các tỉnh miền núi phía Bắc có dàn cồng sắc bùa,
bao gồm một biên chế 8-12 chiếc cồng núm.Biên chế chiêng thành dàn là đặc
trưng trong văn hoá của các tộc người Tây Nguyên.
Các dàn cồng chiêng Tây Nguyên có nhiều điểm tương đồng với cồng
chiêng Đông Nam Á. Tuy vậy, nó có những nét khác biệt: Văn hoá và âm nhạc
cồng chiêng Tây Nguyên là văn hoá và âm nhạc dân gian. Nó là sở hữu cộng
đồng, là chuẩn mực văn hoá cho thành viên cộng đồng thực hiện.Ở những tộc
người mà cồng chiêng dành riêng cho nam giới thì mọi chàng trai tộc người đó
phải biết đánh chiêng. Ở những tộc người, nơi cồng chiêng do nữ giới đảm nhiệm
thì mọi cô gái phải biết thực hiện nhiệm vụ này (ở nhóm Noong dân tộc Mnông
thì đó là nhiệm vụ của cả nam lẫn nữ). Là sở hữu của cộng đồng, cồng chiêng Tây
Nguyên có vai trò như một biểu tượng cho năng lực sáng tạo văn hoá, âm nhạc
của người dân trong không gian văn hoá Tây Nguyên. Cho đến nay, cồng chiêng
và sinh hoạt văn hoá gắn bó với cồng chiêng vẫn tồn tại trong từng gia đình, p’lei,
bon, buôn. Trong khi ở một số nước Đông Nam Á, cồng chiêng hầu như đã trở
thành hoạt động âm nhạc có tính chuyên nghiệp như các dàn Gamelan của
Inđônêxia, dàn Khong wong trong Mahori của Thái Lan, trong Pin Peat của
Campuchia. Đặc điểm này cho thấy cồng chiêng Tây Nguyên có thể còn lưu giữ
nhiều yếu tố cổ xưa hơn.
Trước những giá trị vô cùng độc đáo, “Không gian văn hóa cồng chiêng Tây
nguyên” đã vượt qua khỏi biên giới quốc gia trở thành tài sản của nhân loại. Ngày
25/11/2005, 1 ngày đáng nhớ trong lịch sử văn hóa nước nhà, Không gian văn hóa
cồng chiêng Tây nguyên đã được UNESCO công nhận là Kiệt tác phi vật thể và
truyền khẩu của nhân loại.
cồng chiêng được đánh lên để mừng lúa mới, xuống đồng ; bộc lộ của tínngưỡng – là phương tiện đi lại tiếp xúc với siêu nhiên âm thanh khi ngân nga sâu lắng, khi thôi thúc trầm hùng, hòa quyện với tiếng suối, tiếng gió và với tiếng lòngngười, sống mãi cùng với đất trời và con người Tây Nguyên. Tất cả những lễ hộitrong năm, từ lễ thổi tai cho trẻ sơ sinh đến lễ bỏ mả, lễ cúng máng nước, lễ mừngcơm mới, lễ đóng cửa kho, lễ đâm trâu. hay trong một buổi nghe khan đều phảicó tiếng cồng. Tiếng chiêng dài hơn đời người, tiếng chiêng nối tiếp, kết dínhnhững thế hệ. Theo ý niệm của người Tây Nguyên, đằng sau mỗi chiếc cồng, chiêngđều chứa đựng một vị thần. Cồng chiêng càng cổ thì quyền lực tối cao của vị thần càngcao. Cồng chiêng còn là gia tài quý giá, hình tượng cho quyền lực tối cao và sự giàu sang. Đãcó thời một chiếc chiêng giá trị bằng hai con voi hoặc 20 con trâu. Vào những ngàyhội, hình ảnh những vòng người nhảy múa quanh ngọn lửa thiêng, bên những vòrượu cần trong tiếng cồng chiêng vang vọng núi rừng, tạo cho Tây Nguyên mộtkhông gian lãng mạn và huyền ảo. Cồng chiêng do vậy góp thêm phần tạo nên những sửthi, những áng thơ ca đậm chất văn hóa Tây Nguyên vừa lãng mạn, vừa hùngtráng. Cồng chiêng đã đi vào sử thi Tây Nguyên như để khẳng định tính trường tồncủa loại nhạc cụ này : “ Hãy đánh những chiêng âm thanh nhất, những chiêng kêutrầm nhất. Đánh nhè nhẹ cho gió đưa xuống đất. Đánh cho tiếng chiêng vang xakhắp xứ. Đánh cho tiếng chiêng luồn qua sàn lan đi xa. Đánh cho tiếng chiêngvượt qua nhà vọng lên trời. Đánh cho khỉ trên cây cũng quên bám chặt vào cànhđến phải ngã xuống đất. Đánh cho ma quỷ mê mải nghe đến quên làm hại conngười. Đánh cho chuột sóc quên đào hang, cho rắn nằm ngay đơ, cho thỏ phảigiật mình, cho hươu nai đứng nghe quên ăn cỏ, cho toàn bộ chỉ còn lắng nghe tiếngchiêng của Đam San ”. Trên cơ sở đó, cồng chiêng Tây Nguyên chứa đựng nhiều giá trị thâm thúy, có thểcoi là hình ảnh đại diện thay mặt cho một vùng đất anh hùng, là biểu trưng cho cộng đồngcác dân tộc bản địa Tây Nguyên và là một sắc tố độc lạ trong bức tranh văn hóa ViệtNam đa đạng, đậm dà truyền thống. Giá trị của Cồng chiêng Tây Nguyên bộc lộ quabản chất thẩm mỹ và nghệ thuật mà nó mang lại. Cồng chiêng không do dân cư Tây Nguyên tự đúc ra mà xuất phát từ mộtsản phẩm hàng hoá ( mua từ những nơi khác về ) được nghệ nhân chỉnh sửa thành mộtnhạc cụ. Phương pháp chỉnh sửa chiêng cộng với tai âm nhạc nhạy cảm của nghệnhân sửa chiêng đã bộc lộ trình độ thẩm âm tinh xảo và hiểu biết cặn kẽ về chế độrung và Viral âm thanh trên mặt chiêng và trong không gian. Có hai phươngpháp chỉnh sửa mà người nghệ nhân ở Tây Nguyên sử dụng : Gõ, gò theo hình vảytê tê và theo hình lượn sóng. Do vậy, kỹ thuật gõ, gò theo đường tròn trên nhữngđiểm khác nhau quanh điểm trung tâm của từng chiếc chiêng là một phát hiện vật lýđúng đắn, khoa học ( mặc dầu trình độ tăng trưởng xã hội của người Tây Nguyên thuởxưa chưa biết đến vật lý học ). Đây là phát minh sáng tạo lớn của dân cư những dân tộc bản địa ít ngườiTây Nguyên. Để cung ứng những nhu yếu bộc lộ bằng âm nhạc khác nhau, những tộc người TâyNguyên đã lựa chọn nhiều biên chế dàn cồng chiêng khác nhau : Dàn chiêng có 2 hay 3 chiếc : Biên chế này tuy nhỏ nhưng theo quan niệmcủa nhiều tộc người Tây Nguyên, đây là biên chế cổ xưa nhất. Dàn 2 chiêng bằnggọi là chiêng Tha, của người Brâu ; dàn 3 cồng núm của người Churu, Bana, Giarai, Gié-Triêng cũng thuộc loại nàyDàn chiêng có 6 chiêng thông dụng ở nhiều tộc người : Dàn 6 chiêng bằng củangười Mạ ; dàn Stang của người Xơđăng ; dàn chiêng của những nhóm Gar, Noong, Prơng thuộc dân tộc bản địa Mnông ; dàn chiêng Diek của nhóm Kpạ người Êđê. Cũng códàn gồm 6 cồng núm như nhóm Bih thuộc dân tộc bản địa Êđê. Dàn chiêng 6 chiếc có thểđảm trách nhịp điệu như dàn cồng núm của nhóm Bih thuộc dân tộc bản địa Êđê, dàn Diekcủa nhóm Kpạ dân tộc bản địa Êđê, dàn chiêng của nhóm Noong dân tộc bản địa Mnông. Dàn chiêng 11 hoặc 12 chiếc gồm 3 cồng núm và 8-9 chiếc chiêng bằng củacác tộc người Giarai ( ngành Aráp ), Bana ( ngành TồLồ, Kon K’Đeh ), ngườiXơđăng ( ngành Steng ). Các dàn chiêng có biên chế 3 chiêng trở lên thường có chiếc trống lớn vàcặp chũm choẹ. Riêng dàn 3 cồng núm của người Churu thì phải có chiếc khèn 6 âm phối hợp. Ở nhiều tộc người như Churu, Xơđăng, Mnông và đặc biệt quan trọng tộc người Giarai, Bana, phụ nữ ( nhất là những cô gái trẻ ) làm thành một dàn múa sát cánh với bảnnhạc chiêng. Điều đáng nói là những điệu múa này được coi là thành tố không thểthiếu của việc diễn tấu những bài cồng chiêng ( không được dùng bên ngoài diễn tấucồng chiêng hoặc trình diễn vui chơi ). Cồng chiêng là một nhạc cụ nghi lễ, những bài nhạc cồng chiêng trước hết là sựđáp ứng cho nhu yếu của mỗi lễ thức và được coi như một thành tố hữu cơ của lễthức đó. Như thế, mỗi nghi lễ có tối thiểu một bài nhạc chiêng riêng. Trong mỗi nghilễ, lại hoàn toàn có thể có nhiều quy trình có nhạc chiêng riêng : Người ngành Aráp dân tộc bản địa Giarai ở vùng Ea H’Leo tỉnhĐắc Lắc có những bài nhạc chiêng cho những lễ đâm trâu, khócngười chết trong tang lễ, mừng nhà rông mới, mừng thắng lợi, lễ xuống giống, lễcầu an cho lúa, mùa gặt Ngoài ra, còn có những bài chiêng dùng cho những sinhhoạt hội đồng như : Lễ thổi tai cho trẻ sơ sinh, mừng nhà mới, chúc sức khoẻCác bài chiêng cũng đạt đến một trình độ biểu cảm âm nhạc tương thích vớitrạng thái tình cảm của con người trong mỗi nghi lễ : Chiêng tang lễ hay bỏ mả thìchậm rãi, man mác buồn ; chiêng mùa gặt thì thánh thót, vui vẻ ; chiêng đâm trâuthì nhịp điệu giục giãNếu chỉ là cồng chiêng thì đơn thuần nó chỉ là một nhạc cụ nhưng để hiểu, để cảm và để chứng tỏ cho một lịch sử vẻ vang hào hùng, tất cả chúng ta cần phải đặt cồngchiêng trong không gian của văn hóa với những giá trị thâm thúy. Thứ nhất, văn hoá cồng chiêng Tây Nguyên bắt rễ từ truyền thống cuội nguồn vănhoá và truyền thống lịch sử lịch sử dân tộc của hội đồng có liên quanTừ cơ tầng văn hoá Khu vực Đông Nam Á thời tiền sử, vào khoảng chừng cuối nửa đầuthiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên, trên quốc gia Nước Ta thời nay đãhình thành và tăng trưởng 3 TT văn hoá lớn thuộc thời đại đồ đồng ( BronzeAge ) : Văn hoá Đông Sơn ở miền Bắc ; văn hoá Sa Huỳnh ở miền Trung ; văn hoáĐồng Nai ở Nam Bộ. Các hội đồng dân cư của 3 TT này có những mốigiao lưu văn hóa tiếp tục và nhiều chiều với nhau. Cả 3 TT đều có kỹnghệ đúc đồng đặc biệt quan trọng tăng trưởng, phát minh sáng tạo nên những công cụ, vũ khí, đồ trangsức, đặc biệt quan trọng là những loại nhạc cụ bằng đồng rất độc lạ. Các hiện vật khảo cổ củavăn hoá Đông Sơn như trống đồng, cây đèn Lạch Trường có những hình chạmkhắc cách chơi những loại nhạc cụ đó. Khu vực Tây Nguyên lúc bấy giờ nằm trong những tuyến văn hoá truyền thốnggiao thoa và tăng trưởng của 3 TT đó, đồng thời cũng nằm trong bối cảnhchung của khu vực Khu vực Đông Nam Á. Các nhà khảo cổ đã tìm thấy di chỉ khảo cổLung Leng ( tỉnh Kon Tum ), cũng như ở những di chỉ khảo cổ khác tại Tây Nguyênnhiều hiện vật đồ đồng, đồ sắt, nhất là khuôn đúc rìu đồng ( Nguyễn Khắc Sử, Thông báo khảo cổ học, 2004 ). Điều đó có nghĩa là, dân cư cổ xưa ở Tây Nguyênđã từng có một kỹ nghệ đúc đồng, một nền văn hoá thời kim khí. Điều đáng nói là tổng thể những nhạc cụ trên, nhất là cồng chiêng, đều tiếp tụcđược sử dụng và sống sót đến thời nay như một thành tố hữu cơ trong nền âm nhạccủa những dân tộc bản địa Nước Ta, dù là họ sinh sống ở phía Bắc hay ở duyên hải miềnTrung. Thứ 2, cồng chiêng đóng vai trò là phương tiện đi lại chứng minh và khẳng định hội đồng vàbản sắc văn hoá dân tộc bản địa của hội đồng những dân tộc bản địa ít người ở Tây NguyênDi sản văn hoá của những thế hệ tộc người ở Tây Nguyên gồm : Kho tàng ngữvăn dân gian, thẩm mỹ và nghệ thuật điêu khắc dân gian, tri thức dân gian, nhưng nổi trội nhấtlà sử thi và cồng chiêng. Người dân nơi đây có cồng chiêng để ứng xử với thiênnhiên, cầu xin, giãi bày với thần linh, tổ tiên, đối thoại với hội đồng và với chínhmình. Khó có nhạc khí nào, hoạt động và sinh hoạt văn hoá nào lại có nhiều vai trò đến vậy. Vớicác dân tộc bản địa ít người ở Tây Nguyên, phương tiện đi lại để chứng minh và khẳng định hội đồng và bảnsắc hội đồng là cồng chiêng và văn hoá cồng chiêng. Mỗi dân tộc bản địa ở Tây Nguyên có một cách tổ chức triển khai dàn cồng chiêng khác nhau, cách chơi cũng khác nhau. Có tối thiểu 3 phong thái âm nhạc lớn của cồng chiêngTây Nguyên : Cồng chiêng Êđê nhịp điệu phức tạp, vận tốc nhanh, cường độ lớn ; cồng chiêng Mnông cường độ không lớn mặc dầu vận tốc khá nhanh ; cồng chiêngBana – Giarai thiên về đặc thù chủ điệu ( một bè trầm của cồng có núm vang lênâm sắc vững chãi, hùng tráng, một bè giai điệu thánh thót của chiêng không cónúm với âm sắc đanh gọn, lảnh lót ). Bản sắc văn hoá những dân tộc bản địa ít người Tây Nguyên bộc lộ đậm đà nhấttrong cồng chiêng và hoạt động và sinh hoạt văn hoá cồng chiêng. Tín ngưỡng, tiệc tùng, nghệthuật tạo hình, múa dân gian và ẩm thực dân gian đều bộc lộ, gắn bó mật thiếtvới cồng chiêng ( những tượng tròn ở nhà mồ của những dân tộc bản địa Tây Nguyên chỉ trở nênđẹp hơn với ngày lễ hội bỏ mả trong một không gian huyền ảo đầy những tiếng cồngchiêng sâu lắng ). Với những dân tộc bản địa Tây Nguyên, phương tiện đi lại để nối kết hội đồng cũng lại làcồng chiêng. Tiếng cồng chiêng vang lên để nối kết thành viên với hội đồng, giữacộng đồng này với hội đồng khác của cùng một dân tộc bản địa. Điều đáng chú ý quan tâm là TâyNguyên có nhiều dân tộc bản địa, nhưng những dân tộc bản địa luôn hoà hợp lẫn nhau trong văn hoácồng chiêng mà vẫn giữ được truyền thống văn hoá của dân tộc bản địa mình, không có hiệntượng loại trừ hay đồng hoá văn hoá của nhau trong hoạt động và sinh hoạt văn hoá cồngchiêng. Các dân tộc bản địa đều hoàn toàn có thể đến với nhau khi hoạt động và sinh hoạt văn hoá cồng chiêng. Tiếng cồng chiêng luôn đem đến một cảm hứng rạo rực khó tả trong mỗi conngười, như sự đồng thanh tương ứng khiến họ tìm đến với nhau. Thứ 3, dân cư những dân tộc bản địa ít người ở Tây Nguyên đã đạt đến những hiểubiết sâu và có những kỹ thuật điêu luyện trong việc sử dụng cồng chiêng trong vănhoá và âm nhạc của mìnhĐiều này bộc lộ ở việc chỉnh âm chiêng mua về với tư cách là một hànghoá để nó trở thành một nhạc cụ trong dàn cồng chiêng của dân tộc bản địa ; biểu lộ ởviệc lựa chọn những biên chế dàn chiêng, ở việc pháp luật giới tính, tư thế và kỹ xảodiễn tấu. Ngoài ra, họ còn sáng tác nhiều bản nhạc chiêng cho những công dụngkhác nhau. Thứ 4, cồng chiêng Tây Nguyên có giá trị như một dẫn chứng độc đáocủa đặc trưng truyền thống lịch sử văn hoáCồng chiêng xuất hiện trong nền văn hoá của nhiều nước trên quốc tế ( nhất làchâu Á ). Tuy nhiên, dạng cồng chiêng được tổ chức triển khai thành dàn để diễn tấu độc lậphoặc phối hợp với những nhạc cụ khác thì đa phần thấy ở những nước Khu vực Đông Nam Á. ỞViệt Nam, phần đông tổng thể những tộc người đều sử dụng cồng chiêng. Nhưng những dântộc thường chỉ dùng 1-2 cồng phối hợp với một trống dùng trong nghi lễ hoặc giữnhịp cho múa. Người Mường ở những tỉnh miền núi phía Bắc có dàn cồng sắc bùa, gồm có một biên chế 8-12 chiếc cồng núm. Biên chế chiêng thành dàn là đặctrưng trong văn hoá của những tộc người Tây Nguyên. Các dàn cồng chiêng Tây Nguyên có nhiều điểm tương đương với cồngchiêng Khu vực Đông Nam Á. Tuy vậy, nó có những nét độc lạ : Văn hoá và âm nhạccồng chiêng Tây Nguyên là văn hoá và âm nhạc dân gian. Nó là sở hữu cộngđồng, là chuẩn mực văn hoá cho thành viên hội đồng triển khai. Ở những tộcngười mà cồng chiêng dành riêng cho phái mạnh thì mọi chàng trai tộc người đóphải biết đánh chiêng. Ở những tộc người, nơi cồng chiêng do phái đẹp đảm nhiệmthì mọi cô gái phải ghi nhận triển khai trách nhiệm này ( ở nhóm Noong dân tộc bản địa Mnôngthì đó là trách nhiệm của cả nam lẫn nữ ). Là chiếm hữu của hội đồng, cồng chiêng TâyNguyên có vai trò như một hình tượng cho năng lượng phát minh sáng tạo văn hoá, âm nhạccủa người dân trong không gian văn hoá Tây Nguyên. Cho đến nay, cồng chiêngvà hoạt động và sinh hoạt văn hoá gắn bó với cồng chiêng vẫn sống sót trong từng mái ấm gia đình, p’lei, bon, buôn. Trong khi ở 1 số ít nước Khu vực Đông Nam Á, cồng chiêng phần đông đã trởthành hoạt động giải trí âm nhạc có tính chuyên nghiệp như những dàn Gamelan củaInđônêxia, dàn Khong wong trong Mahori của Đất nước xinh đẹp Thái Lan, trong Pin Peat củaCampuchia. Đặc điểm này cho thấy cồng chiêng Tây Nguyên hoàn toàn có thể còn lưu giữnhiều yếu tố cổ xưa hơn. Trước những giá trị vô cùng độc lạ, “ Không gian văn hóa cồng chiêng Tâynguyên ” đã vượt qua khỏi biên giới vương quốc trở thành gia tài của quả đât. Ngày25 / 11/2005, 1 ngày đáng nhớ trong lịch sử vẻ vang văn hóa nước nhà, Không gian văn hóacồng chiêng Tây nguyên đã được UNESCO công nhận là Kiệt tác phi vật thể vàtruyền khẩu của trái đất .
Source: https://vh2.com.vn
Category : Trái Đất