Networks Business Online Việt Nam & International VH2

Phẩm Phân biệt công đức thứ 17

Đăng ngày 23 October, 2022 bởi admin

Đức Phật nói thọ mạng lâu bền hơn của Đức Như Lai nghĩa là Ngài ra mắt cho tất cả chúng ta Đức Phật vĩnh hằng bất tử ; vì người ta thường nghĩ rằng Đức Phật sinh ra trên cuộc sống này và Ngài nhập diệt là hết .

Audio

Mở đầu, Đức Phật dạy một câu hàm chứa nhiều nghĩa lý sâu xa mà tất cả chúng ta cần tâm lý : “ Bấy giờ Đức Phật bảo Di Lặc Bồ tát khi Ngài diễn nói thọ mạng lâu bền hơn của Đức Như Lai thì có vô số Bồ tát không hề tính đếm chứng được Vô sanh Pháp nhẫn, hoặc Văn trì đà la ni, nhạo thuyết biện tài, chuyển được pháp luân bất thối và phát đại tâm cầu Vô thượng đạo ”. phaphoa-17 Đức Phật nói thọ mạng lâu dài hơn của Đức Như Lai nghĩa là Ngài ra mắt cho tất cả chúng ta Đức Phật vĩnh hằng bất tử ; vì người ta thường nghĩ rằng Đức Phật sinh ra trên cuộc sống này và Ngài nhập diệt là hết. Những người chấp vào Phật sinh diệt và tu trên sinh diệt, hay còn gọi là tu trong chiêm bao, tức vướng mắc với thân tứ đại và gia tài này, thì dù có làm bất kỳ việc gì và làm nhiều đến đâu, đến khi chết, thân tứ đại và gia tài cũng bỏ lại. Giống như tất cả chúng ta nằm mơ thấy mình bố thí thật nhiều, nhưng thức dậy tất cả chúng ta cũng vẫn là người nghèo khó. Người nghèo này là con người thực của tất cả chúng ta trên cuộc sống ; nhưng con người thực trên cuộc sống này lại là con người chiêm bao trên chân tánh, vì tất cả chúng ta mê trên chân tánh, mới bị nghiệp lực dắt dẫn vào quốc tế sinh tử. Có thể ví cuộc sống này là đại mộng, vì vậy nhắm mắt lìa đời thì chỉ nắm tay không mà đi và giấc chiêm bao của tất cả chúng ta hoàn toàn có thể ví là tiểu mộng, thức dậy, mọi việc trong chiêm bao liền hoàn không. Cả hai cùng là giấc mộng, chỉ khác nhau là giấc mộng dài, hay giấc mộng ngắn mà thôi. Kinh Pháp Hoa dạy tất cả chúng ta tu trên con người bất tử, tức tu trên chân tánh của tất cả chúng ta, đó là tu trên tỉnh giác, không phải tu trên mê. Tu trên mê thì thao tác này việc nọ, rồi tưởng là có công đức, nhưng trong thực tiễn ít người được công đức. Chính thế cho nên mà Tổ Đạt Ma nói thẳng với vua Lương Võ Đế rằng ông xây 72 ngôi chùa kết thành quả báo đáng vào âm ti vô gián. Vì ông cúng dường bố thí nhiều mà tạo thành lớp người tận dụng chiếc áo tu để thao tác sai lầm. Có những việc tất cả chúng ta cho rằng tốt, nhưng lại phản tác dụng, trở thành xấu ; tu không có công đức là vậy. Trở lại thực tiễn, việc tu hành của tất cả chúng ta phải nương theo lời dạy của Đức Phật để tìm về Đức Phật vĩnh hằng bất tử. Theo kinh Pháp Hoa, bước vào quốc tế chân thực, tất cả chúng ta không làm trên chiêm bao nữa, mà giữa ta và Đức Phật cùng Thánh chúng có mối tương thông thâm thúy. Thế giới siêu hình này không thấy bằng mắt, nhưng cảm tâm được với điều kiện kèm theo tâm tất cả chúng ta thanh tịnh mới thấy Phật thọ mạng lâu bền hơn ; nếu không tất cả chúng ta thấy toàn là những điều chán nản, thì dễ rời bỏ ngôi nhà Phật pháp.

Khi Đức Phật nói thọ mạng dài lâu là thế giới thật của Ngài, là sự giáo hóa thật của Ngài, thì có vô số Bồ tát chứng Vô sanh pháp nhẫn, tức xa lìa trần cấu, không bị thế giới vật chất chi phối; tuy còn mang thân người, nhưng tâm hồn họ hoàn toàn trong sáng, ở hoàn cảnh nào họ cũng an vui tự tại. Vì họ đang sống với con người thật, giữa họ và Đức Phật cùng Thánh chúng có mối tương quan mật thiết với nhau, cho nên họ không bận tâm đến con người sinh diệt.Chứng Vô sanh pháp nhẫn, đã xa rời mọi ràng buộc của cuộc đời, tiến sang bước thứ hai được Văn trì đà la ni, nghĩa là Đức Phật nói gì, người nghe nhớ không sót, nhờ ghi nhận bằng tâm thanh tịnh. Còn đa số chúng sinh tâm điên đảo vọng tưởng, trong đầu đầy ắp dữ kiện, trần cấu quá nặng, cho nên không tiếp nhận được Phật pháp. Văn trì đà la ni rất cần thiết, nghe một lần và nghe bao nhiêu pháp Phật cũng nhớ đủ, rất dễ tiến tu.

Nghe thọ mạng vĩnh viễn của Phật, vào quốc tế Phật, hành giả cũng được Nhạo thuyết biện tài, nhờ Phật huệ rọi, tổng thể pháp cần giảng dạy tuôn chảy không cùng như dòng thác, thuyết pháp suốt cuộc sống cũng không hết ý. Và hành giả chuyển được pháp luân bất thối, tương tự với đệ bát địa theo kinh Hoa Nghiêm. Người tu đạt được chuyển pháp luân bất thoái chuyển là không phải chỉ mình được bất thoái chuyển, nhưng làm cho người khác phát tâm tu không thoái chuyển. Đức Phật vừa nói dứt lời thì trời mưa hoa cùng bột chiên đàn và những thiên y, bảo ngọc như mong muốn, trân châu ma ni để cúng dường Phật và hàng tứ chúng. Điều này muốn nói rằng người nghe pháp, tu hành, an trụ trong Chánh pháp có được niềm vui kỳ diệu cũng như người giàu sang sung sướng nhất trên cuộc sống tiêu biểu vượt trội bằng hoa trời và hương trời, áo trời, ngọc ma ni, v.v…, tức có khá đầy đủ toàn bộ những gì tốt nhất. Mặc dù người tu còn mang thân tứ đại và đời sống đạm bạc, nhưng tâm họ cảm nhận sự hoan hỷ cùng tột trong thực trạng sống cao quý của pháp Phật. Họ không còn cảm thấy thiếu thốn thứ gì cả, vì đã xâm nhập Phật huệ, sở đắc pháp vô thượng của Phật giúp họ thoát khỏi sinh tử trong sáu nẻo luân hồi ; đó là của báu quý nhất so với người tu. Hạng người thứ nhất nghe thọ mạng lâu bền hơn của Đức Phật và xâm nhập được thì có công đức như vậy. Nhưng hạng người thứ hai không được như vậy, họ chỉ có một niệm tín giải thì Đức Phật dạy như sau. “ Đức Phật lại bảo Di Lặc Bồ tát : Chúng sinh nào nghe thọ mạng lâu dài hơn của Đức Như Lai mà sanh một niệm tín giải sẽ được công đức vô lượng vô biên nhiều hơn công đức của người bố thí, trì giới, nhẫn nhục trong tám mươi muôn na do tha kiếp. Nếu hiểu ý nghĩa thọ lượng Như Lai thì hoàn toàn có thể phát sanh Phật huệ Nhứt thiết chủng trí, lại hoàn toàn có thể thấy Thích Ca Như Lai ở Kỳ Xà Quật thuyết pháp giáo hóa chúng đại Bồ tát và thấy quốc tế Thật báo của Lô Xá Na. Nếu thấy như thế thì không cần xây chùa tháp cúng dường, mà chính người ấy đã đến đạo tràng, trong thân của họ có sẵn Đức Phật. Ông bảo Trời người phải nên cúng có vẻ như cúng chư Phật ”. Đức Phật dạy rằng người bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn và Thiền định, trừ trí tuệ ba la mật, nghĩa là tu năm pháp ba la mật, nhưng trí tuệ chưa phát sinh thì dù người đó có trải qua vô số kiếp tu hành, công đức của họ cũng không bằng công đức của người chỉ có một niệm tín giải kinh Pháp Hoa. Tại sao một niệm tín giải mà được công đức lớn lao đến như vậy.

Một niệm tín giải

“ Tín ” là tin. Người không trồng căn lành với Phật, không hề tin Phật, không hề tin giáo pháp Phật dạy ; vì họ chỉ sống với quốc tế vật chất hữu hình, tin vào quốc tế tâm linh siêu hình rất khó. Sở dĩ tu năm pháp ba la mật trong vô số kiếp mà công đức không bằng tu một niệm tín giải, bởi đó là tu mù, vì đã trừ Bát nhã ba la mật. Có thể thấy rõ rằng tu sáu pháp ba la mật cũng phải khởi điểm từ Bát nhã. Thật vậy, người bố thí không có trí tuệ dễ sinh nghiệp hơn là phước. Chính vì trí tuệ là điều kiện kèm theo quan trọng nhất, có tính cách quyết định hành động việc đúng hay sai của năm pháp : bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn và thiền định, cho nên vì thế Đức Phật đã khẳng định chắc chắn rằng tu năm pháp “ Trừ trí tuệ ba la mật ”, công đức rất ít so với một niệm tín giải. Có trí tuệ mới lý giải được niềm tin. “ Tin ” mà không lý giải được là mê tín dị đoan. “ Giải ” mà thiếu niềm tin thì chỉ là người nghiên cứu và điều tra nói Phật pháp suông. “ Giải ” không phải là lý giải từng chữ, cũng không phải là lý giải theo triết học. Tự trong lòng tất cả chúng ta cảm nhận được và chỉ bằng Bồ đề tâm của tất cả chúng ta mới giải được. Hành giả khác với học giả ở điểm này. Đối với người đệ tử Phật, tu Bát nhã ba la mật, tức trí tuệ là chính yếu. Tuy nhiên, khi chưa có trí Bát nhã, chưa giải được mọi việc đúng đắn, phải nương tựa thiện tri thức, nhờ họ khai ngộ để hoàn toàn có thể vận dụng cốt lõi của Phật dạy vào đời sống, công đức mới sinh ra. Nương theo thiện tri thức ; nhưng quan trọng phải phát huy trí tuệ của ta để khi không có thiện tri thức, ta cũng biết được người đáng độ, việc đáng làm, mới sinh ra công đức. Ý này được Đức Phật nhắc rằng nếu tu năm pháp, mà trừ Bát nhã, tức trí tuệ, thì cũng không được gì cả. Trở lại tầm quan trọng của một niệm tín giải trong kinh Pháp Hoa, nếu có được thì công đức bất khả tư nghì. Nhưng tín giải về cái gì và tín giải như thế nào ? Tín giải của tất cả chúng ta là tin Phật, hiểu Phật. Tin mà không hiểu Phật dễ trở thành hủy báng Phật. Tội này nặng lắm, Nhật Liên Thánh nhân gọi đó là phá pháp tội chướng. Nhiều người tu khổ cực, nhưng quả báo xấu không lường, vì họ phạm sai lầm đáng tiếc này, rồi đổ thừa rằng tụng kinh Pháp Hoa bị nghiệp khảo, nghiệp đổ. Tụng kinh Pháp Hoa đúng thì nghiệp không đổ, mà công đức sinh ra, trải đường đi cho hành giả. Sở dĩ nghiệp đổ vì tin Phật, nhưng không hiểu Phật, hoặc hiểu mà không tin Phật ; cả hai đều sai. Tất cả tất cả chúng ta đương nhiên tin Phật, tin rằng Đức Phật Thích Ca hiện hữu trên trần gian này ở nước Ấn Độ cách đây hơn 25 thế kỷ. Ngài đã viên tịch, nên người ta tạc tượng tôn thờ và kính lễ Ngài. Nếu chỉ tin như vậy mà không giải được thì niềm tin này dễ trở thành mê tín dị đoan. Giải được nghĩa là tất cả chúng ta ý thức rằng Đức Phật Thích Ca ứng hiện trên cuộc sống và hiện thân trong loài người. Như Đức Phật đã nói trong phẩm Như Lai thọ lượng, Ngài có thiên bá ức hóa thân, không phải chỉ có một thân Phật Thích Ca ở Ấn Độ.

Đức Phật xuất hiện ở cõi Ta bà, nhưng chúng ta không biết Ngài ở đâu, tìm được chỗ thường trụ của Đức Phật là việc rất khó. Thiền ví như tìm trâu bằng cách đi tìm dấu chân trâu gọi là Tích môn. Tìm dấu vết Đức Phật để lại cuộc đời để biết Đức Phật ở đâu là cách tu từ Tích môn vào Bổn môn. Đức Phật từ thế giới vĩnh hằng của Ngài đi khắp tam thiên đại thiên thế giới giáo hóa, chúng ta phải tìm về cội gốc để gặp Đức Phật. Thiền diễn tả ý này là nương vào ngón tay chỉ mặt trăng dưới nước để hình dung ra mặt trăng trên trời. Và từ một mặt trăng trên bầu trời rọi xuống, có bao nhiêu dòng sông thì có bấy nhiêu mặt trăng xuất hiện trong đó (Thiên gian hữu thủy thiên gian nguyệt). Cũng vậy, từ một Đức Phật gốc hằng hữu, nhưng ở Ta bà có bao nhiêu chúng sinh có căn lành và niềm tin sâu sắc về Phật, thì có bấy nhiêu Phật xuất hiện đầy đủ trong tâm của họ.Từ đó, phát khởi niềm tin về Phật, thì niềm tin ta và Phật gắn liền với nhau mật thiết sẽ nhận ra Đức Phật vẫn hằng hữu tại nơi đây, ngày trong Ta bà này. Chỉ vì chúng ta cuồng si, không nhận ra Đức Phật thọ mạng vô cùng, bất sinh bất diệt, nên Ngài dùng phương tiện nói rằng Phật đã Niết bàn.Trên bước đường tu, nương theo phương tiện hình thức ở giai đoạn đầu để dần thâm nhập thế giới Phật. Và có được niệm tín giải là nhận chân được Đức Phật bất sinh bất diệt, từ đây hướng về Đức Phật bất tử này mà tu hành bằng tâm thanh tịnh của chúng ta. Tu từ bản tâm thanh tịnh, chúng ta mới ngang qua Đức Phật thường trú. Được như vậy, trở về hiện tượng giới này, chúng ta hiện hữu như một phần của pháp thân Phật để cứu giúp chúng sinh thoát khỏi mọi trói buộc khổ đau và thăng hoa tri thức. Chỉ có niềm tin về Đức Phật hằng hữu như vậy đã được công đức vô lượng.

Hiểu ý nghĩa thọ lượng của Như Lai

Hiểu ý nghĩa thọ lượng của Như Lai là thấy được con người thật của Đức Phật kết tinh bằng phước đức vô lượng và trí tuệ vô cùng, đó chính là Báo thân Phật hằng hữu. Sanh thân của Đức Phật vắng bóng trên cuộc sống, nhưng Báo thân của Ngài vẫn sống sót và còn lớn thêm nữa. Thật vậy, sau khi Phật nhập diệt, chùa tháp kính thờ Phật nhiều hơn, Tăng Ni và Phật tử khắp năm châu đông hơn. Chính Báo thân Phật, hay phước đức trí tuệ của Phật đã duy trì tổng thể mọi hoạt động và sinh hoạt của Phật pháp. Không có Đức Phật hằng hữu thì chắc như đinh thọ mạng Phật pháp không còn. Vì vậy, thấy phước đức trí tuệ của Phật là thấy quốc tế Thật báo lô xá na, tức quốc tế chân thực của Đức Phật, dù Đức Phật tại thế hay nhập diệt thì quốc tế chân thực này vẫn còn nguyên, chỉ khác là tất cả chúng ta không vào được. Thực tế những nơi nào sử dụng được phước đức và trí tuệ theo Phật, Phật pháp nơi đó hưng thạnh ; nơi nào không tăng trưởng được Báo thân Phật, nơi đó đạo Phật suy đồi. Kết phẩm này, Đức Phật nói : “ Nếu thấy như thế thì không cần xây chùa tháp cúng dường, mà chính người đó đã đến đạo tràng. Trong thân của họ có sẵn Đức Phật. Ông bảo Trời người phải nên cúng có vẻ như cúng chư Phật ”. Nghĩa là thấy được thân phước đức trí tuệ của Phật và sử dụng được thân này và sống được với quốc tế Phật thì việc của họ làm là Phật làm, tất yếu không cần xây chùa tháp nữa. Vì chùa không có vị chân tu thì cũng không hơn gì chùa hoang. Có vị cao Tăng đức hạnh ở, chùa mới tỏa ra sức sống thanh tịnh cho mọi người phụ thuộc thăng hoa tri thức và đạo đức, tức nuôi lớn Báo thân của mọi người. Điều này kinh Pháp Hoa muốn nhắc nhở tất cả chúng ta tu hành ngộ đạo là chính yếu, không phải lo thiết kế xây dựng cơ sở vật chất. Nói như vậy không có nghĩa là không kiến thiết xây dựng chùa, nhưng không phải nhứt thiết lao tâm nhọc sức với việc thiết kế xây dựng để tâm bị phiền não, thân bệnh hoạn, chắc như đinh đó không phải là ý của Đức Phật dạy. Bước theo dấu chân Phật, tùy duyên làm đạo, gặp việc đáng làm mới làm, sẽ loại trừ được quả báo xấu. Thực tế cho thấy nhiều người tha thiết làm, nhưng gánh hậu quả không tốt ; vì làm nhiều nhưng làm không đúng. Đọc phẩm Phân biệt công đức, thấy có sự khác lạ so với đời sống tất cả chúng ta ; vì phẩm này nói cho người đã xâm nhập giới đàn vô tướng và tu trên Bổn môn, nên thành tựu công đức lớn lao vô cùng. Và từ giới đàn vô tướng trở lại cuộc sống giáo hóa độ sinh, những pháp mà họ chứng đắc cũng bộc lộ trong đời sống trong thực tiễn, chứ không phải chỉ nói suông. Tu Pháp Hoa, phải tích hợp được pháp tu và thực tiễn đời sống, vì nói và làm phải tương ưng với nhau. Điển hình như Ngài Trí Giả đại sư trụ trong Thiền định thấy trong đầm sình lầy Open ngôi chùa trang trọng. Từ cái thấy trong tư duy, trong đạo tràng vô tướng có chùa như vậy, thì sau đó quay trở lại thực tiễn, Tấn Dương Quảng thống nhất quốc gia Trung Quốc, lên ngôi, lấy tên là Tùy Dạng Đế. Và ông đã đưa quân đến vùng sình lầy đó để xây chùa Ngọc Tuyền rất đồ sộ. Nói cách khác, kiến thiết xây dựng được ngôi chùa trong tâm linh bằng công đức thì ngôi chùa vật chất tự động hình thành ; đó là thành tựu công đức. Còn thấy trong Thiền định mà trong thực tiễn không có gì, phải biết đó là hoang tưởng.

Source: https://vh2.com.vn
Category : Trái Đất