Networks Business Online Việt Nam & International VH2

Thơ Lê Văn Hy – Hương thơm sắc thắm

Đăng ngày 22 October, 2022 bởi admin
hy-le-1665637084.jpg
 

Đồng môn Lê Văn Hy ( Nickname Hy Le ) có thơ về người cha vô cùng kính yêu của mình :
Thông minh kinh sử thuộc làu làu
Bố vẫn điền viên cày ruộng sâu

Dạy học bốn mùa không biết mỏi

Cấy cày hai vụ có quên đâu
Những mong để đức cho con cháu
Chỉ muốn làm ơn với bạn bầu
Bố dạy một câu thành lẽ sống
Kiệm – Cần hai chữ phúc bền vững ( Nghĩ về bố )
Nhà thơ Viên Mai ở Trung Quốc có hai câu thơ được người đời bàn và tranh cãi nhiều vì đã hạ thấp giá trị văn chương nói riêng và người làm nghề cầm bút nói chung
Mỗi phạn bất vong duy trúc bạch
Lập thân tối thị hạ văn chương .
Dịch là :
Mỗi bữa ăn không quên đến ghi thẻ trúc
Lập thân nhỏ bé nhất là làm văn chương
Không theo lối mòn tâm lý như Viên Mai, phụ vương Lê Văn Hy là cụ Lê Văn Đắng, một túc nho làng Lê Xá, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Tỉnh Nam Định không chỉ dạy chữ thánh hiền cho Hy Lê từ thời còn để chỏm tóc trên đầu, rồi dần dà dẫn con mon men đến với thơ phú :
Nuôi con khôn lớn mới nuôi thơ
Vất vả bao nhiêu cũng chẳng vừa
Cần áo cần cơm cần tri thức
Chọn vần, chọn tứ, chọn thời cơ
Thơ hay lọ phải lời bay bổng
Con hiếu chi bằng nối chí cha
Lập đức lập công đều đáng quý
Lập ngôn bậc nhất ấy là thơ ( Nuôi con – nuôi thơ )
Không rõ tơ duyên sao mà tôi với Lê Văn Hy có lắm “ cái đồng ” đến thế. Trước hết là đồng môn khóa 7 Khoa Văn đại học Tổng hợp Thành Phố Hà Nội, đồng tổ học Trung văn và văn học Trung Quốc ; rồi đồng môn khóa 6 phóng viên báo chí. Tốt nghiệp ra trường, hai chúng tôi cùng về thao tác tại Nước Ta Thông tấn xã ( nay là Thông tấn xã Nước Ta ). Tôi là phóng viên báo chí thường trú tại Nghệ An, những năm máy bay Mỹ đánh phá rất ác liệt khúc ruột miền Trung, tiếp đó đi mặt trận C. Hy Lê làm phóng viên báo chí thường trú tại Hà Tây, quê nhà “ chiếc gậy Trường Sơn ”, rồi đi mặt trận B. Còn có cái đồng nữa mà ít ai có, đó là đồng sàng. Chả là ký túc xá của Khoa văn ĐH Tổng hợp bấy giờ ở cạnh chùa Láng. Hai chúng tôi nằm một giường tầng. Tôi nằm dưới, Hy Lê nằm trên. Thi thoảng Hy Lê xoay người, ngó đầu xuống trao đổi với tôi về những điều còn chưa tường tận khi những giáo sư giao giảng trên thánh đường. Không rõ đã có nhà kho lưu trữ bảo tàng nào sưu tầm giường gỗ mộc thô, hai tầng đưa vào tọa lạc để những thế hệ tương lai nhớ lại đã có một thời cha, anh họ nằm giường tầng, nhai bo bo, “ nắp hầm ” sái quai hàm cái thời khốn khó, thế mà nhiều người đã trở thành nhà khoa học, giáo sư, tiến sỹ, nhà báo, nhà văn khét tiếng .
Một chiều chủ nhật Hy Lê đi dạo phố phường Thành Phố Hà Nội về, bực trong người không ngủ được. Anh ngó đầu xuống xả “ cục tức ” với tôi : Mình đi quanh Bờ Hồ “ người xe như nước, áo quần như nêm ”. Đến đầu đường Hàng Khay, mình giơ tay trái xin đường rẽ sang phố Tràng Tiền làm que kem cho mát ruột. Ai ngờ lúc đó có một o ở Nghệ An lần tiên phong ra thăm Thành Phố Hà Nội đi sau. O này mắng mình xơi xơi : “ Này ! Ban ngày ban mặt, mi định mần cái trò đồi bại ấy với tui à ? Tui là tui đập cho bể trốc đấy ”. Mình ngớ người, hỏi lại : “ Sao chị lại cáu gắt với tôi ? ” Người đứng gần, dịch : “ Chị này mắng anh định “ ấy ” chị ấy ”. Có oan Thị Mầu không chứ. Xấu hổ quá !
Nhắc lại chuyện này để thấy đồng môn của tôi rất hiền, kiệm lời trong những tiếp xúc từ cái thời sinh viên. Hiền khô, ít nói nhưng anh có sự quan sát tinh xảo những hiện tượng kỳ lạ trong xã hội, có cảm nhận thâm thúy về vạn vật thiên nhiên, tính khí của mỗi người trước tác động của thực trạng. Làm phóng viên báo chí ở nhiều tỉnh miền Bắc, anh còn vinh dự được biệt phái vào vào Nam làm phóng viên báo chí mặt trận nhiều năm. Đây là những “ chuyến đi thực tiễn ” không mấy người cầm bút thời nay có được. Sau khi hoàn thành xong nghĩa vụ và trách nhiệm công dân của một phóng viên báo chí Hãng thông tấn vương quốc, có thời hạn và vốn Hán văn do cha dạy cho và có phông kỹ năng và kiến thức về nhiều nghành nghề dịch vụ, Lê Văn Hy không hề không viết văn, làm thơ .
Năm tiên phong anh viết hồi ký “ Nỗi niềm gửi bạn ”. Tiếp đó anh làm cuộc khảo cứu “ Tìm hiểu thuyết ngũ hành và Bát quái trong Kinh dịch ”, xuất bản năm 2004. Năm sau anh dịch từ Hán văn và cho xuất bản “ Chu Công giải mộng toàn thư ”. Năm 2006, xuất bản hồi ký “ Thời trai trẻ ”. Anh cho in tập thơ tiên phong “ Trường Sơn và miền quê ” ( năm 2011 ). Năm sau cho in tiếp tập thơ “ Một thoáng Đường thi ”. Bẵng đi mười năm, xuất bản tập thơ tứ tuyệt “ Khoảng cách ” .
Phải thừa nhận sức viết của anh đều và khỏe. Không như ai đó ngày này ngồi trong phòng mát, nhấm nhi từng giọt cafe, mượn ý, mượn câu chữ người khác để viết văn, làm thơ. Lê Văn Hy không say sưa trong “ tháp ngà ”, không mượn hơi thở của người nổi tiếng. Anh vào thẳng nhà máy sản xuất, đến công trường thi công, ra đồng ruộng, xốc tới mặt trận Tây Nguyên nóng bỏng, những trận đánh còn khét mùi thuốc súng. Anh đã cùng chung nhịp đập tâm hồn với những xã viên hợp tác xã nông nghiệp, với những cán bộ, chiến sỹ đang hàng ngày giáp mặt với quân địch .
Lê Văn Hy gửi khuyến mãi ngay tôi những tác phẩm đã xuất bản, kể cả nhiều bài viết của anh đăng trên báo và tạp chí. Có điều kiện kèm theo đọc, suy ngẫm những tác phẩm văn xuôi của anh, cũng nhiều mê hoặc, có ích. Trong khuôn khổ bài viết này, tôi muốn san sẻ cảm nhận sau khi đọc hai tập thơ đậm hương sắc “ Thơ Lê Văn Hy ” .
“ Một thoáng Đường thi ” do Nhà xuất bản Văn học ấn hành năm 2012, có 104 bài, hầu hết là thơ “ thất ngôn bát cú ” ( mỗi bài có tám câu, mỗi câu có bảy từ ). Còn có thơ Tứ tuyệt ( mỗi bài bốn câu ; mỗi câu có bảy từ ). Thơ Đường luật có từ thời nhà Đường bên Trung Quốc, ngặt nghèo từng phần, từng vế, từng câu và toàn bài về luật và âm sắc “ bằng bằng, trắc trắc ”. Tại Nước Ta, nhiều nhà thơ nổi tiếng như Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Cao Bá Quát, Tú Xương, Nguyễn Khuyến … đã sử dụng thể thơ Đường luật, viết nhiều bài hay. Trong trong thực tiễn, ít người theo đúng trọn vẹn công thức, vần luật thơ Đường, sinh ra lệ “ bất luận ”. Trong quy trình sử dụng thơ Đường luật 1 số ít cụ nhà ta còn dân tộc bản địa hóa thể thơ bác học này cho gần với người đọc .
Có người hỏi làm thơ Đường luật có khó không ? Đối với tôi là quá khó. Vì quá khó nên thời nay ít người mon men tới thơ Đường luật. Họ viết theo thể thơ mới, thơ tự do cho nhanh. Ấy vậy mà đồng môn của tôi dám xông vào Đường luật :
Rất chân thực chia ba phần to nhỏ Tôi dành riêng thơ Đường luật phần lớn Một chút tâm tình gửi vào lục bát Còn tự do thì mới ngỏ lời yêu. ( Lòng yêu thơ )
Đúng là Hy Lê mới ngỏ lời với thơ tự do, nhưng nàng này đỏng đảnh, nên chưa có sự xe duyên. Không rõ những bạn thế nào, chứ thú thực tôi chưa đọc bài thơ tự do nào của anh .
Được biết anh còn làm Chủ nhiệm Chi hội thơ Đường huyện Mỹ Lộc tỉnh nhà nữa đấy. Nghe nói mới gần đây, Chủ nhiệm Chi hội này còn tổ chức triển khai họp tổng kết công tác làm việc năm 2021 và bàn chương trình hoạt động giải trí năm 2022. Trong cái ồn ã của đời sống và văn chương thời nay, anh và những thi hữu còn đam mê Đường thi, không để dòng thơ bác học này thất truyền, quý hóa quá. Rất cảm ơn anh và Chi hội thơ Đường huyện Mỹ Lộc .
Trong “ Một thoáng Đường thi ” tác giả muốn san sẻ với bạn đọc xúc cảm đẹp về quê nhà Lê Xá nói riêng về Thiên Trường Tỉnh Nam Định nói chung, trong đó có nhiều bài ca tụng công cao đức dày của Bác Hồ, của Đảng, Nhà nước ; ca tụng những chiến sỹ chỉ huy : Trường Chính, Lê Duẩn, Lê Đức Thọ ; cùng những nhà văn hóa lớn :
Nguyễn Trãi, Đường Chu Văn An, Vũ Khiêu …

Kháng chiến mười năm đánh giặc Minh

Công đầu muôn thuở mãi tôn vinh
“ Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo ”
Nguyễn Trãi lòng trung sáng
Đẩu tinh Kế sách bình Ngô yên xã tắc
Quốc âm thi tập đẫm ân tình
Tài kiêm văn – võ – nhà thơ lớn
Văn hóa danh nhân quốc tế bình ( Nguyễn Trãi )
Đây là một trong nhiều bài thơ Đường hay. Tác giả ca tụng Tâm – Tài – Đức của danh nhân Nguyễn Trãi có tình, đủ ý. Về luật, từ cuối của câu đầu và từ cuối của câu thứ hai là thanh bằng ( b ) ; thì từ cuối của những câu tiếp theo là trắc ( t ) – b-t-b-t-b. Tác giả chọn vần “ inh ”, đồng điệu trong những câu 2,4,6,8. Nhiều người mon men làm thơ Đường phủ nhận về độ khó của dòng thơ này. Làm hoàn hảo bài thơ Đường luật hay, được những thi hữu tán thưởng không dễ chút nào .
Hy Lê có thơ nói về mình, về đồng đội, nôn nao nhớ những đồng nghiệp Thông tấn, nhớ những bạn Thanh niên xung phong phá đá mở đường cho xe ra tiền tuyến và nhớ những thi hữu ở Hành Thiện. Lê Văn Hy có hai bài tự vịnh. Bài một tác giả sơ kết về mình vào năm bảy mươi tuổi. Trong Nam ngoài Bắc đến cả rồi. “ Nho – Y – Lý – Số xem đủ hiểu ”. “ Ăn mặc xuyềnh xoàng không chải chuốt / Việc làm siêng năng chẳng rong chơi … ”
Tự vịnh bài hai bạn tôi sơ kết về nghiệp làm thơ, viết văn :
Tóc bạc rồi ư tuổi bảy mươi ? Vẫn xanh cây bút vẫn yêu đời Trong Nam ngoài Bắc thời công tác làm việc Lui báo, liều thơ, lúc nghỉ ngơi Sách đã in chừng năm, sáu cuốn Thơ đăng báo độ mấy mươi bài Ơn trời sống khỏe nhiều năm nữa Viết sách làm thơ cũng rất vui
“ Lui báo, liều thơ, lúc nghỉ ngơi ”, nói khiêm nhường vậy thôi. Từ khi ra trường bước vào nghề thông tấn, đến khi nghỉ hưu năm 2000 và cho đến nay, đồng môn Lê Văn Hy chưa khi nào nghỉ ngơi. Thơ với anh là hơi thở, là nhịp đập trái tim, không ngừng nghỉ .
Trong “ Một thoáng Đường thi ”, dòng thơ chủ yếu là thất ngôn bát cú ”, còn có mươi bài dòng thơ “ tứ tuyệt ”, tác giả làm chủ về ngôn từ, cấu tứ. Bài thơ gọn bốn câu, tạo cảm hứng đẹp, tri ân Hoàng đế Quang Trung :
Xứ Huế reo vui, cả nước mừng Cố đô vừa dựng tượng Quang Trung Uy nghi chân mệnh ngôi Hoàng đế Đại phá quân Thanh tiếng lẫy lừng
Ghi nhớ sự kiện 40 năm đưa người lên mặt trăng, nhà thơ Hy Lê muốn “ Hỏi chị Hằng ” :
E ấp kiêu ngạo mấy chị Hằng Thế mà cam chịu “ Gấu ăn trăng ” Bốn mươi năm trước phòng the kín Người đến đây rồi ai nhơ chăng ?
Trái với “ Một thoáng Đường thi ”, thi phẩm “ Khoảng cách ” Hy Lê gọi là thơ tứ tuyệt. Tứ tuyệt trong “ Khoảng cách ” cũng mỗi bài có bốn câu. Nhưng mỗi câu, có bài năm từ ( Tấm lòng cây bưởi, Khoảng cách, Cũ và mới ), có bài bảy từ ( Mong ngóng rằm, Thông tấn xã Nước Ta, Bãi tắm Thịnh Long ), có bài tận tám từ ( Cá tự trách mình ). Mượt mà hơn cả vẫn là những bài thơ lục bát :
Tuổi thơ vay mượn những gì Mai sau khôn lớn muốn thì trả ngay Chỉ riêng sữa mẹ chữ thầy Công cha hơn nước khó ngày trả xong. ( Vay trả )
Hay bài “ Thấy ” :
Đến gần không thấy núi cao Xa “ năm ánh sáng ” thấy sao trên trời
Gần thì lại thấy thường thôi Khi xa mới thấy bồi hồi nhớ thương
Trong “ Khoảng cách ” có nhiều bài ca tụng những địa điểm đẹp của quốc gia, như Thăng Long TP. Hà Nội, Đền Hùng, Đà Lạt, Chùa keo, Hành Thiện, Xuân Hồng, Thịnh Long …
Nổi bật hơn cả vẫn là những tứ thơ đẹp, tinh xảo, chan chứa cảm hứng của nhà thơ từng chung hơi thở và nhịp đập trái tim với cán bộ, chiến sỹ trên mặt trận :
Gọi là cọc chẳng phàn nàn
Đóng vai phu cũng không than, chẳng phiền
Cốt sao bộ đội nghỉ yên
Nước không ướt võng những đêm mưa rừng. ( Cọc phụ )
Bộ đội hành quân ra mặt trận nhiều phen phải ngủ rừng. Dân địa phương đi qua gọi nơi đông người trú quân là “ Bãi khách ” :
Bãi là bãi mía, bãi lau Bãi khoai, bãi sắn, bãi rau, bãi bằng Hỏi đâu bãi khách, thưa rằng Nơi bộ đội nghỉ trên rừng Trường Sơn
Bộ đội truy đuổi giặc nhiều ngày. Lắm khi khâu phục vụ hầu cần chạy theo không kịp. Bộ đội ta phải ăn rau rừng, có loại như rau cần trồng :
Rau cần nấu hến lẽ thường
Rau cần rừng thấy bên đường hành quân

Rừng che bộ đội bao lần

Ta cần rừng chứ, rau cần rừng ư ? ( Rau cần rừng )
Thơ của Lê Văn Hy không có sự tùy tiện, ngẫu hứng trong câu chữ. Hầu như bài nào cũng tự nhiên, trong trẻo như nước suối đầu nguồn. Bởi thế thơ bạn tôi được nhiều người tìm đọc và bình phẩm. Tuy chưa được như Thế hệ Vàng thơ nước nhà, nhưng trong trang lứa đương đại, thơ Hy Lê đang vươn tới đỉnh điểm .

Source: https://vh2.com.vn
Category : Trái Đất