Làm việc trong các công ty, tập đoàn lớn đem lại nhiều lợi ích và sự ổn định cho mỗi cá nhân, tuy nhiên đây cũng chính là hạn chế...
Thiền Vipassanā: Bốn Nền Tảng Chánh Niệm (sách PDF)
THÍCH NHẬT TỪ
THIỀN VIPASSANĀ:
Bạn đang đọc: Thiền Vipassanā: Bốn Nền Tảng Chánh Niệm (sách PDF)
BỐN NỀN TẢNG CHÁNH NIỆM
(
Phân tích Kinh tứ niệm xứ
)
NHÀ XUẤT BẢN HỒNG ĐỨC
MỤC LỤC
Lời nói đầu
Chương I : Những điều cần biết về thiền
1. Các kinh về tu thiền
2. Giá trị của thiền tứ niệm xứ
3. Địa điểm thực tập thiền
4. Cách ngồi thiền
5. Cách làm chủ tâm
6. Đối tượng quán chiếu trong tu thiền
Chương II: Quán và làm chủ thân thể
1. Quán thân trên thân
2. Làm chủ hơi thở
3. Làm chủ đại oai nghi
4. Làm chủ tiểu oai nghi
5. Quán bốn yếu tố phổ quát (tứ đại)
6. Quán tử thi
7. Kết luận
Chương III: Quán và làm chủ cảm hứng
1. Bản chất của xúc cảm
2. Thực tập “tôi cảm nhận hạnh phúc”
3. Thực tập “tôi cảm nhận khổ đau”
4. Thực tập “tôi cảm nhận không khổ đau, không hạnh phúc’
5. Thực tập “tôi cảm nhận niềm hạnh phúc thuộc về vật chất”
6. Thực tập “tôi cảm nhận niềm hạnh phúc thuộc về tinh thần”
7. Thực tập “tôi cảm xúc khổ đau thuộc về vật chất”
8. Thực tập “tôi cảm xúc khổ đau thuộc về tinh thần”
9. Thực tập “tôi cảm xúc không khổ đau, không hạnh phúc thuộc về vật chất”
10. Thực tập “tôi cảm xúc không khổ đau, không hạnh phúc thuộc về tinh thần”
11. Kết luận
Chương IV : Quán và làm chủ tâm
1. Tổng quan về quán chiếu tâm
2. Khái niệm “ tâm, ý và thức ” 3. Biết rõ “ tâm có tham hay không tham ”
4. Biết rõ “tâm sân hay tâm không sân”
3. Biết rõ “tâm si và tâm không si”
4-5. Biết rõ “tâm chuyên chú, tâm tán loạn” và “tâm có định hay tâm không định”
6. Biết rõ “tâm
quảng đại
hay tâm nhỏ nhoi”
7. Nắm rõ “ tâm hữu hạn hay tâm vô hạn ”
8. Biết rõ “tâm giải thoát và tâm trói buộc”
Chương V: Quán pháp 1: Giải phóng tâm khỏi các trói buộc
1. Khái quát tứ niệm xứ và quán niệm hơi thở
2. Cởi trói tâm khỏi tham ái
3. Cởi trói tâm khỏi sân hận
4. Cởi trói tâm khỏi không tin
5. Cởi trói tâm khỏi hôn trầm và thùy miên
6. Cởi trói tâm khỏi sự xê dịch và tiếc nuối
7. Thay lời kết
Chương VI: Quán pháp 2: Năm uẩn, sáu giác quan và sáu đối tượng
1. Khái niệm “ quán pháp trên pháp ” 2. Quán và làm chủ “ năm thủ uẩn ”
3. Quán và làm chủ 6 giác quan, 6 đối tượng nhận thức
4. Kết luận
Chương VII: Quán pháp 3: Bảy yếu tố giác ngộ (Thất giác chi)
1. Hai bài kinh hộ niệm cầu an
2. Chính niệm
3. Trạch pháp
4. Tinh tấn
5. Hỷ
6. Khinh an
7. Chính định
8. Buông xả
Chương VIII: Quán pháp 4: Tứ thánh đế
1. Khái lược về bốn đối tượng quán niệm (Tứ niệm xứ)
2. Vai trò của tứ thánh đế
3. Chân lý Phật là trung đạo
4. Bước 1, thừa nhận khổ đau là hiện thực
5. Bước 2, truy tìm nguyên do khổ đau
6. Bước 3, trải nghiệm niềm hạnh phúc, niết-bàn
thực hành thực tế bát chánh đạo
7. Bước 4 ,
LỜI NÓI ĐẦU
Tác phẩm này là tuyển tập 7 bài pháp thoại của tôi trong những khóa tu thiền Vipassanā tại chùa Giác Ngộ và một số ít nơi khác. Kinh văn chính yếu của tác phẩm này dựa vào kinh Tứ niệm xứ thuộc kinh Trung bộ và kinh Đại niệm xứ thuộc kinh Trường bộ vốn là 2 bản văn quan trọng nhất ra mắt về thiền của đức Phật. Thiền quán hay thiền minh sát ( Vipassanā bhāvanā ) còn được gọi là thiền tuệ ( vipassanāñāṇa ). Giá trị của thiền quán là mang lại trí tuệ cho người thực tập thiền. Minh sát ( vipassanā ) là nhìn thẩm thấu bằng tâm, nhìn mọi sự vật một cách thâm thúy “ như chúng đang là ”, hạn chế tối đa sự can thiệp ý thức chủ quan vào sự vật được quan sát, khi những giác quan tiếp xúc với đối tượng người tiêu dùng trần cảnh. Khi những suy luận dù là diễn dịch, quy nạp, tổng hợp, nghiên cứu và phân tích … thoát ra khỏi ý thức về chấp ngã chủ quan và chấp ngã khách quan, lúc đó ta hoàn toàn có thể nhìn sự vật đúng với thực chất của chúng. Cốt lõi của thiền quán là chính niệm trực tiếp ( satimā ) và tỉnh giác trực tiếp ( sampajāno ) với đối tượng người dùng “ thân, thọ, tâm, pháp ”, đồng thời, phải tinh tấn tỉnh giác ( ātāpī ) liên tục. “ Thiền quán ” giúp hành giả thấu rõ những trạng thái vô thường ( aniccalakkhaṇa ), trạng thái khổ ( dukkhalakkhaṇa ) và trạng thái vô ngã ( anattalakkhaṇa ), hướng đến sự chấm hết tham ái, phiền não, đạt được những thánh quả và chứng đắc niết bàn.
Bốn đối tượng thiền quán gồm thân thể, cảm giác, tâm và pháp.
Quán thân là đang nhận biết về thân (kāye kāyānupassī viharati) còn gọi là “quán thân trên thân” tức “thân hành niệm” (Kāyanupassanā satipaṭṭhāna, 身行念) hay “thân quán niệm xứ”. Hành giả thấy rõ thân thể (kāyānupassī) là tổ hợp được hình thành bởi đất, nước, lửa, gió, gồm 32 yếu tố trược uế, bị vô thường chi phối, nên thân thể này là phi-ngã.
Quán cảm thọ là đang nhận ra về cảm thọ ( vedanāsu ve [ 1 ] danānupassī viharati ) còn gọi là “ quán thọ trên cảm thọ ” tức “ thọ hành niệm ” ( P. Vedanānupassanā satipaṭṭhāna, 受行 念 ), hay “ thọ quán niệm xứ ”. Có 9 loại cảm hứng mà người tu thiền cần làm chủ gồm có : ( i ) Cảm xúc khổ đau, ( ii ) xúc cảm niềm hạnh phúc, ( iii ) cảm hứng không khổ – vui, ( iv ) cảm hứng khổ đau hợp với ngũ dục, ( v ) xúc cảm niềm hạnh phúc hợp với ngũ dục, ( vi ) cảm hứng không khổ – vui hợp với ngũ dục, ( vii ) cảm xúc khổ đau không hợp với ngũ dục, ( viii ) cảm xúc niềm hạnh phúc không hợp với ngũ dục và ( ix ) xúc cảm không khổ – vui không hợp với ngũ dục. Hành giả thấy rõ hành tung và thực chất của những loại cảm hứng ( vedanānupassī ) trong thân, trên cơ sở này, làm chủ dòng xúc cảm đang diễn ra trong tâm tất cả chúng ta. Quán tâm là đang nhận ra về tâm ( citte cittānupassī vi [ 1 ] harati ) còn gọi là “ quán tâm trên tâm ” tức “ tâm hành niệm ” ( P. Cittānupassanā satipaṭṭhāna, 心行念 ), hay “ tâm quán niệm xứ ”. Hành giả thấy rõ thực chất của tâm với những cặp phạm trù trái chiều : Tâm tham trái chiều với buông xả, tâm sân trái chiều với từ bi, tâm si trái chiều với trí tuệ, tâm buồn ngủ – tâm tỉnh táo, tâm chuyên chú – tâm tán loạn, tâm quảng đại – tâm nhỏ nhoi, tâm bậc thấp – tâm bậc cao, tâm định – tâm không định, tâm hữu hạn – tâm vô hạn, tâm phàm – tâm thánh, tâm trói buộc – tâm giải thoát … Hành giả giữ lại những hạt giống tích cực ở tâm, theo đó, phát huy những phẩm chất tích cực của tâm như từ bi, hoan hỷ, buông xả, vĩ đại, vô thượng, giải thoát. Quán pháp là đang phân biệt về pháp ( dhammesu dham [ 1 ] mānupassī viharati ) còn gọi là “ quán pháp trên pháp ” tức “ pháp hành niệm ” ( P. Dhammānupassanā satipaṭṭhāna, 心行念 ), hay “ pháp quán niệm xứ ”. Hành giả thấy rõ những ý niệm xấu đi trói buộc tâm, năm thủ uẩn, sáu giác quan và sáu đối tượng người dùng giác quan, vốn làm tâm không được tự do, giải thoát, theo đó, nỗ lực làm chủ chúng bằng thực tập bốn chân lý thánh và bảy yếu tố giác ngộ.
Không chỉ tu “thiền quán” trong lúc ngồi, các thiền sinh cần trải nghiệm “cái nhìn như thật” trong đi, đứng và nằm. Trong các khóa tu thiền thuộc hệ thống Đạo Phật Ngày Nay, các Thiền sinh thường thực tập thiền tọa 60 phút, sau đó, 30 phút thiền hành. Cứ như thế thực tập buổi sáng, buổi chiều và buổi tối, đan xen lẫn nhau, khi thiền tọa kết thúc thì tiếp nối bằng thiền hành và ngược lại. Cốt lõi của tu thiền là làm chủ cảm xúc, tri giác, tâm tư, nhận thức, thói quen và lối sống.
Cốt lõi của định nằm ở xả niệm và thanh tịnh. Ngoài việc tăng cường sức khỏe thể chất, người tu thiền chỉ và thiền quán còn đạt được ba tuệ giác lớn để trở thành bậc thánh, giác ngộ và giải thoát toàn triệt.
Rằm tháng giêng, năm Mậu Tuất 2018
Thích Nhật Từ Cẩn chí
Source: https://vh2.com.vn
Category : Startup