Networks Business Online Việt Nam & International VH2

GIÁO TRÌNH TLH ĐẠI CƯƠNG – NguyễN Quang UẨN – NGUYỄN QUANG UẨN (Chủ biên) NGUYỄN VĂN LŨY- – StuDocu

Đăng ngày 19 August, 2022 bởi admin

NGUYỄN QUANG UẨN (Chủ biên)
NGUYỄN VĂN LŨY- ĐINH VĂN VANG

GIÁO TRÌNH

TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG

NHÀ XUẤT BẢN ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

Chương 1

TÂM LÍ HỌC LÀ MỘT KHOA HỌC

Từ khi loài người sinh ra, trên Trái Đất Open một hiện tượng kỳ lạ trọn vẹn mới lạ – hiện tượng kỳ lạ tâm lý người mà nền văn minh cổ đại gọi là linh hồn. Khoa học nghiên cứu và điều tra hiện tượng kỳ lạ này gọi là tâm lý học. Từ những tư tưởng tiên phong sơ khai về hiện tượng kỳ lạ tâm lý, tâm lý học đã hình thành, tăng trưởng không ngừng và ngày càng giữ một vị trí quan trọng trong nhóm những khoa học về con người. Đây là một khoa học có ý nghĩa to lớn trong việc phát huy tác nhân con người trong mọi nghành nghề dịch vụ của đời sống xã hội. * * I. KHÁI QUÁT VỀ KHOA HỌC TÂM LÝ

  1. Vài nét về lịch sử hình thành và phát triển tâm lý học**
    1. Những tư tưởng tâm lí học thời cổ đại
  • Loài người ra đời trên Trái Đất này mới được khoảng 10 vạn năm – con
    người trí khôn có một cuộc sống có lí trí, tuy buổi đầu còn rất sơ khai, mông
    muội.
    Trong các di chỉ của người nguyên thủy, người ta thấy những bằng cứ
    chứng tỏ đã có quan niệm về cuộc sống của “hồn”, “phách” sau cái chết của thể
    xác. Trong các bản văn tự đầu tiên từ thời cổ đại, trong các kinh ở Ấn Độ đã có
    những nhận xét về tính chất của “hồn”, đã có những ý tưởng tiền khoa học về tâm
    lí.

  • Khổng Tử ( 551 – 479 TCN ) nói đến chữ “ tâm ” của con người là “ nhân, trí, dũng ” về sau học trò của Khổng Tử nêu thành “ nhân, lễ nghĩa, trí, tín ” .
  • Nhà hiền triết Hi Lạp cổ đại là Xôcrat ( 469 – 399 TCN ) đã công bố câu châm ngôn nổi tiếng : “ Hãy tự biết mình ”. Đây là một xu thế có giá trị to lớn cho tâm lí học : con người hoàn toàn có thể và cần phải tự hiểu biết mình, tự nhận thức, tự ý thức về cái ta .
  • Thuyết nhị nguyên R. Đềcác ( 1596 – 1650 ) đại diện thay mặt cho phái “ nhị nguyên luận ” cho rằng vật chất và tâm hồn là hai thực thể song song sống sót. Đềcác coi khung hình con người phản xạ như một chiếc máy. Còn bản thể ý thức, tâm lí của con người thì không hề biết được. Song Đềcác cũng đã đặt cơ sở tiên phong cho việc tìm ra chính sách phản xạ trong hoạt động giải trí tâm lí. Sang thế kỉ XVIII, tâm lí học mở màn có tên gọi. Nhà triết học Đức Vôn Phơ đã chia nhân chủng học ( nhân học ) ra thành hai thứ khoa học, một là khoa học về khung hình, hai là tâm lí học. Năm 1732, ông xuất bản cuốn “ tâm lí học kinh nghiệm tay nghề ”. Sau đó 2 năm ( 1734 ) sinh ra cuốn “ Tâm lí học lí trí ”. Thế là “ Tâm lí học ” sinh ra từ đó .
  • Thế kỉ XVII – XVIII – XIX cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy tâm và duy vật xung quanh mối quan hệ giữa tâm và vật .
  • Các nhà triết học duy tâm chủ quan như Béccơli (1685 – 1753). E.
    Makhơ (1838 – 1916) cho rằng thế giới không có thực. Thế giới chỉ là “phức hợp
    các cảm giác chủ quan” của con người. Còn D (1711 – 1776) coi thế giới
    chỉ là những “kinh nghiệm chỉ quan”. Nguồn gốc của kinh nghiệm là do đâu?
    Hium cho rằng con người không thể biết. Vì thế, người ta vẫn coi Hium là thuộc
    vào phái bất khả tri.
    Học thuyết duy tâm phát triển tới mức độ cao thể hiện ở “ý niệm tuyệt đối”
    của Hêghen.
  • Thế kỉ XVII – XVIII – XIX, các nhà triết học và tâm lí học phương tây
    đã phát triển chủ nghĩa duy vật lên một bước cao hơn: Spinôda (1632 – 1667) coi
    tất cả các vật chất đều có tư duy; Lametri (1709 – 1751) một trong các nhà sáng
    lập ra chủ nghĩa duy vật Pháp thừa nhận chỉ có cơ thể mới có cảm giác, còn
    Canbanic (1757 – 1808) cho rằng não tiết ra tư tưởng, giống như gan tiết ra mật.

L. Phơbách (1804 -1872) nhà duy vật lỗi lạc bậc nhất trước khi chủ nghĩa
Mác ra đời, khẳng định: Tinh thần, tâm lí không thể tách rời khỏi não người, nó là
sản vật của thứ vật chất phát triển tới mức độ cao là bộ não.
Đến nửa đầu thế kỉ XIX có rất nhiều điều kiện để tâm lí học trưởng thành,
tự tách ra khỏi mối quan hệ phụ thuộc chặt chẽ vào triết học với tư cách là một bộ
phận, một chuyên ngành của triết học.
1. Tâm lí học trở thành một khoa học độc lập

  • Từ đầu thế kỉ XIX trở đi, nền sản xuất thế giới đã phát triển mạnh, thúc
    đẩy sự tiến bộ không ngừng của nhiều lĩnh vực khoa học, kỹ thuật, tạo điều kiện
    cho tâm lí học trở thành một khoa học độc lập. Trong đó phải kể tới thành tựu của
    các ngành khoa học có liên quan như: thuyết tiến hóa của S. Đácuyn (1809 –
  1. nhà duy vật Anh, thuyết tâm sinh lí học giác quan của Hemhôn (1821 –
  2. người Đức, thuyết tâm – vật lí học của Phécne (1801 – 1887) và Vêbe
    (1795 – 1878) cả hai đề là người Đức, tâm lí học phát sinh của Gantôn (
    -1911) người Anh, và các công trình nghiên cứu về tâm thần học của bác sĩ Sáccô
    (1875 -1893) người Pháp…
  • Thành tựu của chính khoa học tâm lí lúc bấy giờ, cùng với thành tựu của
    các lĩnh vực khoa học nói trên là điều kiện cần thiết giúp cho tâm lí học đã đến
    lúc trở thành khoa học độc lập. Đặc biệt trong lịch sử tâm lí học, một sự kiện
    không thể không nhắc tới là vào năm 1879, nhà tâm lí học Đức Vuntơ (1832 –
  1. đã sáng lập ra phòng thí nghiệm tâm lí học đầu tiên trên thế giới tại thành
    phố Laixic. Và một năm sau đó trở thành Viện Tâm lí học đầu tiên của thế giới,
    xuất bản các tạp chí tâm lí học. Từ vương quốc của chủ nghĩa duy tâm, coi ý thức
    chủ quan là đối tượng của tâm lí học và con đường nghiên cứu ý thức là các
    phương pháp nội quan, tự quan sát, Vuntơ đã bắt đầu chuyển sang nghiên cứu tâm
    lí, ý thức một cách khách quan bằng quan sát, thực nghiệm, đo đạc…

hành vi phản ứng trong thế giới một cách cơ học, máy móc. Đây chính là quan
điểm tự nhiên chủ nghĩa, phi lịch sử và thực dụng.
Về sau này các đại biểu của chủ nghĩa hành vi mới như: Tonmen, Hulơ,
Skinơ… có đưa vào công thức S – R những “biến số trung gian” bao hàm một số
yếu tố như: nhu cầu, trạng thái chờ đón, kinh nghiệm sống của con người, hoặc
hành vi tạo tác “operant” nhằm đáp lại những kích thích có lợi cho cơ thể, thì về
cơ bản chủ nghĩa hành vi mới vẫn mang tính máy móc, thực dụng của chủ nghĩa
hành vi cổ điển Oatsơn.
2. Tâm lý học Gestalt (còn gọi là tâm ý học cấu trúc)
Dòng phái này ra đời ở Đức, gắn liền với tên tuổi các nhà tâm lý học:
Vecthaimơ (1880 – 1943), Côlơ (1887 – 1967), Côpca (1886 – 1947). Họ đi sâu
nghiên cứu các quy luật về tính ổn định và tính trọn vẹn của tri giác, quy luật
“bừng sáng” của tư duy. Trên cơ sở thực nghiệm, các nhà tâm lý học Gestalt
khẳng định các quy luật của tri giác, tư duy và tâm lý của con người do các cấu
trúc tiền định của não quyết định. Các nhà tâm lý học Gestalt ít chú ý đến vai trò
của vốn kinh nghiệm sống, kinh nghiệm xã hội lịch sử.
2. Phân tâm học
Thuyết phân tâm do Sơt (1859 – 1939) bác sĩ người Áo xây dựng nên.
Luân điểm cơ bản của Phrơt tách con người thành ba khối: cái ấy (cái vô thức),
cái tôi và cái siêu tôi. Cái ấy bao gồm các bản năng vô thức: ăn uống, tình dục, tự
vệ, trong đó bản năng tình dục giữ vai trò trung tâm quyết định toàn bộ đời sống
tâm lý và hành vi của con người, cái ấy tồn tại theo nguyên tắc thoả mãn và đòi
hỏi. Cái tôi – con người thường ngày, con người có ý thức, tồn tại theo nguyên tắc
hiện thực. Cái tôi có ý thức theo Phrot là cái tôi giả hiệu, cái tôi bề ngoài của cái
nhân lõi bên trong là “cái ấy”: cái siêu tôi – là cái siêu phẩm, “cái tôi lý tưởng”
không bao giờ vươn tới được và tồn tại theo nguyên tắc kiểm duyệt, chèn ép. Như
vậy phân tâm học đã đề cao quá đáng cái bản năng vô thức, dẫn đến phủ nhận ý

thức, phủ nhận bản chất xã hội, lịch sử của tâm lý con người. Đồng nhất tâm lý
của con người với tâm lý loài vật. Học thuyết Phrơt là cơ sở ban đầu của chủ
nghĩa hiện sinh, thể hiện quan điểm sinh vật hoá tâm lý con người.
Tóm lại, ba dòng phái tâm lý học nói trên ra đời ở cuối thế kỷ XIX, đầu thế
kỷ XX góp phần tấn công vào dòng phái chủ quan trong tâm lý học, đưa tâm lý
học đi theo hướng khách quan. Nhưng do những giới hạn lịch sử, ở họ có những
hạn chế nhất định như thể hiện xu thế cơ học hoá, sinh vật hoá tâm lý con người,
bỏ qua bản chất xã hội lịch sử và tính chủ thể của đời sống tâm lý con người.
2. Tâm lý học nhân văn
Dòng phải tâm lý học nhân văn do C. Rôgio (1902-1987) và H. Maxlâu
sáng lập. Các nhà tâm lý học nhân văn quan niệm rằng bản chất con người vốn tốt
đẹp, con người có lòng vị tha, có tiềm năng kỳ diệu.
Maxlâu đã nêu lên 5 mức độ nhu cầu cơ bản của con người xét thứ tự từ
thấp đến cao:
– Nhu cầu sinh lý cơ bản.
– Nhu cầu về quan hệ xã hội.
– Nhu cầu được kính nể, ngưỡng mộ…
– Nhu cầu phát huy bản ngã, thành đạt.
C. Rôgtơ cho rằng con người ta cần phải đối xử với nhau một cách tế nhị,
cởi mở, biết lắng nghe và chờ đợi, cảm thông với nhau. Tâm lý học cần phải giúp
cho con người tìm được bản ngã đích thực của mình, để có thể sống một cách
thoả mái, cởi mở, hồn nhiên và sáng tạo. Tuy nhiên, tâm lý học nhân văn đề cao
những điều cảm nghiệm, thể nghiệm chủ quan của bản thân mỗi người, tách con
người khỏi các mối quan hệ xã hội, chú ý tới mặt nhân văn trừu tượng trong con
người vì thế thiếu vắng con người trong hoạt động thực tiễn.
2. Tâm lý học nhận thức

Tâm lý người mang tính chủ thể, có bản chất xã hội, tâm lý người được
hình thành, phát triển và thể hiện trong hoạt động và trong các mối quan hệ giao
lưu của con người trong xã hội. Chính vì thế tâm lý học macxit được gọi là “tâm
lý học hoạt động”.
3. Đối tượng, nhiệm vụ của tâm lí học
3. Đối tượng của tâm lí học
Trong tác phẩm “Phép biện chứng của tự nhiên” Ph. Ăngghen đã chỉ rõ thế
giới luôn luôn vận động, mỗi một khoa học nghiên cứu một dạng vận động của
thế giới. Các khoa học phân tích các dạng vận động của thế giới tự nhiên thuộc
nhóm khoa học tự nhiên. Các khoa học phân tích các dạng vận động của xã hội
thuộc nhóm các khoa học xã hội. Các khoa học nghiên cứu các dạng vận động
chuyển tiếp trung gian từ dạng vận động này sang dạng vận động kia được gọi là
các khoa học trung gian, chẳng hạn lí sinh học, hóa sinh học, tâm lí học… trong
đó tâm lí học nghiên cứu dạng vận động chuyển tiếp từ vận động sinh vật sang
vận động xã hội, từ thế giới khách quan vào mỗi con người sinh ra hiện tượng
tâm lí – với tư cách là một hiện tượng tinh thần.
Trong lịch sử xa xưa của nhân loại, trong tiếng Latinh “Psyche” là “linh
hồn”, “tinh thần” và “logos” là “học thuyết”, là “khoa học”, vì thế “tâm lí học”
(Psychologie) là khoa học về tâm hồn. Nói một cách khái quát nhất: Tâm lí bao
gồm tất cả những hiện tượng tinh thần xảy ra trong đầu óc con người, gắn liền và
điều hành mọi hành động, hoạt động của con người. Các hiện tượng tâm lí đóng
vai trò quan trọng đặc biệt trong đời sống con người, trong quan hệ giữa con
người với con người và con người với cả xã hội loài người.
Như vậy, đối tượng của tâm lí học là các hiện tượng tâm lí với tư cách là
một hiện tượng tinh thần do thế giới khách quan tác động vào não con người sinh
ra, gọi chung là các hoạt động tâm lí. Tâm lí học nghiên cứu sự hình thành, vận
hành và phát triển của hoạt động tâm lí.

3. Nhiệm vụ của tâm lí học
Nhiệm vụ cơ bản của tâm lí học là nghiên cứu bản chất của hoạt động tâm
lí, các quy luật nảy sinh và phát triển tâm lí, cơ chế diễn biến và thể hiện tâm lí,
quy luật về mối quan hệ giữa các hiện tượng tâm lí, cụ thể là nghiên cứu:

  • Những yếu tố khách quan, chủ quan nào đã tạo ra tâm lí người.
  • Cơ chế hình thành, biểu hiện của hoạt động tâm lí
  • Tâm lí của con người hoạt động như thế nào?
  • Chức năng, vai trò của tâm lí đối với hoạt động của con người?
    Có thể nêu lên các nhiệm vụ cụ thể của tâm lí học như sau:
  • Nghiên cứu bản chất của hoạt động tâm lí cả về mặt số lượng và chất
    lượng.
  • Phát hiện các quy luật hình thành và phát triển tâm lí.
  • Tìm ra cơ chế của các hiện tượng tâm lí.
    Trên cơ sở các thành tựu nghiên cứu, tâm lí học đưa ra những giải pháp
    hữu hiệu cho việc hình thành, phát triển tâm lí, sử dụng tâm lí trong nhân tố con
    người có hiệu quả nhất. Để thực hiện các nhiệm vụ nói trên, tâm lí học phải liên
    kết, phối hợp chặt chẽ với nhiều khoa học khác.
    **II. BẢN CHẤT, CHỨC NĂNG, PHÂN LOẠI CÁC HIỆN TƯỢNG
    TÂM LÝ
  1. Bản chất của tâm lí người**
    Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: Tâm lí người là sự phản ánh
    hiện thực khách quan vào não người thông qua chủ thể, tâm lí người có bản chất
    xã hội – lịch sử.
    1. Tâm lí người là sự phản ánh hiện thực khách quan vào não người
    thông qua chủ thể
  • Hình ảnh tâm lí mang tính sinh động, sáng tạo, thí dụ: hình ảnh tâm lí về
    cuốn sách trong đầu một con người biết chữ, khác xa về chất với hình ảnh vật lí
    có tính chất “chết cứng”, hình ảnh vật chất của chính cuốn sách đó có ở trong
    gương.
  • Hình ảnh tâm lí mang tính chủ thể, mang đậm màu sắc cá nhân (hay nhóm
    người) mang hình ảnh tâm lí đó, hay nói cách khác, hình ảnh tâm lí là hình ảnh
    chủ quan về hiện thực khách quan. Tính chủ thể của hình ảnh tâm lí thể hiện ở
    chỗ: Mỗi chủ thể trong khi tạo ra hình ảnh tâm lí về thế giới đã đưa vốn hiểu biết,
    vốn kinh nghiệm, đưa cái riêng của mình (về nhu cầu, xu hướng, tính khí, năng
    lực)… vào trong hình ảnh đó, làm cho nó mang đậm màu sắc chủ quan.
    Hay nói cách khác, con người phản ánh thế giới bằng hình ảnh tâm lí,
    thông qua “lăng kính chủ quan” của mình.
  • Tính chủ thể trong phản ánh tâm lí thể hiện ở chỗ:
  • Cùng nhận sự tác động của thế giới về cùng một hiện thực khách quan
    nhưng ở những chủ thể khác nhau cho ta những hình ảnh tâm lí với những mức
    độ, sắc thái khác nhau.
  • Cũng có khi cùng một hiện thực khách quan tác động đến một chủ thể
    duy nhất nhưng vào những thời điểm khác nhau, ở những hoàn cảnh khác nhau
    với trạng thái cơ thể, trạng thái tinh thần khác nhau, có thể cho ta thấy mức độ
    biểu hiện và các sắc thái tâm lí khác nhau ở chủ thể ấy.
  • Chính chủ thể mang hình ảnh tâm lí là người cảm nhận, cảm nghiệm và
    thể hiện nó rõ nhất. Cuối cùng thông qua các mức độ và sắc thái tâm lí khác nhau
    mà mỗi chủ thể tỏ thái độ, hành vi khác nhau đối với hiện thực.
    Do đâu mà tâm lí người này khác với tâm lí người kia về thế giới?
    Điều đó do nhiều yếu tố chi phối, trước hết, do mỗi con người có những
    đặc điểm riêng về cơ thể, giác quan, hệ thần kinh và não bộ. Mỗi người có hoàn
    cảnh sống khác nhau, điều kiện giáo dục không như nhau và đặc biệt là mỗi cá

nhân thể hiện mức độ tích cực hoạt động, tích cực giao lưu khác nhau trong cuộc
sống. Vì thế, tâm lí người này khác với tâm lí người kia.
Từ luận điểm nói trên, chúng ta có thể rút ra một số kết luận thực tiễn sau:
– Tâm lí có nguồn gốc là thế giới khách quan, vì thế khi nghiên cứu, cũng
như khi hình thành, cải tạo tâm lí người phải nghiên cứu hoàn cảnh trong đó con
người sống và hoạt động.
– Tâm lí người mang tính chủ thể, vì thế trong dạy học, giáo dục cũng như
trong quan hệ ứng xử phải chú ý nguyên tắc sát đối tượng (chú ý đến cái riêng
trong tâm lí mỗi người).
– Tâm lí là sản phẩm của hoạt động và giao tiếp, vì thế phải tổ chức hoạt
động và các quan hệ giao tiếp để nghiên cứu, hình thành và phát triển tâm lí con
người.
1. Bản chất xã hội của tâm lí người
– Tâm lí người là sự phản ánh hiện thực khách quan, là chức năng của não,
là kinh nghiệm xã hội lịch sử biến thành cái riêng của mỗi người. Tâm lí con
người khác xa với tâm lí của một số loài động vật cao cấp ở chỗ: Tâm lí người có
bản chất xã hội và mang tính lịch sử.
– Bản chất xã hội và tính lịch sử của tâm lí người thể hiện như sau:
+ Tâm lí người có nguồn gốc là thế giới khách quan (thế giới tự nhiên và
xã hội), trong đó cuộc sống xã hội là cái quyết định (quyết định luận xã hội).
Ngay cả phần tự nhiên trong thế giới cũng được xã hội hóa. Phần xã hội hóa thế
giới quyết định tâm lí người thể hiện qua: các quan hệ kinh tế – xã hội, các mối
quan hệ đạo đức pháp quyền, các mối quan hệ con người – con người từ quan hệ
gia đình, làng xóm, quê hương, khối phố cho đến các quan hệ nhóm, các quan hệ
cộng đồng… các mối quan hệ trên quyết định bản chất tâm lí người (bản chất con
người là sự tổng hòa các mối quan hệ xã hội). Trên thực tế, con người thoát li
khỏi các quan hệ xã hội, quan hệ người – người, đều làm cho tâm lí mất bản tính

qua hoạt động, hành động, hành vi. Mỗi hoạt động, hành động của con người đều
do “cái tâm lí” điều hành. Sự điều hành ấy biểu hiện qua những mặt sau:
Tâm lí có chức năng chung là định hướng cho hoạt động, ở đây muốn nói
tới vai trò động cơ, mục đích của hoạt động. Động cơ có thể là một nhu cầu được
nhận thức, hứng thú, lí tưởng, niềm tin, lương tâm, danh vọng…
– Tâm lí là động lực thôi thúc, lôi cuốn con người hoạt động, khắc phục
mọi khó khăn vươn tới mục đích đã đề ra
– Tâm lí điều khiển, kiểm tra quá trình hoạt động bằng chương trình, kế
hoạch, phương pháp, phương thức tiến hành hoạt động, làm cho hoạt động của
con người trở nên có ý thức, đem lại hiệu quả nhất định.
– Cuối cùng, tâm lí giúp con người điều chỉnh hoạt động cho phù hợp với
mục tiêu đã xác định, đồng thời phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh thực tế cho
phép.
Nhờ có các chức năng định hướng, điều khiển, điều chỉnh nói trên mà tâm
lí giúp con người không chỉ thích ứng với hoàn cảnh khách quan, mà còn nhận
thức, cải tạo và sáng tạo ra thế giới, và chính trong quá trình đó con người nhận
thức, cải tạo chính bản thân mình.
Nhờ chức năng điều hành nói trên mà nhân tố tâm lí giữ vai trò cơ bản, có
tính quyết định trong hoạt động của con người.
3. Phân loại các hiện tượng tâm lý
Có nhiều cách phân loại hiện tượng tâm lí:
3. Cách phân loại phổ biến trong các tài liệu tâm lí học là việc phân
loại các hiện tượng tâm lí theo thời gian tồn tại của chúng và vị trí tượng đối của
chúng trong nhân cách. Theo cách phân loại này các hiện tượng tâm lí có ba loại
chính:
– Các quá trình tâm lí,
– Các trạng thái tâm lí,

  • Các thuộc tính tâm lí.
  • Các quá trình tâm lí là những hiện tượng tâm lí diễn ra trong thời gian
    tương đối ngắn, có mở đầu, diễn biến, kết thúc tương đối rõ ràng. Người ta
    thường phân biệt thành ba quá trình tâm lí:
  • Các quá trình nhận thức gồm: cảm giác, tri giác, trí nhớ, tưởng tượng, tư
    duy, ngôn ngữ…
  • Các quá trình cảm xúc biểu thị sự vui mừng hay tức giận, dễ chịu hay khó
    chịu, nhiệt tình hay thờ ơ…
  • Quá trình hành động ý chí.
  • Các trạng thái tâm lí là những hiện tượng tâm lí diễn ra trong thời gian
    tương đối dài, việc mở đầu và kết thúc không rõ ràng như: chú ý, tâm trạng..
  • Các thuộc tính tâm lí là những hiện tượng tâm lí tương đối ổn định, khó
    hình thành và khó mất đi, tạo thành những nét riêng của nhân cách. Người ta
    thường nói tới bốn nhóm thuộc tính cá nhân như: Xu hướng, tính cách, khí chất
    và năng lực.
    Có thể biểu diễn mối quan hệ giữa các hiện tượng tâm lí bằng sơ đồ sau:
    Sơ đồ 1. Mối quan hệ giữa các hiện tượng tâm lí

3. Có thể phân biệt hiện tượng tâm lí thành
Các hiện tượng tâm lí có ý thức

  • Các hiện tượng tâm lí chưa được ý thức

Tâm líCác thu c tnh ộ tâm líCác tr ng thái ạ tâm líCác quy trình tâm lí

Hoạt động là phương thức hình thành, phát triển và thể hiện tâm lý, ý thức,
nhân cách. Đồng thời tâm lý, ý thức, nhân cách là cái điều hành hoạt động. Vì thế
chúng thống nhất với nhau. Nguyên tắc này cũng khẳng định tâm lý luôn luôn
vận động và phát triển. Cần phải nghiên cứu tâm lý trong sự vận động của nó,
nghiên cứu tâm lý qua sự diễn biến, cũng như qua sản phẩm của hoạt động.
1. Phải nghiên cứu các hiện tượng tâm lí trong các mối liên hệ giữa
chúng với nhau và trong mối liên hệ giữa chúng với các loại hiện tượng khác

Các hiện tượng tâm lí không tồn tại biệt lập mà chúng có quan hệ chặt chẽ
với nhau, bổ sung cho nhau, chuyển hóa cho nhau, đồng thời chúng còn chi phối
và chịu sự chi phối của các hiện tượng khác.
1. Phải nghiên cứu tâm lý của một con người cụ thể, của một nhóm
người cụ thể,
chứ không nghiên cứu tâm lý một cách chung chung, nghiên cứu
tâm lý ở một con người trừu tượng, một cộng đồng trừu tượng.
2. Các phương pháp nghiên cứu tâm lý
Có nhiều phương pháp nghiên cứu tâm lý như: quan sát, thực nghiệm, trắc
nghiệm, trò chuyện, điều tra, nghiên cứu sản phẩm hoạt động, phân tích tiểu sử…
2. Phương pháp quan sát
Quan sát được dùng trong nhiều khoa học, trong đó có tâm lý học.

  • Quan sát là loại tri giác có chủ định nhằm mục đích xác lập những đặc thù của đối tượng người tiêu dùng qua những bộc lộ như hành vi, cử chỉ, cách nói năng …
  • Quan sát có nhiều hình thức: quan sát toàn diện hay quan sát bộ phận,
    quan sát có trọng điểm, quan sát trực tiếp hay gián tiếp…

  • Phương pháp quan sát được cho phép tất cả chúng ta tích lũy được những tài liệu đơn cử, khách quan trong những điều kiện kèm theo tư nhiên của con người, do đó nó có nhiều ưu điểm. Bên cạnh những ưu điểm nó cũng có những hạn chế sau : mất thời hạn, tốn nhiều sức lực lao động …
  • Trong tâm lý học, cùng với việc quan sát khách quan, có khi cần triển khai tự quan sát ( tự thể nghiệm, tự diễn đạt diễn biến tâm lý của bản thân, nhưng phải tuân theo những nhu yếu khách quan, tránh suy diễn chủ quan theo kiểu “ suy bụng ta ra bụng người ” ) .
  • Muốn quan sát đạt tác dụng cao cần quan tâm những nhu yếu sau :
  • Xác định mục đích, nội dung, kế hoạch quan sát.
  • Chuẩn bị chu đáo về mọi mặt
  • Tiến hành quan sát một cách cẩn thận và có hệ thống.
  • Ghi chép tài liệu quan sát một cách khách quan, trung thực…
    2. Phương pháp thực nghiệm
    Đây là phương pháp có nhiều hiệu quả trong nghiên cứu tâm lý.
  • Thực nghiệm là quá trình tác động vào đối tượng một cách chủ động,
    trong những điều kiện đã được khống chế, để gây ra ở đối tượng những biểu hiện
    về quan hệ nhân quả, tính quy luật, cơ cấu, cơ chế của chúng, có thể lặp đi lặp lại
    nhiều lần và đo đạc, định lượng, định tính một cách khách quan các hiện tượng
    cần nghiên cứu.
  • Người ta thường nói tới hai loại thực nghiệm cơ bản là thực nghiệm trong
    phòng thí nghiệm và thực nghiệm tự nhiên.
    + Thực nghiệm trong phòng thí nghiệm: Phương pháp thực nghiệm trong
    phòng thí nghiệm được tiến hành dưới điều kiện khống chế một cách nghiêm
    khắc các ảnh hưởng bên ngoài, người làm thí nghiệm tự tạo ra những điều kiện để
    làm nảy sinh hay phát triển một nội dung tâm lý cần nghiên cứu, do đó có thể tiến
    hành nghiên cứu tương đối chủ động hơn so với quan sát và thực nghiệm tự
    nhiên.
    + Thực nghiệm tự nhiên: được tiến hành trong điều kiên bình thường của
    cuộc sống và hoạt động. Trong quá trình quan sát, nhà nghiên cứu chỉ thay đổi
    những yếu tố riêng rẽ của hoàn cảnh, còn trong thực nghiệm tự nhiên nhà nghiên

Source: https://vh2.com.vn
Category : Khoa Học

Liên kết:XSTD