Networks Business Online Việt Nam & International VH2

CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC – Tài liệu text

Đăng ngày 19 September, 2022 bởi admin
Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản không thiếu của tài liệu tại đây ( 436.97 KB, 106 trang )

14

kiến thức, kỹ năng và năng lực của con người có liên quan đến sự phát triển

của đất nước.

– Còn theo Giáo sư Phạm Minh Hạc: NNL cần phải hiểu là tổng thể các

tiềm năng lao động của một nước hay một địa phương sẵn sàng tham gia một

công việc nào đó [Phạm Minh Hạc, Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực

đi vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa – 2001].

Mặc dù có nhiều cách hiểu và diễn đạt khác nhau nhưng tựu chung lại

thì các nhà khoa học đều thống nhất ở một số điểm sau:

NNL là tổng hợp cá nhân những con người cụ thể tham gia vào quá

trình lao động, là tổng thể các yếu tố về thể chất và tinh thần được huy động

vào quá trình lao động. Sự tồn tại và phát triển của một tổ chức phụ thuộc rất

lớn vào việc khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, như: vốn, cơ sở

vật chất, khoa học kỹ thuật, người lao động trong tổ chức. Các yếu tố máy

móc, công nghệ kỹ thuật, các thiết bị đều có tể mua được, thay thế và chế tạo

được nhưng yếu tố con người thì không thể. Có thể khẳng định rằng NNL có

vai trò thiết yếu đối với sự tồn tại và phát triển của mỗi tổ chức.

NNL được hiểu theo nghĩa bao gồm kinh nghiệm, kỹ năng, trình độ đào

tạo và những sự tận tâm, nỗ lực hay bất cức đặc điểm nào khác tạo giá trị gia

tăng và năng lực cạnh tranh trong tổ chức của những người lao động.

Trên cơ sở những quan niệm về NNL ở trên, luận văn này tiếp cận khái

niệm NNL như sau: NNL được hiểu là nguồn lực con người (bao gồm cả thể

lực, trí lực và tâm lực) là một trong những nguồn lực quan trọng nhất của sự

phát triển kinh tế – xã hội; đồng thời, NNL là một chỉ tiêu quan trọng để đánh

giá trình độ sự phát triển và tiến bộ xã hội của mỗi quốc gia.

Với khái niệm này, cần chú ý các điểm sau:

– NNL là nguồn lực con người (bao gồm cả trí lực, thể lực và tâm lực);

– Là nguồn lực quan trọng nhất của sự phát triển KT – XH;

15

– Là tiêu chí để đánh giá trình độ phát triển và tiến bộ xã hội của mỗi

quốc gia.

1.1.2.Nguồn nhân lực trong tổ chức

Khi nói đến NNL trong một tổ chức, được hiểu đó là tổng số lao động

làm việc trong tổ chức. Đây là lực lượng lao động (cả số lượng và chất lượng)

mà tổ chức sử dụng để duy trì và phát triển hoạt động theo chương trình, kế

hoạch đề ra theo từng thời gian.

NNL trong một tổ chức chính là những con người cụ thể tham gia vào

quá trình lao động, là tổng thể các yếu tố về vật chất và tinh thần của họ được

huy động vào quá trình lao động, là mọi cá nhân tham gia vào bất cứ hoạt

động nào của một tổ chức. Tổ chức đó có thể là một ngành, một đơn vị sản

xuất kinh doanh, dịch vụ hoặc một cơ quan… Bằng sức lao động cùng với các

hoạt động nhận thức, tình cảm, hoạt động… các thành viên trong tổ chức đã sử

dụng công cụ lao động kết hợp với các yếu tố khác tác dụng vào đối tượng lao

động để tạo ra hàng hóa hoặc dịch vụ. Đó chính là sức mạnh vật chất của

NNL. Mặt khác, tổ chức hoạt động như một cơ thể sống, phản ánh sức sống

tinh thần thông qua văn hóa nghề nghiệp trong tổ chức, được tạo nên bởi

truyền thống, tập quán, lễ nghi và nghệ thuật ứng xử trong tập thể lao động.

Với những quan niệm trên, theo tác giả luận văn: NNL trong tổ chức là

toàn bộ lực lượng lao động (nói 1 cách khác là lực lượng lao động theo quy

mô, cơ cấu) và chất lượng của những người lao động phù hợp với yêu cầu

nhiệm vụ của tổ chức đó. Do đó, NNL trong tổ chức được xem và đánh giá

dưới hai góc độ: về số lượng (tính bằng người) và chất lượng được đánh giá

thông qua thể lực, trí lực và tâm lực.

1.1.3. Chất lượng nguồn nhân lực

Trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của mỗi quốc gia, thì yếu tố

lao động có chất lượng cao đóng vai trò hết sức quan trọng. Khai thác, sử

16

dụng và phát huy tối đa trí tuệ, năng lực trình độ lành nghề và kinh nghiệm

công tác của lực lượng lao động này sẽ là yếu tố quyết định thành công của

chiến lược đó. Trong mỗi cơ quan, tổ chức, thì vai trò chất lượng đội ngũ cán

bộ, công chức, viên chức là yếu tố quyết định đến hoàn thành nhiệm vụ và

hiệu quả công tác. Vì vậy, việc nghiên cứu để nâng cao chất lượng công tác

tuyển dụng, tăng cường đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao chất lượng NNL

trong mỗi cơ quan, tổ chức là hết sức cần thiết.

Chất lượng NNL được dùng để chỉ sức người, gồm cả trình độ, khả

năng và phẩm chất của NNL khi tham gia vào lao động. Nói đến chất lượng

NNL là nói tới những gì cấu thành khả năng, năng lực và sức mạnh sáng tạo

của con người. Trong chất lượng NNL có sự kết hợp giữa thể lực, trí lực và

tâm lực, bao gồm toàn bộ năng lực, trí tuệ, khả năng thực hành và trình độ tổ

chức, quản lý. Những năng lực đó chỉ có được trên cơ sở của trình độ học

vấn, kinh nghiệm, sự mở rộng các quan hệ xã hội, sự tiếp thu các ảnh hưởng

văn hóa truyền thống từ gia đình tới xã hội, từ cộng đồng quốc gia tới khu

vực, quốc tế. NNL được xem xét trên hai phương diện: cá nhân và xã hội.

Việc đảm bảo chất lượng NNL là rất cần thiết. Đối với cơ quan, doanh

nghiệp, với nguồn chất lượng nhân lực tốt thì kết quả sản xuất cao, năng suất

lao động tăng, điều đó sẽ mang lại lợi ích lớn cho tổ chức. Đối với người lao

động, chất lượng NNL tốt sẽ tạo ra thế hệ người lao động toàn diện về trình

độ, sự hiểu biết, sức khỏe, phẩm chất đạo đức, điều đó có lợi cho người lao

động và toàn xã hội.

Như vậy, khi nói đến chất lượng NNL, trong khuôn khổ luận văn, tác

giả sử dụng khái niệm chất lượng NNL, đó là: toàn bộ năng lực của lực lượng

lao động biểu hiện ở 3 yếu tố, đó là: hàm lượng trí tuệ (là trình độ chuyên

môn, nghiệp vụ, tay nghề), là sức khỏe (độ dẻo dai, sức bền, chiều cao, cân

17

nặng của NNL); và đó là (tâm lực) đạo đức, phẩm chất khi hành nghề và là

trình độ ứng xử, giao tiếp nơi công sở, nơi làm việc.

Đây là 3 yếu tố quyết định chất lượng NNL, và 3 yếu tố này có quan hệ

mật thiết với nhau. Trong đó, thể lực là yếu tố quyết định, còn yếu tố trí lực

và tâm lực rất quan trọng đến chất lượng NNL.

1.1.4. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong tổ chức

Như đã trình bày ở trên, chất lượng NNL là toàn bộ năng lực NNL của

tổ chức, được biểu hiện qua các yếu tố về thể lực, trí lực và tâm lực của NNL.

Vì vậy, nâng cao chất lượng NNL trong tổ chức, về khái niệm, đó chính là

tăng cường sức mạnh và khả năng hoạt động sáng tạo. Nâng cao chất lượng

NNL là tạo tiềm năng về trí thức thông qua đào tạo, bồi dưỡng, tuyển dụng,…

còn nội dung nâng cao chất lượng NNL, đó chính là nâng cao sức khỏe (sức

bền, dẻo dai, chiều cao, cân nặng,…), nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp

vụ, tính chuyên nghiệp trong công việc và nâng cao tâm lực, tức là đạo đức

nghề nghiệp, trình độ giao tiếp,… của NNL, cụ thể:

Nâng cao trí lực của NNL: đây là yếu tố quan trọng nhất của chất lượng

NNL. Trí lực của NNL thể hiện ở trình độ học vấn, trình độ đào tạo chuyên

môn nghiệp vụ, kỹ năng, tay nghề. Do vậy, nâng cao trí lực NNL trước hết

phải thông qua công tác đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng nâng cao trình độ cho

NNL về chuyên môn nghiệp vụ theo yêu cầu công việc. Hình thức đào tạo

nâng cao trí lực gồm: đào tạo chính quy tại các trường đại học, trung học, cao

đẳng, trường nghề theo các khóa dài hạn, ngắn hạn, tại chức. Đào tạo nâng

cao trình độ cho NNL còn có thể đào tạo ở nước ngoài.

Nâng cao thể lực NNL là nâng cao tình trạng sức khỏe của NNL; thể

lực bao gồm nhiều yếu tố cả thể chất lẫn tinh thần. Thể lực tốt thể hiện ở độ

bền bỉ, dẻo dai, nhanh nhẹn và tháo vát của sức khỏe cơ bắp trong công việc.

Đây là điều kiện rất quan trọng của thể lực NNL. Sức khỏe của NNL được

18

quyết định và phát triển bởi chế độ dinh dưỡng, chế độ chăm sóc sức khỏe,

nên thể lực NNL phụ thuộc vào kinh tế của mỗi quốc gia. Khi kinh tế phát

triển thì đời sống vật chất, tinh thần của người dân nói chung và NNL nói

riêng của mỗi quốc gia được nâng lên, kèm theo đó sẽ có điều kiện để đảm

bảo cho sức khỏe được nâng lên và ngược lại.

Nâng cao tâm lực là nâng cao trách nhiệm, đạo đức nghề nghiệp và

trình độ giao tiếp của NNL. Đây là tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng

NNL của mỗi quốc gia. Phẩm chất đạo đức được biểu hiện thông qua giải

quyết công việc, nhất là công việc có liên quan đến tiền bạc, đến tính mạng

con người. Làm việc hết mình vì người dân, vì tính mạng và quyền lợi của

người dân. Tâm lực của NNL còn biểu hiện ở chỗ thực hiện nhiệm vụ theo

chức trách được giao, luôn hòa nhã, lịch sự khi giao tiếp với đồng nghiệp và

người dân. Vì vậy, việc nâng cao “tâm lực” có ý nghĩa rất quan trọng. Để

nâng cao phẩm chất đạo đức, lương tâm nghề nghiệp và văn hóa nghề nghiệp

của NNL, đòi hỏi các ngành, các cấp và Nhà nước nói chung phải thường

xuyên quan tâm, giáo dục không chỉ lập trường tư tưởng, đạo đức tư cách mà

còn ở cách ứng xử trong cơ quan, doanh nghiệp khi thi hành công vụ.

Ở Việt Nam, tuy số lượng lao động đông, nhưng chất lượng còn hạn

chế. Điều này được thể hiện qua kết quả và hiệu quả công việc của từng người

và toàn cơ quan, đơn vị. Ngoài trình độ hạn chế, nhìn chung thể lực lao động

Việt Nam còn nhỏ bé so với lao động nhiều nước ở khu vực và thế giới về cân

nặng, chiều cao và sức bền. Trình độ văn hóa nghề của một bộ phận không

nhỏ NNL nước ta trong quá trình làm việc còn thấp. Điều này được thể hiện

như: còn thiếu trách nhiệm, vô cảm trong khi tiếp xúc với công việc; ý thức

chấp hành pháp luật Nhà nước, kỷ luật lao động còn yếu và chưa có tác phong

công nghiệp quan hệ ứng xử ở một số người chưa thực sự đúng mức. Do đó,

19

việc nâng cao chất lượng NNL để thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ trong các

cơ quan, đơn vị là nhiệm vụ quan trọng, hết sức cấp thiết hiện nay.

1.2.Các tiêu chí đánh giá chất lượng nguồn nhân lực

Cơ sở để đánh giá chất lượng NNL ở Việt Nam cũng như các nước dựa

vào các tiêu chí như thể lực, trí lực và tâm lực, cụ thể:

1.2.1. Trí lực

Trí lực là yếu tố quan trọng nhất của NNL, đặc biệt là NNL chất lượng

cao. Trí lực NNL được phản ánh bằng hệ thống các chỉ tiêu về tỷ lệ cán bộ,

viên chức có trình độ, học vấn, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ ở bậc cao

đẳng, đại học và sau đại học và kinh nghiệm, kỹ năng làm việc của người lao

động.

– Trình độ học vấn: là tiêu chí về trí thức để người lao động có thể tiếp

thu chuyên môn, nghiệp vụ, khoa học kỹ thuật. Trình độ học vấn của người

lao động có được nhờ học tập ở các trường phổ thông từ bậc tiểu học đến phổ

thông trung học ở các trường chính quy và các trường ngoài công lập. Trình

độ học vấn cũng có được khi người lao động tự học mà không qua trường lớp.

Ngày nay, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học – kỹ thuật và công nghệ

đòi hỏi người lao động phải có học vấn cao để học tập ở các trường về chuyên

môn, nghiệp vụ, kỹ thuật và sử dụng được các phương tiện, công cụ hiện đại.

Trình độ học vấn cao (thấp được biểu hiện ở khả năng tiếp thu những sáng

chế phát minh, những thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến. Quá trình CNH –

HĐH càng đi vào chiều sâu, thì càng đòi hỏi trình độ văn hóa của NNL ngày

càng cao.

Trình độ học vấn của NNL được đánh giá theo các tiêu chí về tỷ lệ lao

động biết chữ và tỷ lệ lao động có trình độ văn hóa theo các bậc, như: tiểu

học, phổ thông cơ sở, phổ thông trung học,…

20

– Trình độ chuyên môn nghiệp vụ: là kiến thức hiểu biết và làm được ở

một nghề hoặc một chuyên môn, nghiệp vụ nào đó, như chuyên môn kế toán,

ngân hàng, đánh máy,…

Trình độ chuyên môn nghiệp vụ có được thông qua học tập ở các

trường đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ (như các trường đại học tài chính – kế

toán, lao động xã hội, bách khoa, Kinh tế Quốc dân hoặc các trường nghề

theo các cấp dạy nghề (sơ cấp nghề, trung cấp nghề và cao đẳng nghề).

Khi đánh giá trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của NNL trong cơ quan,

tổ chức người ta thường đánh giá theo tiêu chí phản ánh trình độ của NNL

như:

– Số lượng cán bộ, viên chức được đào tạo (hoặc chưa được đào tạo)

– Cơ cấu trình độ được đào tạo

– Cấp đào tạo,…

Trí lực còn là yếu tố trí tuệ, tinh thần, nói lên tiềm lực văn hóa tinh thần

của con người. Nó quyết định phần lớn khả năng sáng tạo của con người. Trí

lực là yếu tố ngày càng có vai trò quyết định trong sự phát triển NNL, đặc biệt

là trong thời đại khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại do chính bàn tay,

khối óc con người làm ra mà ngày nay nhân loại đang chứng kiến những biến

đổi thần kỳ trong lịch sử phát triển của mình.

1.2.2. Thể lực

Thể lực là trạng thái sức khỏe của người lao động biểu hiện ở chiều

cao, cân nặng, hình thể, khả năng vận động, không có bệnh tật, có sức làm

việc dẻo dai trong một hình thái lao động – nghề nghiệp nhất định… Thể lực

không khỏe mạnh sẽ hạn chế đến phát triển trí lực, trí tuệ của người lao động.

Tiêu chí đánh giá thể lực ở các nước thường dùng các nhân tố trắc học:

chiều cao, cân nặng và các chỉ số về sức khỏe, nhất là độ dẻo dai, thần kinh và

tâm lý. Ở Việt Nam, đánh giá thể lực, người ta thường đánh giá các tiêu chí

21

về sức khỏe như: chiều cao, cân nặng, các giác quan nội khoa, ngoại khoa,

thần kinh, tâm thần, tai, mũi, họng… Ngoài ra, việc đánh giá sức khỏe còn có

thể thông qua các chỉ tiêu: tỉ lệ sinh, chết, biến động tự nhiên, tuổi thọ trung

bình, cơ cấu giới tính.

Trên thực tế, đánh giá thể lực, ngoài đánh giá sức khỏe thể chất của

người lao động không những bằng những tiêu chí đơn giản, mà còn dựa vào

những tiêu chí phức tạp hơn như tình trạng ốm, tỉ lệ mắc bệnh nghề nghiệp,

khả năng chịu đựng trong mọi điều kiện, khí hậu, điều kiện làm việc của

người lao động. Người lao động có sức khỏe tốt có thể mang lại năng suất lao

động cao nhờ sự bền bỉ, dẻo dai. Mọi người lao động, dù lao động cơ bắp hay

lao động trí óc đều cần có sức vóc, thể chất tốt để duy trì và phát triển trí tuệ,

để chuyển tải tri thức vào hoạt động thực tiễn, biến tri thức thành sức mạnh

vật chất. Mặc dù, mỗi yếu tố có vai trò nhất định, song giữa chúng có mối

quan hệ chặt chẽ và tác động qua lại, ảnh hưởng lẫn nhau. Chủ trương xây

dựng và phát triển toàn diện con người ở Hồ Chí Minh để có thể đảm bảo

được vị trí của con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển xã

hội. Trong đó, Người đặc biệt quan tâm về phương diện thể lực của con

người.

1.2.3. Tâm lực

Khi đánh giá chất lượng NNL, ngoài trí lực, thể lực người ta còn đánh

giá tâm lực, tức là đánh giá trách nhiệm, đạo đức nghề nghiệp và trình độ giao

tiếp, ứng xử, phối hợp công tác với đối tác trong quá trình làm việc trong

nước và quốc tế.

– Đạo đức nghề nghiệp: là ý thức trách nhiệm sẽ quyết định đến kết quả

và hiệu quả công tác. Khi người lao động có trách nhiệm cao, thì ngoài hoàn

thành nhiệm vụ, còn có thể học hỏi kinh nghiệm, tích lũy kiến thức để làm

việc tốt hơn. Trách nhiệm còn được thể hiện ở tính tự chịu trách nhiệm của

22

người lao động. Người chịu trách nhiệm là người dám nghĩ, dám làm, dám

chịu trách nhiệm, đồng thời nỗ lực hết sức mình để hoàn thành nhiệm vụ. Còn

đạo đức nghề nghiệp được biểu hiện phù hợp với quy định, theo từng giai cấp,

cơ quan, đơn vị khác nhau. Đạo đức nghề nghiệp phản ánh bản chất của xã

hội, nó gắn liền với nhân cách cá nhân của người lao động.

– Ý thức tổ chức và trách nhiệm đối với công việc:Tiêu chí nàyđược thể

hiện tinh thần lao động chăm chỉ, có trách nhiệm với công việc, có tác phong

công nghiệp, ý thức chấp hành giờ giấc, chấp hành nội quy của cơ quan, đơn

vị.Tiêu chí này còn được thể hiện ở thái độ làm việc, không thể thích thì làm,

có quyền lợi thì làm, không có quyền lợi thì không làm; bớt xén của công,…

– Tiêu chí văn hóa nghề: là tiêu chí dùng để đánh giá chất lượng NNL,

khả năng, trình độ giao tiếp, cách ứng xử và khả năng phối hợp của người lao

động. Đây là tiêu chí quan trọng, có thể giúp người lao động làm việc hiệu

quả cao.

1.3. Các hoạt động nâng cao chất lượng nguồn nhân lực

Chất lượng NNL phụ thuộc rất nhiều vào các hoạt động của cơ quan, tổ

chức, như: công tác hoạch định, tuyển dụng và sử dụng lao động; công tác

đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng; chính sách, tiền lương, thưởng, phụ cấp và chế

độ đãi ngộ cho cán bộ, viên chức,…

Sau đây là nội dung chủ yếu của các hoạt động có tác động trực tiếp

đến nâng cao chất lượng NNL:

1.3.1. Quy hoạch nguồn nhân lực

Quy hoạch NNL là để xác định nhu cầu NNL chất lượng cao trong thời

gian tới, để cơ quan, đơn vị dựa vào đó đưa ra chính sách, phương án đào tạo,

đào tạo lại phù hợp với chiến lược phát triển của ngành, của từng cấp và từng

đơn vị.

23

Để có nguồn lao động chất lượng cao, trước hết cần phải xây dựng quy

hoạch để chủ động cung cấp NNL cho yêu cầu nhiệm vụ của đơn vị.

Để công tác quy hoạch có chất lượng, hiệu quả thì việc thực hiện phải

khách quan, công khai, dân chủ và nghiêm túc trên cơ sở nhu cầu chất lượng

NNL cho nhiệm vụ của đơn vị.

Công tác quy hoạch phải được thực hiện thường niên. Nội dung quy

hoạch dựa trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng NNL và các dự liệu về

thuận lợi, khó khăn trước mắt và lâu dài.

Hiện nay, ở nước ta, công tác quy hoạch đang chú trọng đối với cán bộ

lãnh đạo, quản lý, chưa quan tâm nhiều đến quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng

nâng cao trình độ về mọi mặt cho cán bộ chuyên môn nghiệp vụ, chưa quan

tâm quy hoạch cán bộ khoa học, chuyên gia giỏi, cán bộ quản lý điều hành.

1.3.2. Tuyển dụng và sử dụng lao động

Tuyển dụng nhân lực được nhân sự tốt là bước khởi đầu và là nền tảng

cho sự thành công của doanh nghiệp trong tương lại. Đồng thời, tuyển chọn

tốt là điều kiện thực hiện có hiệu quả các hoạt động quản trị nhân lực khác

như đào tạo, phân tích công việc… và cũng là một điều kiện để phát triển văn

hóa của tổ chức ngày càng lành mạnh.

Tuyển dụng có ý nghĩa rất quan trọng đối với tổ chức vì khi hoạt động

tuyển dụng tốt thì tổ chức, doanh nghiệp sẽ có một đội ngũ nhân viên có trình

độ, kinh nghiệm, giúp tổ chức tồn tại và phát triển tốt. Ngược lại, có thể dẫn

đến suy yếu tổ chức, làm cho hoạt động tổ chức kém hiệu quả, lãng phí nguồn

lực. Nhận thức được tầm quan trọng của tuyển dụng nhân lực, do đó thách

thức đối với mỗi tổ chức là tuyển được đúng người, phù hợp với tổ chức. Bất

kỳ một tổ chức nào khi hoạt động đều có một mục đích của riêng mình. Để

theo đuổi mục đích thì tổ chức, doanh nghiệp cần có những kế hoạch và

24

chiếnlược cụ thể trong quá trình tuyển dụng nhân sự của mình có trình độ

thích hợp để thực hiện những kế hoạch, chiến lược đã đề ra.

Đây là khâu có tính quyết định đến chất lượng NNL. Mục đích của

tuyển dụng là tuyển được lao động phù hợp với yêu cầu trình độ công việc,

nghĩa là lao động mới có kiến thức, kỹ năng, năng lực và động cơ phù hợp với

các đòi hỏi của công việc và các mục tiêu dài hạn của doanh nghiệp. Đây là

quá trình nhằm thu hút và tìm kiếm người lao động từ nhiều nguồn khác cho

vị trí công việc còn trống nhằm lựa chọn ra người tốt nhất cho vị trí công việc

đó. Tuyển dụng nhân lực được xem là hoạt động trọng tâm cho sự thắng lợi

của tổ chức vì góp phần đảm bảo nguyên tắc: đúng người đúng việc, đúng

thời điểm cần.

Vai trò của tuyển dụng đối với việc nâng cao chất lượng NNL là rất

lớn. Nếu tổ chức tuyển dụng được những lao động tốt thì NNL trong tổ chức,

đơn vị sẽ đáp ứng được nhu cầu sản xuất của toàn đơn vị, giảm thiểu được

những chi phí tuyển dụng, làm tăng năng suất,… Còn nếu việc tuyển dụng

không tốt, không thành công thì sẽ đem lại hậu quả nặng nề: chất lượng nhân

lực kém, phải tuyển dụng lại, đào tạo lại, điều này sẽ gây lãng phí cả tiền bạc

và thời gian. Đối với các tổ chức nhỏ, doanh nghiệp có thể gây tình trạng phá

sản. Bên cạnh đó, công tác tuyển dụng không tốt sẽ làm công việc không

đúng theo kế hoạch, sai hỏng, làm ảnh hưởng đến người lao động khác trong

đơn vị, tổ chức và ảnh hưởng xấu đến năng suất lao động chung.

Cùng với công tác tuyển dụng, việc sử dụng người phù hợp với công

việc là rất quan trọng, tạo điều kiện cho họ phát huy trình độ, tay nghề, kỹ

năng và năng lực sẵn có, tạo điều kiện cho họ tiếp tục nâng cao trình độ.

1.3.3. Đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực

Để nâng cao chất lượng nguồn lao động của tổ chức, thì công tác đào

tạo, bồi dưỡng NNL hết sức quan trọng. Đào tạo được hiểu là các hoạt động

Source: https://vh2.com.vn
Category : Startup