Networks Business Online Việt Nam & International VH2

Mối quan hệ và vận hành của thập nhị nhân duyên

Đăng ngày 17 March, 2023 bởi admin

Phật giáo ý niệm rằng tổng thể những pháp đều do duyên sinh. Vì cái này xuất hiện nên cái kia xuất hiện. Chúng vận hành sống sót đối sánh tương quan mật thiết với nhau qua mười hai móc xích tạo thành một vòng tròn khép kín đó là vô minh, hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử .Các loại Pháp khí bạn hoàn toàn có thể chăm sóc ( tại đây ) .

Mười hai móc xích này là nhân tố cấu tạo hình thành các pháp hữu vi. Chúng cũng là nền tảng căn bản giúp con người đoạn trừ tất cả sự hiện hữu. Mười hai nhân duyên còn là sự khám phá độc đáo mới mẻ của đức Thế Tôn về sự vận hành của tâm thức trải qua ba giai đoạn: quá khứ, hiện tại, vị lai của một chúng sanh. Nương vào đó con người có thể hiểu được tâm ý của chính mình và sự vận hành của vạn pháp. Nhờ đó con người dễ dàng cắt đứt mối liên hệ giữa chúng, cắt đứt vòng sanh tử, thoát ly luân hồi. Nhưng thập nhị nhân duyên chỉ thật sự có giá trị đối với những ai biết biến nó thành hành động cụ thể, áp dụng vào cuộc sống thực tiễn. Ước mơ thoát khỏi sanh tử chỉ thành hiện thực đối với những ai luôn hoài bão và đem hết tâm lực chặt đứt mười hai móc xích oan khiên ấy.

Sao gọi là nhân duyên ? Nhân là nguyên do, chỉ những vật chính nó làm nhân trực tiếp sanh ra vật khác, như hạt lúa làm nhân sanh ra cây lúa. Duyên là trợ duyên, chỉ cho những vật có tính cách trợ giúp trực tiếp hay gián tiếp cho vật khác được hình thành. Như phân, nước, ánh sáng, nhân công … là trợ duyên giúp cho hạt lúa được thành cây lúa. Vậy nhân duyên là chỉ cho những vật làm nhân cho nó mà cũng vừa là trợ duyên cho toàn bộ vật chung quanh nó. Phật giáo quan niệm rằng tất cả các pháp đều do duyên sinh. Vì cái này có mặt nên cái kia có mặt. Chúng vận hành tồn tại tương quan mật thiết với nhau qua mười hai móc xích tạo thành một vòng tròn khép kín đó là vô minh, hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử.

Phật giáo quan niệm rằng tất cả các pháp đều do duyên sinh. Vì cái này có mặt nên cái kia có mặt. Chúng vận hành tồn tại tương quan mật thiết với nhau qua mười hai móc xích tạo thành một vòng tròn khép kín đó là vô minh, hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử.

Tạo nhân duyên gì để hạt giống nghiệp xấu không trổ quả ? Nhân duyên lại có nghĩa, những vật đều là nhân, những nhân đó duyên với nhau mà thành ra những vật khác. Như vôi, gạch, ngói … là nhân, những nhân này duyên với nhau mà thành ra cái nhà. Vì những pháp trùng điệp nhiều lớp làm duyên cho nhau mà thành ra vật thể này hay vật thể khác. Vậy mười hai nhân duyên truyền nối nhau liên tục trong suốt ba đời, giống như một dây xích không có đầu mối, như một vòng lửa không biết đâu là khởi điểm. Như vậy, vô minh không phải là nguyên do tiên phong của chuỗi link đó, bởi vô minh cũng do duyên sinh. Vô minh là không sáng suốt, đó là những điều mê hoặc che lấp chơn tâm diệu tánh, không có sự soi sáng của trí tuệ. Nghĩa là trí tuệ vẫn hiện hữu nơi mỗi người nhưng vì bị vô minh ngăn che nên không hề chiếu sáng để thấy rõ thực chất của những pháp. Cũng như mặt trời bị mây che nên trời đất u ám và sầm uất. Mây tan, mặt trời lại chiếu sáng với ánh sáng vốn có của nó. Vô minh còn có tên thứ hai là si mê tức là sự không thông suốt hay không có tri kiến của bậc Chánh Giác. Do sự không thông suốt ấy, con người đã duy trì những quan điểm sai lầm đáng tiếc, thấy vô thường cho là thường, xem đau khổ cho là nụ cười, nhận giả cho là thật và nắm giữ những pháp ô nhiễm cho là thanh tịnh. Do đó, vô minh là một trong những cội rễ cơ bản, là cội nguồn sanh ra tổng thể những pháp ô nhiễm ; toàn bộ những hành vi bất thiện và toàn bộ những ý niệm sai lầm đáng tiếc đều bắt nguồn từ vô minh. Bậc Cổ đức nhận chân ra được điều đó đã dạy : “ Nhân vô minh vọng tình nhiễm trước Thọ, tưởng, hành, ý thức nghiệp duyên ” Vì vô minh nên có hành sanh khởi. Hành tùy thuộc vào vô minh mà phát sanh, với đặc tính đưa đến sự tái sinh. Hành nói đơn thuần là hành vi thiện và bất thiện, nó bộc lộ qua thân, khẩu, ý. Những hành vi của chư Phật và những vị A-la-hán không hề gọi là hành vì những Ngài đã trọn vẹn tận diệt vô minh. Vô minh bắt nguồn từ bên trong con người và làm cho con người trở nên mù quáng, không nhận định và đánh giá được hành vi của chính mình tạo tác. Nếu không có vô minh sẽ không có hành vi tương tợ, không có hành vi do vô minh sai sử tạo nghiệp, sẽ không có tái sinh và những cái khổ đau sẽ trọn vẹn tàn phá. Như vậy, vô minh và hành thuộc về nhân quá khứ. Do vì mê hoặc mà con người gây ra hành nghiệp nên nói vô minh duyên hành. Từ nơi hành vi mà sanh ra thức. Như vậy thức là gì ? Mười hai nhân duyên truyền nối nhau liên tục trong suốt ba đời, giống như một dây xích không có đầu mối, như một vòng lửa không biết đâu là khởi điểm.

Mười hai nhân duyên truyền nối nhau liên tục trong suốt ba đời, giống như một dây xích không có đầu mối, như một vòng lửa không biết đâu là khởi điểm.

Học thuyết Thập nhị nhân duyên Thức tùy thuộc hành nghiệp trong kiếp quá khứ mà phát sanh. Nói cách khác, thức tùy thuộc nơi nghiệp thiện hay bất thiện của kiếp quá khứ mà thức được tạo điều kiện kèm theo phát sinh trong kiếp hiện tại. Thức này là thức tiên phong của một kiếp sống nên được gọi là thức nối tiếp hay tâm tiếp nối vì nó tiếp nối kiếp quá khứ và kiếp hiện tại. Trong cái thức ấy có ngủ ngầm tổng thể những cảm xúc đã thọ, những đặc tính và những khuynh hướng riêng không liên quan gì đến nhau trong dòng đời đã qua của một cá thể. Theo những nhà sinh lí học tân tiến thì sự xuất hiện của một con người được mở màn trong khoảnh khắc kỳ diệu từ tinh cha huyết mẹ hợp thành. Đó là nấc tâm thức sau cuối của kiếp trước vừa chấm hết thì nấc tâm thức tiên phong của kiếp hiện tại được hình thành, giữa hai luồng tư tưởng ấy tất cả chúng ta gọi là tái sinh. Chính vòng khoen thứ ba này lý giải hiện tượng kỳ lạ tái sinh nên ngay đó thức được hình thành. Vậy từ khi có thức phát sanh thì ngay theo đó danh sắc cũng khởi đầu sanh khởi. Ở đây danh là chỉ cho thức A-lại-da, chỉ nghe tên mà không thấy hình tướng. Sắc chỉ phần vật chất hữu hình, tức là tinh cha huyết mẹ hay còn gọi là phôi thai. Thức là thần thức hay gọi là A-lại-da, khi tái sinh thì thức này Open tiên phong, nhập vào thai rồi lần lần phát sinh ra thức kia nên gọi là thức duyên danh sắc. Như vậy một đứa bé trong thai vẫn hội đủ hai phần : hình thể vật chất và thần thức. Lục nhập tùy thuộc vào danh sắc mà phát sinh. Nói khác hơn, đây là một dạng tiềm ẩn của lục thức đứa bé trong bào thai, nghĩa là lục căn của người mẹ tiếp xúc với lục trần sanh ra sự thấy, biết, phân biệt gọi là lục thức. Cái thấy biết đó xâm nhập và tác động ảnh hưởng đến đứa bé. Khi người mẹ sống với tâm hoan hỷ, khinh an thì khi sinh đứa bé có khuôn mặt vui tươi, mưu trí, và khi trưởng thành nó cũng vẫn giữ được bản tính vui tươi. Nói khác hơn, sắc trần luôn tác động ảnh hưởng đến bào thai qua tư tưởng của người mẹ, ta gọi là lục nhập. Xúc là sự xúc chạm. Nó tùy thuộc vào lục căn mà phát sinh. Đối tượng của lục căn là lục trần : sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Lục căn tiếp xúc với lục trần sanh ra lục thức hay nói đơn cử hơn khi mắt tiếp xúc sắc trần thì nhận thức liền phát sanh, trong thời hạn giao thoa xúc Open. Như vậy rõ ràng xúc phát sinh do căn trần hợp lại tạo điều kiện kèm theo sanh thọ. Đây là quả hiện tại. Vô minh không phải là nguyên nhân đầu tiên của chuỗi liên kết đó, bởi vô minh cũng do duyên sinh

Vô minh không phải là nguyên nhân đầu tiên của chuỗi liên kết đó, bởi vô minh cũng do duyên sinh

Thọ là sự nhận chịu, do xúc chạm mà phát sanh sự cảm nhận đó là thọ. Thọ phát sanh từ những xúc chạm của lục căn với lục trần mà sinh ra cảm xúc, hoàn toàn có thể là niềm hạnh phúc, hoàn toàn có thể là khổ đau nhưng cũng có khi vô ký. Giác quan không hề ghi nhận đối tượng người tiêu dùng của nó nếu không có một loại thức tương ứng. Vậy một khi đủ ba yếu tố ( giác quan, đối tượng người dùng, thức tương ứng ) tức nhân có xúc thì thọ được phát sinh. Đây là quả hiện tại. Chúng sanh đều có sự cảm thọ khác nhau trước một thực trạng hay một đối tượng người dùng giống nhau. Như một vật gì đó đứng trước người này thì người đó thấy một cách khác còn so với người kia thì nhìn nhận nó một cách khác. Vậy cũng đồng một đối tượng người tiêu dùng hoàn toàn có thể tạo cho người này có cảm xúc vui nhưng lại gây đau khổ ở người khác. Như vậy là sao ? Là vì do nghiệp thức phân biệt hiểu biết khác nhau nên thọ mới có sai khác.

Ái là sự khát vọng, ham muốn. Do có sự thọ nhận mà phát sinh ra ái. Ái bao gồm tất cả những hình thức khát ái, tham ái, ước muốn, dục vọng, ham muốn, nóng lòng… Khi tiếp xúc một vật sinh ra ba cảm thọ: khổ, vui và vô ký. Nhưng từ thọ chỉ phát sinh ra ái. Ái đây là ái bản ngã chính mình. Dù có thọ nhận cảm giác khổ cũng vì ái bản ngã của mình mới sinh tâm ghét đối tượng. Vì thế ái mang nghĩa rất sâu, có mặt ở ba lĩnh vực của cảm thọ. Trong kinh Tứ Thập Nhị Chương Phật dạy: “May mắn thay chỉ có một sắc dục chứ nếu có hai thì tất cả mọi người trong thiên hạ không ai tu nổi”. Cho nên ta có thể nói: “Ái là kẻ thù của thế gian”. Xuyên qua ái tất cả phiền não tập khí đến với ta ví như đĩa mật, như con thiêu thân thấy lửa liền bay vào đâu biết đó là nơi kết thúc mạng sống của mình, vì thế chính ái đã làm cho chúng sanh trở lại sanh tử. Hai yếu tố quan trọng và hùng mạnh nhất trong mười hai nhân duyên là vô minh và ái dục, hai nguyên nhân chánh làm chuyển động bánh xe luân hồi. Vô minh là nguyên nhân quá khứ tạo điều kiện cho hiện tại. Ái dục là nguyên nhân trong hiện tại tạo điều kiện cho tương lai. Nơi nào có thỏa thích và dục lạc nơi đó có ái và khi bị chướng ngại, nó trở thành phẫn, hận và trở nên bất mãn. Con người mãi chạy theo lạc thú không ngừng, bám lấy những đối tượng tương ứng với lục căn nhưng họ không hiểu rằng không có số lượng lục trần nào hoàn toàn thỏa mãn lục căn. Trong sự khát khao mãnh liệt ấy, con người mong muốn có quyền sở hữu tức là phải làm chủ hoàn toàn. Từ đó phát sinh sở hữu tức thủ.

Nhân duyên vợ chồng, cha mẹ, con cháu Khi Phật hệ thống lại mười hai nhân duyên là Ngài đã mở cho chúng ta một con đường sáng. Công năng của nó là phá tan vòng duyên khởi luẩn quẩn sanh tử đồng thời hiểu được mười hai nhân duyên là hiểu được đầu mối các nguyên nhân căn bản chi phối mọi sinh hoạt của chúng sinh trong vũ trụ.

Khi Phật hệ thống lại mười hai nhân duyên là Ngài đã mở cho chúng ta một con đường sáng. Công năng của nó là phá tan vòng duyên khởi luẩn quẩn sanh tử đồng thời hiểu được mười hai nhân duyên là hiểu được đầu mối các nguyên nhân căn bản chi phối mọi sinh hoạt của chúng sinh trong vũ trụ.

Thủ là nắm chặt, giữ lấy. Đó là trạng thái tâm luyến ái, bám vào muốn nắm chặt lấy. Như vậy thủ là ái ở mức độ cao. Vì thủ mà con người phải làm nô lệ cho khát vọng của mình, chìm đắm vào tận cùng của đau khổ giống như con nhộng nằm trong ổ kín tối mò mà chính nó tạo ra. Hữu do thủ mà phát sinh còn gọi là nghiệp. Phần trước ta nói hành là những hành vi thiện và bất thiện trong kiếp quá khứ mà có hiện tại. Hữu cũng là hành vi thiện và bất thiện nhưng nó chỉ là nghiệp hiện tại tạo điều kiện kèm theo cho kiếp sống tương lai. Đó là nhân hiện tại. Sanh do hữu mà có. Sanh ở đây không phải là một hành vi lâm bồn mà nó là sự hình thành của năm uẩn trong bào thai mẹ. Sanh còn là sự sống hiện tại vận hành cho đến tương lai. Nó là sự kế tục không ngừng của dòng sông sanh mệnh. Lão tử là mắc xích ở đầu cuối. Nó tùy thuộc sanh mà phát khởi. Cùng với lão tử từ đó phát sanh ra phiền não và đau khổ, đa sầu vô vọng. Vì sao ? Vì đã có sanh tức là có trưởng thành, già chết rồi sanh tiếp nối già chết, già chết tiếp nối sanh. Nó cứ liên tục triền miên như vậy. Ngày nào con người còn bám víu vào kiếp sống sanh tồn, chưa thoát khỏi vô minh, ái dục và thủ thì cái chết chưa chấm hết. Cuối cùng nó liên tục quay cuồng trong bánh xe sanh tử. Đó là quả vị lai. Mười hai nhân duyên còn là sự khám phá độc đáo mới mẻ của đức Thế Tôn về sự vận hành của tâm thức trải qua ba giai đoạn: quá khứ, hiện tại, vị lai của một chúng sanh.

Mười hai nhân duyên còn là sự khám phá độc đáo mới mẻ của đức Thế Tôn về sự vận hành của tâm thức trải qua ba giai đoạn: quá khứ, hiện tại, vị lai của một chúng sanh.

Khi Phật mạng lưới hệ thống lại mười hai nhân duyên là Ngài đã mở cho tất cả chúng ta một con đường sáng. Công năng của nó là phá vỡ vòng duyên khởi luẩn quẩn sanh tử đồng thời hiểu được mười hai nhân duyên là hiểu được đầu mối những nguyên do cơ bản chi phối mọi hoạt động và sinh hoạt của chúng sinh trong ngoài hành tinh. Như vậy so với những pháp trong trần gian ta không còn vướng mắc, không câu chấp, xả bỏ tổng thể nhưng trong thực tại không một pháp nào được xả bỏ. Đó là điều mà đức Phật muốn nói với tất cả chúng ta và chính Ngài đã triển khai chơn lý ấy ngay trên bản thân mình mà thành tựu tự ngã. Tự ngã ở đây là tự ngã chân thực bao hàm vạn pháp mà vạn pháp do nhân duyên sinh khởi. Nhân duyên sinh khởi ấy chính ở ngay trong cái tâm thông thường của mỗi chúng sinh. Nên nói : “ Ba cõi lầm mê tâm tịch tịnh Một đời sinh tử tánh thường như Sớm mai thấy nụ hoa hồng nở Nhẹ bước trần sa thấy tỉnh rồi. ” Như vậy khi thấu triệt mười hai nhân duyên là ta đã trang bị cho mình một lưỡi gươm trí tuệ. Nhưng ta có can đảm và mạnh mẽ cắt đứt những mắc xích sinh tử, có dập tắt ngọn lửa ái dục, có bẻ gãy những cây căm chấp thủ hay không, đó là việc làm mà tất cả chúng ta phải tự làm, mỗi tất cả chúng ta phải tự ý thức lấy. Một khi tất cả chúng ta phá vỡ được mười hai nhân duyên sinh khởi thì con người tự mình giải thoát ra khỏi mọi khổ đau và không còn bị luân hồi chi phối nữa. Do đó, ta hoàn toàn có thể khuyến mãi ngay cho mình một ý nghĩa sáng sủa trong đời sống thực tại : “ Mục đích có sẵn rồi Nào phải vọng xa xôi

Dặm trình thong dong bước

Hoa trắng nở ven đồi. ”

Mời quý Phật tử xem thêm video: “Khắc phục lòng sân hận”:

Source: https://vh2.com.vn
Category : Công Nghệ