Networks Business Online Việt Nam & International VH2

Liên đại Thái cổ – Wikipedia tiếng Việt

Đăng ngày 26 October, 2022 bởi admin

Liên đại Thái Cổ (Archean, , Archaean, Archaeozoic, Archeozoic) là một liên đại địa chất diễn ra trước liên đại Nguyên Sinh (Proterozoic), kết thúc vào khoảng 2.500 triệu năm trước (Ma). Thay vì dựa trên các địa tầng, con số này được xác định dựa vào các phương pháp của địa tầng học thời gian (địa thời học). Ranh giới dưới của liên đại này vẫn chưa được Ủy ban quốc tế về địa tầng học (ICS) công nhận chính thức, nhưng thông thường nó được gán cho giá trị 3.800 Ma khi kết thúc liên đại Hỏa Thành.

Trái Đất thời Thái Cổ[sửa|sửa mã nguồn]

Vào đầu thời kỳ Thái Cổ, luồng nhiệt của Trái Đất gần như đã cao gấp 3 lần so với ngày này, và vào khoảng chừng cỡ 2 lần cao hơn so với mức bức xạ nhiệt ở đầu liên đại Nguyên Sinh. Lượng nhiệt dư thừa này hoàn toàn có thể là tàn dư từ sự lớn dần lên của hành tinh, một phần là nhiệt của sự hình thành của phần lõi sắt, và rất hoàn toàn có thể một phần là do nhiệt sinh ra từ những hạt nhân có chu kỳ luân hồi bán rã ngắn như urani – 235 .Phần lớn những loại đá thời Thái Cổ nếu sống sót đều là những loại đá lửa biến chất, hầu hết trong đó là đá xâm nhập. Hoạt động núi lửa là tương đối tích cực hơn ngày này, với hàng loạt những điểm trung tâm và thung lũng do rạn nứt, với sự phun trào của những dung nham không bình thường như komatiit. Các loại đá lửa xâm nhập như những vỉa nóng chảy lớn và những khối đá sâu đồ sộ chứa granit, diorit, những xâm nhập thành lớp dạng siêu mafic tới mafic, anorthosit và monzonit được biết đến như là sanukitoid thống lĩnh trong suốt những tàn dư vùng im lìm kết tinh của lớp vỏ Trái Đất thời Thái Cổ mà còn sống sót tới thời nay .

Trái Đất thời kỳ đầu Thái Cổ có thể có kiểu kiến tạo khác biệt. Một số nhà khoa học cho rằng do Trái Đất là nóng hơn, và hoạt động kiến tạo địa tầng là mãnh liệt hơn so với ngày nay, nên kết quả là có một tốc độ tái sinh các vật liệu lớp vỏ lớn hơn. Điều này có thể ngăn cản quá trình tạo vùng im lìm và sự hình thành của các châu lục cho tới khi lớp phủ nguội đi và sự đối lưu bị chậm lại. Các nhà khoa học khác lại cho rằng lớp phủ thạch quyển tiểu lục địa là quá nổi để có thể ẩn chìm và sự thiếu vắng của các loại đá thời Thái Cổ là do tác động xói mòn của các sự kiện kiến tạo tiếp theo sau đó. Câu hỏi về có hay không có hoạt động kiến tạo địa tầng nào đã tồn tại trong thời Thái Cổ là lĩnh vực hoạt động tích cực của các nghiên cứu địa chất học hiện đại[1].

Đã không tồn tại các châu lục lớn cho tới tận cuối thời kỳ Thái Cổ; các tiền-châu lục nhỏ là quy phạm chung, chúng bị ngăn chặn không cho kết hợp thành các khối lớn hơn do tốc độ cao của hoạt động địa chất. Các tiền lục địa giàu fenzit này có lẽ đã được tạo ra tại các điểm nóng hơn là tại các khu vực ẩn chìm, từ các nguồn đa dạng như: sự phân hóa do lửa của các loại đá mafic để tạo thành các loại đá trung gian và đá fenzit, macma mafic dễ nóng chảy hơn đá fenzit và thúc đẩy quá trình granit hóa các loại đá trung gian, nóng chảy một phần của đá mafic, cũng như từ sự thay đổi biến chất của đá fenzit trầm tích. Các mảng lục địa như thế có thể không được bảo tồn nếu chúng không đủ nổi hay đủ may mắn để tránh các đới ẩn chìm mạnh mẽ[2].

Một diễn giải khác cho sự thiếu vắng chung những loại đá thời kỳ đầu Thái Cổ ( trên 3.800 Ma ) là khối lượng những mảnh vụn ngoài hệ Mặt Trời đã hiện hữu bên trong hệ Mặt Trời khi đó. Thậm chí ngay sau khi hình thành hành tinh thì một lượng lớn những tiểu hành tinh và thiên thạch vẫn còn sống sót, và chúng bắn phá Trái Đất thời kỳ đầu cho tới khoảng chừng 3.800 Ma. Sự bắn chặn đơn cử của những vật thể va chạm lớn được biết đến như thể sự bắn phá mạnh muộn cố thể đã ngăn ngừa bất kể mảng vỏ lớn nào không cho chúng hình thành bằng cách làm tan vỡ những tiền lục địa bắt đầu theo đúng nghĩa đen của cụm từ này .
Khí quyển thời Thái Cổ có vẻ như không có oxy tự do. Nhiệt độ có vẻ như đã ở gần mức như thời nay trong khoảng chừng 500 Ma của sự hình thành Trái Đất, với nước ở dạng lỏng đã sống sót, do sự sống sót của những loại đá trầm tích trong những loại đá gơnai bị biến dạng cao. Các nhà thiên văn học cho rằng Mặt Trời khi đó đã tối hơn khoảng chừng 33 %, và điều này hoàn toàn có thể đã góp thêm phần hạ thấp nhiệt độ toàn diện và tổng thể của Trái Đất hơn so với dự kiến. Đây là tâm lý để phản ánh những lượng lớn hơn của những khí nhà kính so với những quy trình tiến độ muộn hơn trong lịch sử dân tộc Trái Đất .Vào cuối thời kỳ Thái Cổ, khoảng chừng 2.600 Ma, hoạt động giải trí kiến thiết địa tầng hoàn toàn có thể đã gần giống như ngày này. Các lòng chảo trầm tích được bảo tồn khá tốt và chứng cứ của những vòng cung núi lửa, những vết nứt nội lục địa, những va chạm lục địa-lục địa và những sự kiến thiết kế sơn trải rộng toàn thế giới đã cho thấy sự kết nối và tàn phá của một và có lẽ rằng là của vài siêu lục địa. Nước dạng lỏng là thông dụng, và những lòng chảo đại dương sâu được biết là đã sống sót do sự hiện hữu của những lớp thành hệ sắt dải, đá phiến silic, những trầm tích hóa học và những lớp đệm bazan .
Mặc dù chỉ có ít những hạt khoáng chất là cổ hơn, nhưng những tạo thành đá cổ nhất bị phơi ra bề mặt Trái Đất là thuộc thời Thái Cổ hoặc cổ hơn một chút ít. Các loại đá thời Thái Cổ được biết đến từ Greenland, khiên Canada, miền tây nước Australia và miền nam châu Phi. Mặc dù những lục địa tiên phong đã hình thành trong liên đại này, nhưng đá của thời kỳ này chỉ chiếm 7 % tổng số những vùng im lìm lúc bấy giờ của quốc tế ; thậm chí còn kể cả khi cho rằng xói mòn và hủy hoại những kiến thiết của quá khứ thì những chứng cứ cho thấy cũng chỉ khoảng chừng 5-40 % của lớp vỏ lúc bấy giờ của những lục địa đã hình thành trong liên đại Thái Cổ [ 3 ] .Trái với liên đại Nguyên Sinh, những loại đá thời Thái Cổ thường thì là những trầm tích biển sâu biến chất mạnh, ví dụ điển hình như sa thạch xám ( graywacke ), đá bùn, những trầm tích núi lửa và những tạo thành sắt theo dải. Các dải đá lục là những hình thành nổi bật của liên đại Thái Cổ, gồm có những loại đá biến chất cấp thấp và cao luân phiên. Các loại đá biến chất cấp cao có nguồn gốc từ những vòng cung hòn đảo núi lửa, trong khi những loại đá biến chất cấp thấp xuất hiện trong những trầm tích biển sâu bị xói mòn từ những vòng cung hòn đảo cận kề và trì trệ dần xuống lòng chảo tiền vòng cung núi lửa. Các dải đá lục là hiện thân của những tiền lục địa đã ráp nối [ 4 ] .

Các hóa thạch của các tấm nệm vi khuẩn lam (stromatolit) được tìm thấy trong suốt liên đại Thái Cổ—đặc biệt phổ biến vào cuối liên đại—trong khi chỉ có rất ít các hóa thạch có lẽ của vi khuẩn được thấy tại các tầng đá phiến silic[5]. Ngoài các loài thuộc giới vi khuẩn (Bacteria), các vi hóa thạch của giới vi khuẩn cổ (Archaea) cũng đã được nhận dạng.

Sự sống có lẽ đã hiện diện trong suốt liên đại Thái Cổ, nhưng có lẽ chỉ hạn chế trong các dạng sinh vật đơn bào không nhân, gọi là sinh vật nhân sơ (Prokaryota hay trước đây là Monera); do không thấy có bất kỳ hóa thạch nào của sinh vật nhân chuẩn (Eukaryota), mặc dù chúng có thể đã tiến hóa trong liên đại này và đơn giản là không để lại hóa thạch[6]. Tuy nhiên, cũng không có chứng cứ hóa thạch cho sự tồn tại các sinh vật siêu nhỏ nội bào như các virus.

  1. ^ Earth System History. New York: W.H. Freeman và Công ty, 1999. Stanley Steven M.New York : W.H. Freeman và Công ty, 1999. ISBN 0-7167 – 2882 – 6 những trang 297 – 301
  2. ^ Stanley, những trang 297 – 301
  3. ^ Stanley, những trang 301 – 2
  4. ^ Stanley, những trang 302 – 3
  5. ^ Stanley, 307
  6. ^ Stanley, những trang 306, 323

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]

Triệu năm

Source: https://vh2.com.vn
Category : Trái Đất