Đồ họa của Tech Insider cho thấy những lục địa sẽ hợp nhất thành một dải đất duy nhất trong vòng 250 triệu năm tới . Bạn đang đọc: Các...
phương pháp, xác định, ranh giới, thềm lục địa trong từng trường hợp – Tài liệu text
phương pháp, xác định, ranh giới, thềm lục địa trong từng trường hợp
Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (200.25 KB, 7 trang )
Thềm lục địa có một vai trò và ý nghĩa to lớn đối với nền kinh tế mỗi
quốc gia ven biển. Chính vì thế, nơi đây dễ xảy ra các tranh chấp về chế độ pháp
lý của mỗi quốc gia. Nhằm tránh xảy ra các tranh chấp này và giữ gìn trật tự hòa
bình an ninh trên biển, Công ước luật biển năm 1982 ra đời đã đưa ra những quy
định rõ ràng và công bằng về phương pháp xác định thềm lục địa của quốc gia.
Căn cứ khoản 1 Điều 76 Công ước luật biển năm 1982: “Thềm lục địa
của một quốc gia ven biển bao gồm đáy biển và lòng đất dưới đáy biển bên
ngoài lãnh hải của quốc gia đó, trên toàn bộ phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ
đất liền của quốc gia đó cho đến bờ ngoài của rìa lục địa, hoặc đến cách đường
cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải 200 hải lý, khi bờ ngoài của rìa lục địa
của quốc gia đó ở khoảng cách gần hơn.”
Như vậy, bản chất của thềm lục địa được thể hiện rõ cả về phương diện tự
nhiên và phương diện pháp lý. Về tự nhiên, đó là phần lãnh thổ đất liền mở rộng
ra hướng biển, tại đó danh nghĩa chủ quyền tạo cho quốc gia các đặc quyền có
tính chất đương nhiên. Về pháp lý, sự mở rộng lãnh thổ này không có ý nghĩa
thiết lập vùng lãnh thổ mới của quốc gia, vì theo Luật biển quốc tế, biên giới
biển của quốc gia được giới hạn bởi đường ranh giới phía ngoài lãnh hải và đó là
sự bắt đầu của thềm lục địa pháp lý có cơ sở từ lãnh thổ đất liền.
Căc cứ vào định nghĩa thềm lục địa và các quy định khác trong Công ước
1982, có thể đưa ra các phương pháp xác định ranh giới thềm lục địa trong từng
trường hợp cụ thể:
1. Xác định thềm lục địa trong các trường hợp thông thường
Công ước 1982 quy định kết hợp hài hòa tiêu hai tiêu chí cơ bản để xác
định ranh giới thềm lục địa pháp lý, đó là tiêu chuẩn địa chất (dựa vào ranh giới
ngoài rìa lục địa, vào chân dốc lục địa và đường đẳng sâu 2500m) và tiêu chuẩn
khoảng cách (chủ yếu căn cứ vào đường cơ sở). Mục đích của việc kết hợp này
là để có được kết quả phân định phù hợp giữa điều kiện tự nhiên của nước ven
bờ với sự tồn tại của vùng di sản chung, sao cho không ảnh hưởng một cách thái
quá đến sự hiện hữu của vùng di sản mà vẫn đảm bảo để nước ven biển có được
một vùng thềm lục địa vốn thuộc về nước này. Như vậy, thềm lục địa quốc gia
ven biển theo Điều 76 Công ước 1982 được xác định:
Trong mọi trường hợp, ranh giới bên trong của thềm lục địa pháp lý
chính là biên giới quốc gia trên biển (bắt đầu từ ranh giới bên ngoài lãnh hải).
Công ước 1982 đã kế thừa ranh giới hợp lý này từ Công ước 1958.
Đối với việc xác định ranh giới ngoài của thềm lục địa pháp lý, do điều
kiện tự nhiên của bờ biển và cấu trúc thềm lục địa địa chất của các quốc gia hoặc
thậm chí ngay tại từng vùng trong một quốc gia có thể không giống nhau nên
Công ước 1982 đã đưa ra các cách xác định như sau:
Thứ nhất: Đối với các quốc gia ven biển khoảng cách từ đường cơ sở
dùng để tính chiều rộng lãnh hải đến bờ ngoài của rìa lục địa nhỏ hơn 200 hải lý:
Nếu bờ ngoài của rìa lục địa của quốc gia ven biển cách đường cơ sở chưa
tới 200 hải lý thì thềm lục địa của nước đó được tính đến 200 hải lý, tức là đến
ranh giới phía ngoài của vùng đặc quyền kinh tế. Nói cách khác, khi bờ ngoài của
rìa lục địa gần hơn, hoặc chỉ cách đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải
Môn Luật quốc tế 1
một khoảng cách là 200 hải lý (370,4 km) thì ranh giới ngoài của thềm lục địa
pháp lý nước này sẽ bằng hoặc mở rộng đến khoảng cách không quá 200 hải lý
kể từ đường cơ sở. Như vậy, Công ước đã mặc định một ranh giới thềm lục địa
pháp lí tối thiểu để đảm bảo cho quốc gia ven biển có được lợi ích công bằng
nhất tại những nơi mà thềm lục địa địa chất được xem là bất lợi (tức là ở nơi mà
thềm lục địa hẹp hơn so với khoảng cách trung bình).
VD: Có rất nhiều khu vực không có thềm lục địa hoặc thềm lục địa ngắn,
đặc biệt là ở các khu vực mà các gờ của vỏ đại dương nằm gần vỏ lục địa trong
các khu vực sút giảm ven bờ, chẳng hạn như các vùng bờ biển của Chile hay bờ
biển phía tây của đảo Sumatra thì thềm lục địa của những nước này được kéo ra
đến 200 hải lý tính từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải.
Thứ hai: Khi bờ ngoài của rìa lục địa của một quốc gia ven biển kéo dài
tự nhiên vượt quá khoảng cách 200 hải lý tính từ đường cơ sở và dao động ở
khoảng cách từ ngoài giới hạn 200 hải lý ra đến các khoảng cách 250 hải lý; 300
hải lý; 350 hải lý hoặc rộng hơn thế. Đối với những trường hợp này, Công ước
1982 đã cụ thể hóa cách thức xác định thềm lục địa bằng việc dùng Công thức
Gardiner, kết hợp với tiêu chuẩn khoảng cách (tức dựa vào đường cơ sở hoặc
đường đẳng sâu) để hiện thực hóa những ranh giới pháp lý này. Công thức
Gardiner (sơ đồ công thức Gardiner tại Phụ lục đính kèm trang 4) đưa ra hai khả
năng xác định bờ ngoài của thềm lục địa địa chất như sau:
Hoặc theo bề dày trầm tích: Đường vạch nối các điểm cố định (bằng hệ
tọa độ kinh vĩ độ) tận cùng nào mà bề dày lớp đá trầm tích ít nhất cũng bằng 1%
khoảng cách từ điềm được xét cho tới chân dốc lục địa (điểm nhỏ i điểm a khoản
4 Điều 79 Công ước luật biển 1982).
Hoặc theo khoảng cách: Đường vạch nối các điểm cố định ở cách chân
dốc lục địa nhiều nhất là 60 hải lý (111,1 km) (điểm nhỏ ii điểm a khoản 4 Điều
79 Công ước luật biển 1982).
Tuy nhiên, theo khoản 5 Điều 76 Công ước luật biển 1982 thì thềm lục địa
pháp lý mở rộng ngoài giới hạn 200 hải lý kể từ đường cơ sở được tính từ đường
ranh giới phía ngoài lãnh hải cho đến bờ ngoài của rìa lục địa, nhưng không
được vượt quá 350 hải lý (648,2 km) tính từ đường cơ sở hoặc cách đường thẳng
sâu 2500m một khoảng cách không vượt quá 100 hải lý (185,2 km), với điều
kiện tuân thủ các quy định cụ thể về việc xác định ranh giới ngoài của thềm lục
địa trong Công ước luật biển 1982 và phù hợp với các kiến nghị của Ủy ban ranh
giới thềm lục địa được thành lập trên cơ sở Phụ lục II của Công ước.
Cần lưu ý, nếu việc dùng công thức Gardiner cho thấy ranh giới ngoài của
thềm lục địa pháp lý chưa vượt khỏi các khoảng cách 350 hải lý kể từ đường cơ
sở hoặc 100 hải lý kể từ đường đẳng sâu 2500m thì thềm lục địa pháp lý của
quốc gia ven biển sẽ dừng lại ở ranh giới thực tế đã được xác định chứ không
đương nhiên kéo dài đến khoảng cách tối đa nêu trên, vì về pháp lý và thực tế,
các giới hạn này thực sự cần thiết để hạn chế sự mở rộng quá mức thềm lục địa
pháp lý của quốc gia ven biển, làm ảnh hưởng đến vùng di sản chung, mặc dù sự
giới hạn đó có thể không trùng với thềm lục địa địa chất của nước này.
Mặc dù đã có khoản 5 Điều 76 thì theo khoản 6 Điều 76: “Một dải núi
ngầm, ranh giới ngoài của thềm lục địa không vượt quá một đường vạch ra ở
Môn Luật quốc tế 2
cách đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải 350 hải lý. Khoản này không
áp dụng cho các địa hình nhô cao dưới mặt nước tạo thành các yếu tố tự nhiên
của rìa lục địa, như các thềm, ghềnh, sông núi, bãi hoặc mỏm.”
2. Xác định thềm lục địa trong trường hợp có hoạt động phân định
trên biển:
Theo Luật biển quốc tế, mỗi quốc gia ven biển đều có quyền quy định các
vùng biển nội thủy, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Đây là
quyền được hiện bằng hành vi pháp lý đơn phương của từng quốc gia khi những
vùng biển này tồn tại độc lập không chồng lấn với vùng biển các quốc gia khác.
Tuy nhiên, đối với các quốc gia có vùng biển tiếp giáp hoặc đối diện nhau thì khi
các quốc gia này thực hiện yêu sách về các vùng biển danh nghĩa pháp lý của
mình có thể dẫn đến thực tiễn là có sự chồng lần về các vùng này.
Căn cứ theo Điều 83 Công ước luật biển 1982: “Việc hoạch định ranh
giới thềm lục địa giữa các quốc gia có bờ biển tiếp liền hay đối diện nhau được
thực hiện bằng con đường thỏa thuận theo đúng luật pháp quốc tế như đã được
nêu ở Điều 38 của Quy chế tòa án quốc tế, để đi tới một giải pháp công bằng…”
Như vậy, nguyên tắc chung thường được viện dẫn trong quá trình phân định biển
là nguyên tắc thỏa thuận, công bằng và tự do lựa chọn các phương pháp phân
định như phương pháp trung tuyến, cách đều, vùng khai thác chung, các dàn xếp
tạm thời. Trong phân định biển, áp dụng nguyên tắc công bằng không có nghĩa
là sửa chữa lại tự nhiên mà là đảm bảo cho mỗi quốc gia ven biển được hưởng
một vùng biển đúng và công bằng, có tính đến hoàn cảnh hữu quan (Nguyên tắc
công bằng trong phân định đã được đề cập trong phán quyết về thềm lục địa biển
Bắc năm 1969 và hàng loạt các phán quyết của các cơ quan tài phán quốc tế).
Mặc dù, không bắt buộc nhưng thực tiễn và các phán quyết của Tòa án quốc tế
khuyến nghị áp dụng phương pháp đường cách đều (hoặc trung bình) như một
đường tạm thời đưa ra để đàm phán do tính chất đơn giản, thực tiễn, dễ xác định
và ngay từ đầu bảo đảm phân chia đồng đều về diện tích. Đường tạm thời này sẽ
được điều chỉnh bởi các hoàn cảnh hữu quan để đi đến một kết quả công bằng
mà hai bên có thể chấp nhận. Kết quả này có thể được kiểm nghiệm bằng công
thức tỉ lệ chiều dài bờ biển phải phù hợp với tỉ lệ diện tích được hưởng…
Thực tiễn trong tranh chấp thềm lục địa giữa Việt Nam và Inđônêsia kéo
dài 25 năm, các bên đã thỏa thuận thành công với nhau về ranh giới thềm lục địa
ở biển Đông Nam bằng một hiệp định song phương phân định ranh giới thềm lục
địa giữa hai quốc gia năm 2003. Đồng thời, 2 bên có thỏa thuận khai thác chung
những vùng thềm lục địa chồng lấn. Trước đó, VN cũng đã có những hiệp định
về phân định ranh giới thềm lục địa với Thái Lan và Trung Quốc…
Tóm lại, với những quy định rõ ràng, tiến bộ và công bằng trong việc xác
định ranh giới thềm lục địa của từng quốc gia ven biển, Công ước luật biển 1982,
đã đảm bảo cho quốc gia ven biển có một vùng thềm lục địa trung bình hoặc tối
thiểu đối với bờ biển không thuận lợi và cũng là sự giới hạn cần thiết cho một
yêu sách về vùng thềm lục địa rộng, để không quá lấn vào biển cả và vùng di sản
chung của nhân loại. Cách quy định này khắc phục được nhược điểm của khái
Môn Luật quốc tế 3
niệm thềm lục địa trong Công ước 1958 khi không thể hiện được đặc điểm cấu
trúc của thềm lục địa ven biển ở từng nơi, từng đoạn.
PHỤ LỤC ĐÍNH KÈM
Sơ đồ thềm lục địa thuộc cấu trúc lãnh thổ
trong luật quốc tế
Chú thích:
(1) Mặt nước biển trung bình
(2) Độ cao vùng trời (không quy định trong Luật quốc tế và Luật quốc gia)
(3) Thềm lục địa địa chất (Từ bờ biển đến bờ ngoài rìa lục địa)
(4) Thềm lục địa pháp lý 200 hải lý (Từ RGPNLH đến BNRLĐ = 200 HL)
(5) Thềm lục địa pháp lý >200 hải lý (Từ RGPNLH đến tối đa không quá cách
350 HL kể từ đường cơ sở hoặc không quá 100 hải lý kể từ đường Đẳng sâu
2500m)
(6) Đường Đẳng sâu 2500m (Là đường nối liền các điểm có cùng độ sâu 2500m)
(7) Vùng trời quốc gia
(8) Vùng trời quốc tế
Môn Luật quốc tế 4
(350 HL = 100 HL kể từ đưởng đẳng sâu 2500m)
Đường Đẳng
sâu 2500m
Thềm lục địa pháp lý 200 HL
Thềm lục địa địa chất
(Rìa lục địa)
Bờ ngoài rìa
lục địa > 2000 HL
Bờ ngoài
rìa lục địa
Vùng trời quốc tế
Ranh giới phía ngoài
đặc quyền kinh tế
Biển cả
Đường
cơ sở
Lãnh hải
12 HL
Đặc quyền kinh tế
200 HL
Thềm lục địa pháp lý > 200 HL
KHOẢNG KHÔNG VŨ TRỤ
Bờ biển
Nội thủy
Vùng trời quốc gia
Ranh giới
phía ngoài
lãnh hải
Tiếp giáp
lãnh hải
24 HL
Thềm
Dốc
Bờ
1
2
3
4
9
8
7
6
5
ĐL
(9) Khoảng không vũ trụ
Sơ đồ xác định bờ ngoài rìa lục địa của thềm lục địa mở rộng
ngoài giới hạn 200 hải lý kể từ đường cơ sở
Bờ ngoài thềm lục địa pháp lý theo công thức Gardiner
Thềm lục địa
Môn Luật quốc tế 5
Ranh giới phía
ngoài lãnh hải
Chân dốc
lục địa
200 hải lý Mặt biển
60 hải lý
Bờ ngoài rìa
lục địa
TT 1%
Đường
cơ sở
Trong mọi trường hợp, ranh giới bên trong của thềm lục địa pháp lýchính là biên giới vương quốc trên biển ( mở màn từ ranh giới bên ngoài lãnh hải ). Công ước 1982 đã thừa kế ranh giới hài hòa và hợp lý này từ Công ước 1958. Đối với việc xác lập ranh giới ngoài của thềm lục địa pháp lý, do điềukiện tự nhiên của bờ biển và cấu trúc thềm lục địa địa chất của những vương quốc hoặcthậm chí ngay tại từng vùng trong một vương quốc hoàn toàn có thể không giống nhau nênCông ước 1982 đã đưa ra những cách xác lập như sau : Thứ nhất : Đối với những vương quốc ven biển khoảng cách từ đường cơ sởdùng để tính chiều rộng lãnh hải đến bờ ngoài của rìa lục địa nhỏ hơn 200 hải lý : Nếu bờ ngoài của rìa lục địa của vương quốc ven biển cách đường cơ sở chưatới 200 hải lý thì thềm lục địa của nước đó được tính đến 200 hải lý, tức là đếnranh giới phía ngoài của vùng độc quyền kinh tế tài chính. Nói cách khác, khi bờ ngoài củarìa lục địa gần hơn, hoặc chỉ cách đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hảiMôn Luật quốc tế 1 một khoảng cách là 200 hải lý ( 370,4 km ) thì ranh giới ngoài của thềm lục địapháp lý nước này sẽ bằng hoặc lan rộng ra đến khoảng cách không quá 200 hải lýkể từ đường cơ sở. Như vậy, Công ước đã mặc định một ranh giới thềm lục địapháp lí tối thiểu để bảo vệ cho vương quốc ven biển có được quyền lợi công bằngnhất tại những nơi mà thềm lục địa địa chất được xem là bất lợi ( tức là ở nơi màthềm lục địa hẹp hơn so với khoảng cách trung bình ). VD : Có rất nhiều khu vực không có thềm lục địa hoặc thềm lục địa ngắn, đặc biệt quan trọng là ở những khu vực mà những gờ của vỏ đại dương nằm gần vỏ lục địa trongcác khu vực sút giảm ven bờ, ví dụ điển hình như những vùng bờ biển của Chile hay bờbiển phía tây của hòn đảo Sumatra thì thềm lục địa của những nước này được kéo rađến 200 hải lý tính từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải. Thứ hai : Khi bờ ngoài của rìa lục địa của một vương quốc ven biển kéo dàitự nhiên vượt quá khoảng cách 200 hải lý tính từ đường cơ sở và xê dịch ởkhoảng cách từ ngoài số lượng giới hạn 200 hải lý ra đến những khoảng cách 250 hải lý ; 300 hải lý ; 350 hải lý hoặc rộng hơn thế. Đối với những trường hợp này, Công ước1982 đã cụ thể hóa phương pháp xác lập thềm lục địa bằng việc dùng Công thứcGardiner, phối hợp với tiêu chuẩn khoảng cách ( tức dựa vào đường cơ sở hoặcđường đẳng sâu ) để hiện thực hóa những ranh giới pháp lý này. Công thứcGardiner ( sơ đồ công thức Gardiner tại Phụ lục đính kèm trang 4 ) đưa ra hai khảnăng xác lập bờ ngoài của thềm lục địa địa chất như sau : Hoặc theo bề dày trầm tích : Đường vạch nối những điểm cố định và thắt chặt ( bằng hệtọa độ kinh vĩ độ ) tận cùng nào mà bề dày lớp đá trầm tích tối thiểu cũng bằng 1 % khoảng cách từ điềm được xét cho tới chân dốc lục địa ( điểm nhỏ i điểm a khoản4 Điều 79 Công ước luật biển 1982 ). Hoặc theo khoảng cách : Đường vạch nối những điểm cố định và thắt chặt ở cách chândốc lục địa nhiều nhất là 60 hải lý ( 111,1 km ) ( điểm nhỏ ii điểm a khoản 4 Điều79 Công ước luật biển 1982 ). Tuy nhiên, theo khoản 5 Điều 76 Công ước luật biển 1982 thì thềm lục địapháp lý lan rộng ra ngoài số lượng giới hạn 200 hải lý kể từ đường cơ sở được tính từ đườngranh giới phía ngoài lãnh hải cho đến bờ ngoài của rìa lục địa, nhưng khôngđược vượt quá 350 hải lý ( 648,2 km ) tính từ đường cơ sở hoặc cách đường thẳngsâu 2500 m một khoảng cách không vượt quá 100 hải lý ( 185,2 km ), với điềukiện tuân thủ những pháp luật đơn cử về việc xác lập ranh giới ngoài của thềm lụcđịa trong Công ước luật biển 1982 và tương thích với những đề xuất kiến nghị của Ủy ban ranhgiới thềm lục địa được xây dựng trên cơ sở Phụ lục II của Công ước. Cần chú ý quan tâm, nếu việc dùng công thức Gardiner cho thấy ranh giới ngoài củathềm lục địa pháp lý chưa vượt khỏi những khoảng cách 350 hải lý kể từ đường cơsở hoặc 100 hải lý kể từ đường đẳng sâu 2500 m thì thềm lục địa pháp lý củaquốc gia ven biển sẽ dừng lại ở ranh giới trong thực tiễn đã được xác lập chứ khôngđương nhiên lê dài đến khoảng cách tối đa nêu trên, vì về pháp lý và trong thực tiễn, những số lượng giới hạn này thực sự thiết yếu để hạn chế sự lan rộng ra quá mức thềm lục địapháp lý của vương quốc ven biển, làm tác động ảnh hưởng đến vùng di sản chung, mặc dầu sựgiới hạn đó hoàn toàn có thể không trùng với thềm lục địa địa chất của nước này. Mặc dù đã có khoản 5 Điều 76 thì theo khoản 6 Điều 76 : “ Một dải núingầm, ranh giới ngoài của thềm lục địa không vượt quá một đường vạch ra ởMôn Luật quốc tế 2 cách đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải 350 hải lý. Khoản này khôngáp dụng cho những địa hình nhô cao dưới mặt nước tạo thành những yếu tố tự nhiêncủa rìa lục địa, như những thềm, ghềnh, sông núi, bãi hoặc mỏm. ” 2. Xác định thềm lục địa trong trường hợp có hoạt động giải trí phân địnhtrên biển : Theo Luật biển quốc tế, mỗi vương quốc ven biển đều có quyền lao lý cácvùng biển nội thủy, lãnh hải, vùng độc quyền kinh tế tài chính và thềm lục địa. Đây làquyền được hiện bằng hành vi pháp lý đơn phương của từng vương quốc khi nhữngvùng biển này sống sót độc lập không chồng lấn với vùng biển những vương quốc khác. Tuy nhiên, so với những vương quốc có vùng biển tiếp giáp hoặc đối lập nhau thì khicác vương quốc này triển khai yêu sách về những vùng biển danh nghĩa pháp lý củamình hoàn toàn có thể dẫn đến thực tiễn là có sự chồng lần về những vùng này. Căn cứ theo Điều 83 Công ước luật biển 1982 : “ Việc hoạch định ranhgiới thềm lục địa giữa những vương quốc có bờ biển nối tiếp hay đối lập nhau đượcthực hiện bằng con đường thỏa thuận hợp tác theo đúng lao lý quốc tế như đã đượcnêu ở Điều 38 của Quy chế TANDTC quốc tế, để đi tới một giải pháp công minh … ” Như vậy, nguyên tắc chung thường được viện dẫn trong quy trình phân định biểnlà nguyên tắc thỏa thuận hợp tác, công minh và tự do lựa chọn những chiêu thức phânđịnh như giải pháp trung tuyến, cách đều, vùng khai thác chung, những dàn xếptạm thời. Trong phân định biển, vận dụng nguyên tắc công minh không có nghĩalà sửa chữa thay thế lại tự nhiên mà là bảo vệ cho mỗi vương quốc ven biển được hưởngmột vùng biển đúng và công minh, có tính đến thực trạng hữu quan ( Nguyên tắccông bằng trong phân định đã được đề cập trong phán quyết về thềm lục địa biểnBắc năm 1969 và hàng loạt những phán quyết của những cơ quan tài phán quốc tế ). Mặc dù, không bắt buộc nhưng thực tiễn và những phán quyết của Tòa án quốc tếkhuyến nghị vận dụng giải pháp đường cách đều ( hoặc trung bình ) như mộtđường trong thời điểm tạm thời đưa ra để đàm phán do đặc thù đơn thuần, thực tiễn, dễ xác địnhvà ngay từ đầu bảo vệ phân loại đồng đều về diện tích quy hoạnh. Đường trong thời điểm tạm thời này sẽđược kiểm soát và điều chỉnh bởi những thực trạng hữu quan để đi đến một hiệu quả công bằngmà hai bên hoàn toàn có thể đồng ý. Kết quả này hoàn toàn có thể được kiểm nghiệm bằng côngthức tỉ lệ chiều dài bờ biển phải tương thích với tỉ lệ diện tích quy hoạnh được hưởng … Thực tiễn trong tranh chấp thềm lục địa giữa Nước Ta và Inđônêsia kéodài 25 năm, những bên đã thỏa thuận thành công với nhau về ranh giới thềm lục địaở biển Đông Nam bằng một hiệp định song phương phân định ranh giới thềm lụcđịa giữa hai vương quốc năm 2003. Đồng thời, 2 bên có thỏa thuận hợp tác khai thác chungnhững vùng thềm lục địa chồng lấn. Trước đó, việt nam cũng đã có những hiệp địnhvề phân định ranh giới thềm lục địa với Đất nước xinh đẹp Thái Lan và Trung Quốc … Tóm lại, với những lao lý rõ ràng, tân tiến và công minh trong việc xácđịnh ranh giới thềm lục địa của từng vương quốc ven biển, Công ước luật biển 1982, đã bảo vệ cho vương quốc ven biển có một vùng thềm lục địa trung bình hoặc tốithiểu so với bờ biển không thuận tiện và cũng là sự số lượng giới hạn thiết yếu cho mộtyêu sách về vùng thềm lục địa rộng, để không quá lấn vào biển cả và vùng di sảnchung của trái đất. Cách pháp luật này khắc phục được điểm yếu kém của kháiMôn Luật quốc tế 3 niệm thềm lục địa trong Công ước 1958 khi không biểu lộ được đặc thù cấutrúc của thềm lục địa ven biển ở từng nơi, từng đoạn. PHỤ LỤC ĐÍNH KÈMSơ đồ thềm lục địa thuộc cấu trúc lãnh thổtrong luật quốc tếChú thích : ( 1 ) Mặt nước biển trung bình ( 2 ) Độ cao vùng trời ( không pháp luật trong Luật quốc tế và Luật vương quốc ) ( 3 ) Thềm lục địa địa chất ( Từ bờ biển đến bờ ngoài rìa lục địa ) ( 4 ) Thềm lục địa pháp lý 200 hải lý ( Từ RGPNLH đến BNRLĐ = 200 HL ) ( 5 ) Thềm lục địa pháp lý > 200 hải lý ( Từ RGPNLH đến tối đa không quá cách350 HL kể từ đường cơ sở hoặc không quá 100 hải lý kể từ đường Đẳng sâu2500m ) ( 6 ) Đường Đẳng sâu 2500 m ( Là đường thông suốt những điểm có cùng độ sâu 2500 m ) ( 7 ) Vùng trời vương quốc ( 8 ) Vùng trời quốc tếMôn Luật quốc tế 4 ( 350 HL = 100 HL kể từ đưởng đẳng sâu 2500 m ) Đường Đẳngsâu 2500 mThềm lục địa pháp lý 200 HLThềm lục địa địa chất ( Rìa lục địa ) Bờ ngoài rìalục địa > 2000 HLBờ ngoàirìa lục địaVùng trời quốc tếRanh giới phía ngoàiđặc quyền kinh tếBiển cảĐườngcơ sởLãnh hải12 HLĐặc quyền kinh tế200 HLThềm lục địa pháp lý > 200 HLKHOẢNG KHÔNG VŨ TRỤBờ biểnNội thủyVùng trời quốc giaRanh giớiphía ngoàilãnh hảiTiếp giáplãnh hải24 HLThềmDốcBờĐL ( 9 ) Khoảng không vũ trụSơ đồ xác lập bờ ngoài rìa lục địa của thềm lục địa mở rộngngoài số lượng giới hạn 200 hải lý kể từ đường cơ sởBờ ngoài thềm lục địa pháp lý theo công thức GardinerThềm lục địaMôn Luật quốc tế 5R anh giới phíangoài lãnh hảiChân dốclục địa200 hải lý Mặt biển60 hải lýBờ ngoài rìalục địaTT 1 % Đườngcơ sở
Source: https://vh2.com.vn
Category : Trái Đất