Networks Business Online Việt Nam & International VH2

Thông cáo báo chí tình hình lao động việc làm Quý IV và năm 2022

Đăng ngày 08 March, 2023 bởi admin
Thị Trường lao động quý IV năm 2022 liên tục phục sinh nhưng chậm dần. Lực lượng lao động, số người có việc làm và thu nhập trung bình của người lao động trong quý IV năm 2022 liên tục tăng so với quý trước và cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, tỷ suất thất nghiệp, tỷ suất thiếu việc làm trong độ tuổi lao động và tỷ suất lao động phi chính thức lại tăng lên so với quý trước .
Tính chung cả năm, thị trường lao động Nước Ta vẫn có nhiều điểm sáng, lực lượng lao động, số người có việc làm và thu nhập của người lao động đều tăng lên ; tỷ suất thất nghiệp, tỷ suất thiếu việc làm và tỷ suất lao động phi chính thức đều có khuynh hướng giảm. Điều này cho thấy dưới sự chỉ huy, điều hành quyết liệt của nhà nước và cả mạng lưới hệ thống chính trị nhằm mục đích phục sinh kinh tế tài chính, tương hỗ người lao động, doanh nghiệp đang gặp khó khăn vất vả do ảnh hưởng tác động của dịch Covid-19, nền kinh tế tài chính Nước Ta nói chung và thị trường lao động nói riêng năm 2022 đang từng bước hồi sinh .

I. TÌNH HÌNH LAO ĐỘNG VIỆC LÀM QUÝ IV NĂM 2022

1. Lực lượng lao động

Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên trong quý IV năm 2022 là 52,1 triệu người, cao nhất trong vòng 2 năm trở lại đây, tăng gần 0,3 triệu người so với quý trước và tăng gần 1,4 triệu người so với cùng kỳ năm trước. So với quý trước, lực lượng lao động ở khu vực thành thị không biến hóa nhiều, khu vực nông thôn tăng khoảng chừng 0,3 triệu người, lực lượng lao động nam và nữ đều tăng hơn 0,1 triệu người. So với cùng kỳ năm trước, lực lượng lao động tăng ở khu vực thành thị ( tăng 0,5 triệu người ) và khu vực nông thôn ( tăng gần 1 triệu người ) .

Lực lượng lao động theo quý, giai đoạn 2020 – 2022

Đơn vị tính : Triệu người

Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động quý IV năm 2022 là 68,9 %, tăng 0,2 điểm Tỷ Lệ so với quý trước và tăng 1,1 điểm Xác Suất so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của nữ là 62,7 %, thấp hơn 12,8 điểm Phần Trăm so với nam ( 75,4 % ). Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động khu vực thành thị là 66,4 %, trong khi đó tỷ suất này ở nông thôn là 70,4 %. Xem xét theo nhóm tuổi, tỷ suất tham gia lực lượng lao động ở khu vực thành thị thấp hơn khu vực nông thôn ở những nhóm tuổi rất trẻ và nhóm tuổi già, trong đó chênh lệch nhiều nhất được ghi nhận ở nhóm 55 tuổi trở lên ( thành thị : 32,7 % ; nông thôn : 46,7 % ) và nhóm từ 15-24 tuổi ( thành thị : 34,8 % ; nông thôn : 44,1 % ). Điều này cho thấy, người dân tại khu vực nông thôn gia nhập thị trường lao động sớm hơn và rời bỏ thị trường muộn hơn khá nhiều so với khu vực thành thị ; đây là đặc thù nổi bật của thị trường lao động với cơ cấu tổ chức lao động tham gia ngành nông nghiệp chiếm tỷ trọng cao .
Tỷ lệ lao động qua huấn luyện và đào tạo có bằng, chứng từ quý IV năm 2022 là 26,4 %, cao hơn 0,1 điểm Phần Trăm so với quý trước và hơn 0,3 điểm Xác Suất so với cùng kỳ năm trước .
Trong tổng số 23,5 triệu người từ 15 tuổi trở lên không tham gia thị trường lao động ( ngoài lực lượng lao động ) của quý IV năm 2022, có 12,5 triệu người trong độ tuổi lao động, tập trung chuyên sâu nhiều nhất ở nhóm 15-19 tuổi ( 6,0 triệu người ) .

2. Số người có việc làm

Lao động từ 15 tuổi trở lên có việc làm trong quý IV năm 2022 là 51,0 triệu người, tăng 239,4 nghìn người so với quý trước và tăng gần 2,0 triệu người so với cùng kỳ năm trước. Lao động có việc làm ở khu vực thành thị là 18,8 triệu người, tương tự với quý trước và tăng 0,9 triệu người so với cùng kỳ năm trước ; số có việc làm ở nông thôn là 32,2 triệu người, tăng 247,7 nghìn người so với quý trước và tăng 1,1 triệu người so với cùng kỳ năm trước .

Số lao động có việc làm quý III và quý IV, giai đoạn 2019-2022

Đơn vị tính : Nghìn người

Thông thường, quý IV là quý mà thị trường lao động cần kêu gọi rất nhiều nguồn nhân lực Giao hàng những dịp lễ tết cuối năm, do đó số có việc làm thường tăng cao, như trong năm 2019, thời gian trước khi có dịch Covid-19, lao động có việc làm trong quý IV tăng 4,6 nghìn người ( tương tự tăng gần 1 % ), tuy nhiên trong quý IV năm 2022, lần tiên phong ở Nước Ta diễn ra thực trạng thiếu đơn hàng vào dịp cuối năm do tác động ảnh hưởng của tình hình bảo mật an ninh chính trị nhiều nơi trên quốc tế không ổn định, giá nguyên vật liệu, nguyên vật liệu, khí đốt tăng cao, buộc những nước Châu Âu phải cắt giảm tiêu tốn, shopping vào dịp cuối năm, cùng với đó lãi suất vay và tỷ giá tăng vọt khiến những doanh nghiệp càng gặp nhiều khó khăn vất vả và buộc phải cắt giảm lao động, điều này làm giảm vận tốc tăng lao động trong quý IV năm nay chỉ còn 0,5 % .
Trong quý IV năm 2022, lao động có việc làm trong ngành nông, lâm nghiệp và thủy hải sản là 14,1 triệu người, tăng 116,8 nghìn người so với quý trước và giảm 194,8 nghìn người so với cùng kỳ năm trước ; ngành dịch vụ là 19,9 triệu người tăng 125,9 nghìn người so với quý trước và tăng 2,0 triệu người so với cùng kỳ năm trước. Ngược với khuynh hướng tăng của ngành dịch vụ và ngành nông, lâm nghiệp và thủy hải sản thì số có việc làm trong ngành công nghiệp và thiết kế xây dựng có khuynh hướng giảm so với quý trước, số người thao tác ở ngành này trong quý IV là gần 17,0 triệu người, giảm 3,1 nghìn người so với quý trước .
Tỷ lệ lao động có việc làm phi chính thức [ 1 ] quý IV năm 2022 là 65,4 %, tăng 0,4 điểm Phần Trăm so với quý trước và giảm 2,4 điểm Tỷ Lệ so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ lao động phi chính thức khu vực thành thị là 46,6 %, tăng 0,7 điểm Phần Trăm so với quý trước và giảm 2,2 điểm Phần Trăm so với cùng kỳ năm trước, tỷ suất này ở khu vực nông thôn là 74,6 %, tăng 0,1 điểm Tỷ Lệ so với quý trước và giảm 2,4 điểm Xác Suất so với cùng kỳ năm trước .

3. Lao động thiếu việc làm

Theo báo cáo của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, tính đến ngày 30/11/2022 gói hỗ trợ theo Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 30/01/2022 đã giải ngân khoảng 3,74 nghìn tỷ đồng, hỗ trợ cho gần 123 nghìn lượt doanh nghiệp với gần 5,3 triệu lượt lao động. Tính đến hết quý III năm nay, thị trường lao động tiếp tục duy trì đà phục hồi và có nhiều mặt khởi sắc. Với đà phục hồi đó, dự báo tình hình lao động việc làm quý IV và cả năm 2022 sẽ là bức tranh có nhiều mảng sáng. Tuy nhiên, thực tế cho thấy trong bối cảnh kinh tế thế giới suy giảm, lạm phát cao…, nhiều đơn hàng bị cắt giảm, đặc biệt là ở các ngành dệt may, da giày, chế biến gỗ, điện tử vào thời điểm cuối năm thì đà phục hồi của thị trường lao động đang có xu hướng chậm lại. Cụ thể, số người thiếu việc làm trong độ tuổi[2] quý IV năm 2022 là khoảng 898,2 nghìn người, tăng 26,5 nghìn người so với quý trước và giảm 566,0 nghìn người so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi quý này là 1,98%, tăng 0,06 điểm phần trăm so với quý trước và giảm 1,39 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi ở khu vực thành thị thấp hơn so với khu vực nông thôn (tương ứng là 1,57% và 2,22%). Như vậy, mặc dù tình hình thiếu việc làm của người lao động giảm so với cùng kỳ năm trước, tuy nhiên khác với xu hướng các năm trước đây khi chưa chịu ảnh hưởng nặng nề bởi dịch Covid-19, quý 4 là thời điểm các doanh nghiệp và người lao động triển khai tăng ca, làm cho tỷ lệ thiếu việc làm của quý 4 thường có xu hướng thấp nhất trong năm thì năm nay, tỷ lệ ở quý này bị đẩy cao hơn so với quý trước.

Số người và tỷ lệ thiếu việc làm trong độ tuổi lao động theo quý, 2020-2022

4. Thu nhập bình quân tháng của người lao động

Thu nhập trung bình tháng của người lao động quý IV năm 2022 là 6,8 triệu đồng, tăng 95 nghìn đồng so với quý trước và tăng 1,5 triệu đồng so với cùng kỳ năm trước. Thu nhập trung bình tháng của lao động nam là 7,8 triệu đồng, tăng 105 nghìn đồng so với quý trước và tăng 1,6 triệu đồng so với cùng kỳ năm trước ; thu nhập trung bình tháng của lao động nữ là 5,8 triệu đồng, tăng 83 nghìn đồng so với quý trước và tăng 1,4 triệu đồng so với cùng kỳ năm trước .
Quý III năm 2022, thị trường lao động tận mắt chứng kiến đà phục sinh nhanh, can đảm và mạnh mẽ, thu nhập trung bình của người lao động liên tục tăng, được cải tổ từ quý I đến quý III năm 2022. Đến quý IV năm 2022 thu nhập trung bình của người lao động liên tục tăng so với quý trước, nhưng với vận tốc tăng chậm lại so với cùng kỳ quý III năm 2022. Tốc độ tăng thu nhập trung bình của lao động quý III năm 2022 so với quý II năm 2022 là 2,2 % ( tương ứng tăng 143 nghìn đồng ). Trong khi, vận tốc tăng thu nhập trung bình tháng của lao động quý IV năm 2022 so với quý III năm 2022 là 1,4 % ( tương ứng tăng 95 nghìn đồng ) .
So với quý trước, thu nhập trung bình của lao động ở cả ba khu vực kinh tế tài chính trong quý IV năm nay đều tăng. Thu nhập trung bình của lao động thao tác trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy hải sản là 4,0 triệu đồng, là khu vực ghi nhận vận tốc tăng thu nhập trung bình cao nhất, tăng 2,4 %, tương tứng tăng 93 nghìn đồng. Lao động thao tác trong khu vực dịch vụ có mức thu nhập là 8,1 triệu đồng / người / tháng, tăng 1,6 %, tương ứng tăng 129 nghìn đồng / người / tháng. Lao động thao tác trong khu vực công nghiệp và thiết kế xây dựng có thu nhập trung bình là 7,7 triệu đồng, tăng 0,9 %, tương ứng tăng 66 nghìn đồng so với quý trước .
Thu nhập trung bình của lao động một số ít ngành kinh tế tài chính liên tục ghi nhận tốc tốc tăng trưởng dương so với quý trước và cao hơn vận tốc tăng của quý III năm 2022 so với quý II năm 2022 như : thu nhập trung bình của lao động ngành hoạt động giải trí kinh tế tài chính, ngân hàng nhà nước và bảo hiểm là 11,3 triệu đồng, tăng 5,7 %, tương ứng tăng 605 nghìn đồng ; lao động thao tác trong ngành khai khoáng có mức thu nhập trung bình là 9,6 triệu đồng, tăng 2,6 %, tương ứng tăng 240 nghìn đồng ; thu nhập trung bình của lao động thao tác trong ngành bán sỉ, kinh doanh bán lẻ, thay thế sửa chữa xe hơi, mô tô, xe gắn máy có thu nhập trung bình là 7,9 triệu đồng, tăng 2,4 %, tương ứng tăng 186 nghìn đồng .
Mặc dù, quý IV năm 2022, thu nhập trung bình của lao động trong 1 số ít ngành kinh tế tài chính liên tục tăng trưởng dương, nhưng với vận tốc tăng trưởng chậm lại so với quý III năm 2022 như : thu nhập trung bình của lao động ngành dịch vụ lưu trú và nhà hàng có mức thu nhập trung bình là 6,7 triệu đồng, tăng 3,1 %, tương ứng tăng khoảng chừng 200 nghìn đồng ; ngành công nghiệp chế biến, sản xuất lao động có mức thu nhập trung bình là 7,6 triệu đồng, tăng 1,2 %, tương ứng tăng 89 nghìn đồng .
Thu nhập trung bình của lao động làm công hưởng lương quý IV năm 2022 là 7,7 triệu đồng, tăng 0,92 %, tương ứng tăng 71 nghìn đồng so với quý trước. So với cùng kỳ năm 2021, thu nhập trung bình của lao động làm công hưởng lương quý IV năm 2022 tăng 25,4 %, tương ứng tăng 1,6 triệu đồng. Quý IV năm 2022, lao động nam làm công hưởng lương có thu nhập trung bình tháng là 8,1 triệu đồng, cao hơn 1,14 lần thu nhập trung bình của lao động nữ ( 7,1 triệu đồng ). Thu nhập trung bình tháng của lao động làm công hưởng lương thao tác ở khu vực thành thị cao hơn 1,22 lần của lao động thao tác ở khu vực nông thôn, tương ứng 8,6 triệu đồng so với 7,0 triệu đồng .

5. Thất nghiệp trong độ tuổi lao động

Thông thường, thị trường lao động những tháng cuối năm 2022 sẽ sôi động hơn do các doanh nghiệp tăng cường nhân lực để nâng cao năng suất lao động nhằm đảm bảo tiến độ hoàn thành các đơn hàng, kế hoạch sản xuất kinh doanh của năm. Đặc biệt, những dịp lễ lớn như Noel, Tết Dương lịch, Tết Nguyên đán, nhiều doanh nghiệp tập trung đẩy mạnh sản xuất để đáp ứng nhu cầu của khách hàng, do vậy các doanh nghiệp phải tuyển dụng thêm lao động trong thời điểm này để phục vụ kế hoạch mở rộng, sản xuất, kinh doanh cuối năm. Tuy nhiên, trước biến động của thị trường quốc tế và trong nước, những tháng cuối năm 2022, một số doanh nghiệp, đặc biệt trong lĩnh vực dệt may, da giày, chế biến gỗ đã gặp khó khăn trong sản xuất, kinh doanh, bị cắt giảm đơn hàng, dẫn đến phải cắt giảm việc làm. Do đó, tình hình thất nghiệp quý IV có xu hướng tăng lên so với quý trước. Cụ thể, số người thất nghiệp trong độ tuổi lao động quý IV năm 2022 là hơn 1,08 triệu người, tăng 24,9 nghìn người so với quý trước và giảm 520,0 nghìn người so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động quý IV năm 2022 là 2,32%, tăng 0,04 điểm phần trăm so với quý trước và giảm 1,24 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước.

Số người và tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động theo quý, 2020-2022

Tỷ lệ thất nghiệp của người trẻ tuổi 15-24 tuổi quý IV năm 2022 là 7,70 %, giảm 0,32 điểm Tỷ Lệ so với quý trước và giảm 1,08 điểm Phần Trăm so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ thất nghiệp của người trẻ tuổi khu vực thành thị là 10,78 %, cao hơn 4,67 điểm Tỷ Lệ so với khu vực nông thôn .

6. Lao động làm công việc tự sản tự tiêu

Số lao động làm việc làm tự sản tự tiêu quý IV năm 2022 là 4,2 triệu người, giảm gần 80 nghìn người so với quý trước và giảm mạnh 0,7 triệu người so với cùng kỳ năm trước, số lao động này hầu hết ở khu vực nông thôn. Gần hai phần ba số người sản xuất loại sản phẩm tự sản tự tiêu quý IV năm 2022 là phái đẹp ( chiếm 63,4 % ) .
Trong tổng số 4,3 triệu người là lao động sản xuất tự sản tự tiêu, có khoảng chừng gần 2,2 triệu người đang trong độ tuổi lao động ( chiếm 51,7 % ). Hầu hết lao động sản xuất tự sản tự tiêu đều không có bằng cấp, chứng từ. Trong toàn cảnh thị trường lao động ngày càng yên cầu, nhu yếu cao về kinh nghiệm tay nghề, kiến thức và kỹ năng cũng như Open nền kinh tế tài chính sau đại dịch Covid-19, thời cơ để nhóm lao động này có một việc làm trên thị trường lao động là rất khó khăn vất vả .

II. TÌNH HÌNH LAO ĐỘNG VIỆC LÀM NĂM 2022

1. Lực lượng lao động

Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên năm 2022 đạt 51,7 triệu người, cao hơn 1,1 triệu người so với năm trước. Lực lượng lao động ở khu vực thành thị là 19,1 triệu người, chiếm 37,1 điểm Tỷ Lệ ; lực lượng lao động nữ đạt 24,2 triệu người, chiếm 46,8 % lực lượng lao động của cả nước .
Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động năm 2022 là 68,5 %, tăng 0,8 điểm Tỷ Lệ so với năm trước .
Lực lượng lao động đã qua huấn luyện và đào tạo từ trình độ “ Sơ cấp ” trở lên năm 2022 ước tính là 13,5 triệu người, chiếm 26,2 %, tăng 0,1 điểm Phần Trăm so với năm trước .

2. Lao động có việc làm

Lao động từ 15 tuổi trở lên có việc làm năm 2022 là 50,6 triệu người, tăng 1,5 triệu người so với năm 2021, tuy nhiên vẫn thấp hơn năm 2019 là 56,8 nghìn người. Trong đó, số lao động có việc làm ở khu vực thành thị là 18,6 triệu người ( tăng 877,3 nghìn người so với năm trước ), lao động ở khu vực nông thôn là 31,9 triệu người ( tăng 627,2 nghìn người so với năm trước ) .
Tính chung cả năm 2022, lao động trong khu vực công nghiệp và thiết kế xây dựng là 17,0 triệu người ( chiếm 33,6 % ), tăng 724,6 nghìn người so với năm trước ; khu vực dịch vụ được ghi nhận có sự tăng lên mạnh và đạt 19,7 triệu người ( chiếm 38,9 % ), tăng 1,1 triệu người so với năm trước. Lao động thao tác trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy hải sản đạt mức 13,9 triệu người, ( chiếm 27,5 % ), giảm 352,7 nghìn người so với năm trước. Với tiềm năng đặt ra trong Nghị quyết số 01 / NQ-CP của nhà nước : Về trách nhiệm, giải pháp hầu hết thực thi Kế hoạch tăng trưởng kinh tế tài chính – xã hội và Dự toán ngân sách nhà nước năm 2022, trong đó đặt ra tiềm năng giảm tỷ trọng lao động trong nông nghiệp trong tổng số lao động xã hội là 27,5 % thì tiềm năng này đạt .
Tỷ lệ lao động có việc làm phi chính thức của cả nước trong năm 2022 là 65,6 %, giảm 2,9 điểm Xác Suất so với năm trước. So với năm 2021, tỷ suất lao động có việc làm phi chính thức giảm ở cả khu vực thành thị và nông thôn, tỷ suất này ở khu vực thành thị là 49,9 % và khu vực nông thôn là 74,7 %, giảm lần lượt là 2,1 điểm Tỷ Lệ và 3,2 điểm Phần Trăm .

3. Lao động thiếu việc làm

Thiếu việc làm trong độ tuổi năm 2022 là khoảng chừng 991,5 nghìn người, giảm 454,5 nghìn người so với năm trước. Tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi năm 2022 là 2,21 %, giảm 0,89 điểm Xác Suất so với năm trước. Tỷ lệ thiếu việc làm ở khu vực thành thị thấp hơn khu vực nông thôn ( tương ứng là 1,70 % và 2,51 % ). Chia theo ba khu vực kinh tế tài chính, nông nghiệp là khu vực có tỷ suất này cao nhất với 4,03 %, tiếp theo là khu vực dịch vụ với 1,79 %, và khu vực công nghiệp và kiến thiết xây dựng đạt tỷ suất thấp nhất với 1,79 % .

4. Thu nhập của người lao động

Thu nhập trung bình tháng của người lao động năm 2022 là 6,7 triệu đồng, tăng 927 nghìn đồng so với năm trước và tăng 759 nghìn đồng so với cùng kỳ năm 2019. Thu nhập trung bình tháng của lao động nam là 7,6 triệu đồng, tăng 950 nghìn đồng so với năm trước và tăng 830 nghìn đồng so với cùng kỳ năm 2019 ; thu nhập trung bình tháng của lao động nữ là 5,6 triệu đồng, tăng 914 nghìn đồng so với năm trước và tăng 709 nghìn đồng so với cùng năm 2019 .
Năm 2022, tận mắt chứng kiến sự tăng trưởng ở hầu hết những ngành kinh tế tài chính, thu nhập của người lao động tăng ở cả ba khu vực kinh tế tài chính so với năm 2021, trong đó, khu vực công nghiệp và thiết kế xây dựng ghi nhận mức tăng trưởng thu nhập cao nhất. Thu nhập của lao động thao tác trong khu vực công nghiệp và thiết kế xây dựng tăng mạnh nhất, tăng 17,6 % ( tương ứng tăng 1,1 triệu đồng / người / tháng ) ; lao động thao tác trong ngành dịch vụ tăng 15,4 % ( tương ứng tăng 1,0 triệu đồng / người / tháng ). Thu nhập trung bình của lao động thao tác trong ngành nông, lâm nghiệp và thủy hải sản tăng 9,8 %, tương ứng tăng 448 nghìn đồng .
So với cùng kỳ năm 2021, 1 số ít ngành kinh tế tài chính có vận tốc tăng thu nhập trung bình của người lao động tăng trưởng khá điển hình nổi bật : lao động thao tác trong ngành vận tải đường bộ kho bãi có vận tốc tăng thu nhập trung bình là 21,2 %, tương ứng tăng 1,6 triệu đồng ; thu nhập trung bình của lao động ngành dịch vụ lưu trú nhà hàng tăng 21,0 %, tương ứng tăng 1,1 triệu đồng ; thu nhập trung bình của lao động ngành công nghiệp chế biến, sản xuất tăng 18,2 %, tương ứng tăng 1,1 triệu đồng ; thu nhập của lao động ngành bán sỉ, kinh doanh bán lẻ, sửa chữa thay thế xe hơi, mô tô, xe máy tăng 17,2 %, tương ứng tăng 1,1 triệu đồng / người / tháng .
Thu nhập trung bình của lao động làm công hưởng lương năm 2022 là 7,5 triệu đồng, tăng 15,1 % so với năm trước, tương ứng tăng 992 nghìn đồng. So với cùng kỳ năm 2019, khi Covid-19 chưa Open, thu nhập của lao động làm công hưởng lương tăng 12,7 %, tương ứng tăng khoảng chừng 847 nghìn đồng. Lao động nam làm công hưởng lương có thu nhập trung bình là 8,0 triệu đồng, cao hơn 1,14 lần thu nhập trung bình của lao động nữ ( 7,0 triệu đồng ). Thu nhập trung bình của lao động làm công hương lương thao tác ở khu vực thành thị cao hơn 1,23 lần thu nhập trung bình của lao động thao tác ở khu vực nông thôn, tương ứng 8,4 triệu đồng so với 6,9 triệu đồng .

5. Thất nghiệp trong độ tuổi lao động

Số người thất nghiệp trong độ tuổi lao động năm 2022 là gần 1,07 triệu người, giảm 359,2 nghìn người so với năm trước. Tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động năm 2022 là 2,32 %, giảm 0,88 điểm Xác Suất so với năm trước .
Số người trẻ tuổi từ 15-24 tuổi thất nghiệp năm 2022 là khoảng chừng 409,3 nghìn người, chiếm 37,6 % tổng số người thất nghiệp từ 15 tuổi trở lên. Tỷ lệ thất nghiệp của người trẻ tuổi trong năm 2022 là 7,72 %, giảm 0,83 điểm Phần Trăm so với năm trước. Tỷ lệ thất nghiệp của người trẻ tuổi khu vực thành thị là 9,70 %, giảm 2,13 điểm Xác Suất so với năm trước .

6. Lao động tự sản tự tiêu

Số lao động làm việc làm tự sản tự tiêu năm 2022 là gần 4,4 triệu người, giảm 0,7 triệu người so với năm trước. Số lao động này hầu hết ở khu vực nông thôn .

Gần 2/3 số lao động tự sản tự tiêu là nữ giới (chiếm 63,1%). Số lao động nữ giới làm công việc tự sản tự tiêu năm 2022 giảm gần 100 nghìn người so với năm trước. Đây là nhóm lao động yếu thế và chịu nhiều ảnh hưởng từ diễn biến phức tạp của dịch Covid-19 ngay cả khi thị trường lao động mở cửa trở lại. Trong tổng số hơn 4,5 triệu người là lao động sản xuất tự sản tự tiêu, khoảng 2,3 triệu người đang trong độ tuổi lao động (chiếm 52,9%).

MỘT SỐ CHỈ TIÊU CHỦ YẾU (File đính kèm)

[1] Trong của quý IV năm 2022, tỷ lệ lao động phi chính thức phi nông nghiệp là 54,6%, tăng 0,5 điểm phần trăm so với quý trước và giảm 0,5 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước.

[2] Theo quy định tại Bộ Luật Lao động năm 2019, trong độ tuổi lao động bao gồm: nam từ 15 đến 59 và nữ từ 15 đến 54 (từ năm 2020 trở về trước); nam từ 15 đến chưa đủ 60 tuổi 3 tháng và nữ từ 15 đến chưa đủ 55 tuổi 4 tháng (năm 2021); nam từ 15 đến chưa đủ 60 tuổi 6 tháng và nữ từ 15 đến chưa đủ 55 tuổi 8 tháng (năm 2022).

Source: https://vh2.com.vn
Category : Công Cộng