Networks Business Online Việt Nam & International VH2

Nạn đói năm Ất Dậu, 1944–1945 – Wikipedia tiếng Việt

Đăng ngày 08 March, 2023 bởi admin

Nạn đói năm Ất Dậu là một nạn đói lớn xảy ra tại miền Bắc Việt Nam trong khoảng từ tháng 10 năm 1944 đến tháng 5 năm 1945, làm khoảng từ 400.000 đến 2 triệu người dân chết đói.[1]

Trẻ em trong nạn đói tại Việt Nam 1944–1945.
Tranh biếm họa về các chính sách của Pháp, Đế Quốc Nhật và nạn côn trùng, nguyên nhân dẫn đến nạn đói

Chính sách của Pháp

[sửa|sửa mã nguồn]

Sau vụ khủng hoảng kinh tế toàn thế giới năm 1930, Pháp quay lại với chủ trương bảo lãnh mậu dịch và độc quyền khai thác Đông Dương theo đường lối thực dân. Toàn thể dân Đông Dương phải ra sức nâng cao giá trị kinh tế tài chính của khu vực, nhưng chỉ có người Pháp, một thiểu số rất ít người Việt và người Hoa thân mật với Pháp hay 1 số ít dân chúng thành thị được hưởng lợi. Hậu quả là trước Đại chiến quốc tế lần thứ hai, Nước Ta vẫn chỉ là một vương quốc lỗi thời và nghèo nàn nhất so với nhiều vương quốc châu Á khác. Hệ thống thuế nửa thực dân nửa phong kiến khiến cho những hộ nông dân phải bán gần hết lương thực có được để nộp thuế khiến hầu hết nông dân không còn lương thực dự trữ .

Theo ông Hoàng Trọng Miên, trong sách Đệ Nhất Phu Nhân Tập I viết:

Giữa thời kỳ ấy, để phòng ngừa dân miền Bắc nổi dậy, Pháp tung đám tay sai đi khắp nơi vơ vét hết thóc gạo tải về tập trung ở các kho dự trữ riêng, lấy cớ là để tiếp tế cho quân đội Nhật. Hết ép buộc mua rẻ của dân quê, Pháp lại vãi tiền ra mua thóc, ngô (bắp) bằng một giá cao để thu cho kỳ sạch ngũ cốc hiếm hoi của miền Bắc. Gạo Nam Kỳ thì không được đưa ra, lấy cớ là phi cơ Đồng Minh ngày đêm không ngừng bắn phá tàu bè, ghe thuyền, còn đường xe lửa xuyên Đông Dương thì Pháp dành cho Nhật chuyên chở quân sự. Lúa thừa ở miền Nam chất chứa đầy kho, Pháp đem đốt thay than củi ở các nhà máy điện.

Dân quê ở Bắc khởi sự chết đói từ cuối năm 1944. Mùa lúa tháng Mười lại thất bát. Người có tiền ở thôn quê cũng đành nhịn ăn, vì thóc gạo đã bị lấy sạch. Tại thành phố, mỗi khẩu phần người Việt đều phải ăn gạo “bông” (phiếu mua gạo) ở trong tay chính quyền Pháp phân phát.[3]

Theo sách Việt Sử Khảo Luận – Cuốn 4:

Bọn Pháp Decoux – Morlant, từ mùa gặt cuối năm 1943 đến hai mùa gặt năm 1944, cũng trưng thâu gạo bỏ vào các kho quân đội Pháp để phòng hờ một cuộc đổ bộ Đồng Minh vào Đông Dương.[4]

Chính sách thu gom gạo của Nhật Bản[sửa|sửa mã nguồn]

Khi Đại chiến quốc tế bùng nổ, Pháp bị yếu thế ở châu Âu. Tại khu vực Viễn Đông, Đế quốc Nhật Bản khởi đầu bành trướng và coi Đông Dương như thể ” đầu cầu ” để tiến qua Nam Á hòng khống chế Trung Quốc. Giữa năm 1940, nước Pháp bị Đức chiếm và Nhật Bản gây áp lực đè nén với Pháp để tiến vào Đông Dương. Việt Nam bị cuốn vào nền kinh tế tài chính thời chiến, với việc Pháp và Nhật tranh giành quyền trấn áp kinh tế tài chính. Người ta nói đến nguyên do là Nhật Bản bắt dân Nước Ta trồng đay thay trồng lúa gạo để ship hàng cuộc chiến tranh, nhưng thực ra Pháp đã triển khai việc ấy từ trước, đơn cử là thu hẹp diện tích quy hoạnh canh tác những hoa màu phụ như ngô, khoai, sắn, để trồng bông, đay, gai hay cây kỹ nghệ. Sản lượng lúa gạo và hoa màu quy ra thóc tại miền Bắc giảm xuống rất mạnh do diện tích quy hoạnh canh tác bị thu hẹp. Theo thống kê, năm 1940, diện tích quy hoạnh trồng đay là 5.000 ha nhưng đến năm 1944 đã tăng lên 45.000 ha. [ 1 ]Trong thế chiến thứ 2, chủ quyền lãnh thổ Nước Ta nằm dưới sự chiếm đóng của quân đội Nhật. Gạo và cao su đặc được quân Nhật thu gom, chở về nước hoặc cung ứng cho quân Nhật đóng ở tiền đồn vùng biển phía Nam. Theo tài liệu của chính quyền sở tại Pháp ở Đông Dương thì về gạo đã xuất ra quốc tế, năm 1941 : 700.000 tấn, năm 1942 : 1.050.000 tấn, năm 1943 : 1.125.000 tấn, năm 1944 : 900.000 tấn ; về cao su đặc và những khoản thương vụ làm ăn khác trong mấy năm đầu thập niên 1940 đã xuất số lượng tính ra bằng vàng tổng giá trị là 32.620 kg ( tính tròn ), tương tự số tiền lúc đó là 22 tỷ Franc [ 5 ] .Cuối năm 1944, quân số của Nhật đóng ở vùng Bắc Kỳ đã lên tới gần 100.000 người. Bắc Kỳ lúc đó đã thiếu gạo vì vụ mùa bị thất thu, lại bị cái họa phải nhổ lúa để trồng cây công nghiệp cho Nhật, rồi lại phải nuôi thêm 100.000 miệng ăn của quân đội Nhật [ 6 ] .Năm 1944, Nước Ta bị mất mùa nhưng Pháp và triều đình nhà Nguyễn vẫn phải cung ứng cho Nhật hơn 900.000 tấn gạo để phân phối cho nhu yếu cuộc chiến tranh, làm nguyên vật liệu để người Pháp nấu rượu, dùng đốt lò thay cho than đá. Nhật cấm vận chuyển lúa từ miền Nam ra, vơ vét thóc ở miền Bắc khiến giá thóc, gạo tăng vọt. Năm 1943, một tạ gạo giá chính thức là 31 đồng bạc Đông Dương, giá chợ đen là 57 đồng ; năm 1944 tăng lên 40 đồng, giá chợ đen là 350 đồng, nhưng đến đầu năm 1945 thì giá chính thức vọt lên 53 đồng còn giá chợ đen từ 700 – 800 đồng. [ 1 ]Vì chiến cuộc lượng gạo chở bằng thuyền từ trong Nam ra Bắc khởi đầu giảm từ 126.670 tấn ( 1942 ) xuống còn 29.700 tấn ( 1943 ), và đến năm 1944 chỉ còn 6.830 tấn. [ 7 ] Tàu bè chở gạo ra bắc chỉ ra được đến Thành Phố Đà Nẵng. Khi không quân Đồng minh lan rộng ra tầm oanh kích thì tàu chở gạo phải cập bến ở Quy Nhơn rồi ở đầu cuối chỉ ra được đến Nha Trang. Năm 1945 nhà nước Trần Trọng Kim phải kêu gọi những phương tiện đi lại thô sơ chuyển vận gạo từ Nam ra Bắc bằng xe bò hay thuyền nhỏ. Cùng lúc đó thì lượng gạo tồn dư ở Hồ Chí Minh lên cao vì không xuất cảng sang Nhật được khiến chủ kho phải bán rẻ dưới giá mua. Hơn 55.000 tấn gạo phải bán tháo cho những xưởng nấu rượu vì rủi ro tiềm ẩn gạo ứ đọng sẽ mốc trong khi nạn đói hoành hành ở ngoài Bắc. [ 8 ]Đối với Pháp và Nhật Bản thì cả hai đều chú tâm vào những tiềm năng khác cho nhu yếu cuộc chiến tranh của họ. Chính Toàn quyền Đông Dương Jean Decoux từ trước năm 1945 đã ra lệnh trưng thu thóc gạo để chở sang Nhật theo thỏa thuận hợp tác với Đế quốc Nhật Bản. Giá gạo thị trường lúc bấy giờ là 200 đồng bạc Đông Dương một tấn nhưng nông dân chỉ được trả 25 đồng. [ 9 ]Tình hình càng khó khăn vất vả thêm khi Nhật thay máu chính quyền Pháp vào tháng 3 / 1945 khiến cỗ máy chính quyền sở tại của Pháp ở Đông Dương nhanh gọn tan rã. Việc tiếp vận và phân phối sau đó lại bị tê liệt. Nạn thiếu ăn biến thành nạn đói, đã manh nha từ đầu năm 1944 nay càng thêm trầm trọng. Đế quốc Việt Nam do Trần Trọng Kim làm thủ tướng ra chấp chính từ tháng 4 / 1945 đã cố gắng nỗ lực kêu gọi việc cứu đói cho dân ngoài Bắc nhưng những yếu tố chính trị, phương tiện đi lại và nhân sự phần nhiều vẫn nằm trong tay người Nhật nên Đế quốc Việt Nam không làm thuyên giảm được hậu quả ghê gớm của nạn đói. Trong khi Bộ Tiếp tế chỉ làm được vài việc vặt, thì Bộ Tài chính của Đế quốc Việt Nam chỉ chuyên làm 1 việc là gom tiền thuế của dân cư Việt Nam giao cho Nhật. Chỉ riêng trong 5 tháng sống sót, nhà nước Trần Trọng Kim đã nộp cho Nhật Bản khoản tiền 720 triệu đồng Đông Dương ( Piastre ), ngang với số tiền 726 triệu do chính quyền sở tại thực dân Pháp nộp cho Nhật Bản trong 5 năm trước đó ( 1940 – 9/3 / 1945 ). Tổng cộng trong thời hạn Thế chiến thứ hai, người Nước Ta đã phải nộp cho Nhật khoản tiền là 1 tỷ 446 triệu Piastre, tương tự 14 tỷ 460 triệu Franc lúc đó. [ 10 ]

Đa phần các kho thóc có khả năng cứu đói trực tiếp tại miền Bắc khi đó đều nằm trong tay quân đội Nhật. Người Nhật vì mục đích chiến tranh đã thờ ơ trước sự chết đói hàng loạt của dân bản địa. Các kho lương thực được tăng cường bảo vệ, hoạt động trưng thu và vận chuyển lương thực được bảo vệ tối đa. Các kho thóc trở thành tâm điểm nơi người đói kéo về nhưng không được cứu đói đã nằm chết la liệt quanh đó. Tác giả Yoshizawa Minami cũng cho biết “ông Kawai, đảm nhiệm công việc giám sát chuyển gạo từ nam ra bắc qua tỉnh Nam Định, đồng thời là quản lý chung về gạo dự trữ, phân phối trong tỉnh, nói có những nơi vẫn còn gạo chất như núi trong kho quân đội. Không những thế, tại một nhà thờ Thiên chúa giáo trong tỉnh gạo đầy ắp trong kho. Ông đã thuyết phục cán bộ đại sứ quán Nhật Bản mở kho phát gạo nhưng họ không nghe”[11]

Về việc cứu đói, đến tận tháng 6, chính phủ nước nhà Trần Trọng Kim vẫn không làm được điều mình hứa hẹn. Báo Ngày Nay xuất bản tháng 6/1945 nhận xét về sự bất lực trọn vẹn của cơ quan chính phủ này, viết [ 12 ] :

“Chúng tôi nhận thấy ai ai cũng thất vọng và chán nản, vì sau hai tháng hô hào và tốn bao giấy mực, dân đói miền Bắc cũng chưa thấy một bao gạo nào ở Nam đưa ra. Lời tuyên bố của thủ tướng còn vang vọng bên tai ta: “Cần nhất là phải tiếp tế cho dân đói miền Bắc” mà tới nay việc làm vẫn chưa đi theo lời nói; tuy rằng gạo miền Nam vẫn chất đầy trong các kho, các nhà máy, tuy rằng giấy bạc vẫn nằm từng xấp dày trong các két sắt của nhà tư sản Việt Nam, tuy rằng nội các vẫn có một bộ tiếp tế và một bộ tài chính”

Về yếu tố này, nhà sử học Trần Văn Giàu chỉ ra nguyên do của sự bất lực này là do đặc thù bù nhìn của chính phủ nước nhà Trần Trọng Kim :

Lẽ dĩ nhiên, nguyên nhân trận chết đói năm 1945 chủ yếu không phải là do chính phủ Trần Trọng Kim mà là do chế độ thực dân, là chính sách tàn bạo của Pháp – Nhật. Sự bất lực của chính phủ Trần Trọng Kim phần lớn là do tính chất bù nhìn của nó. Nó không thể bớt chỗ nào thừa cho chỗ không có. Nó không thể chống nạn đầu cơ ở miền Bắc lúc ấy vẫn còn gạo trong các kho của quân phiệt Nhật. Nhật tích trữ lương thực để nuôi quân. Từ 9-3 đến giữa tháng 6, việc thu thóc tạ vẫn được thi hành trong lúc hàng chục vạn đồng bào ta chết rũ dọc đường xó chợ. Chính phủ Trần Trọng Kim đâu dám đụng đến việc thu thóc tạ, càng không dám đụng đến kho thóc. Chính phủ đã cam đoan với Nhật là tiếp tế cho Nhật bằng hay hơn Pháp, để xứng đáng với cái độc lập mà Nhật ban cho!
Cả chính phủ Trần Trọng Kim và Nhật đều bắt buộc mọi sự vận chuyển thóc gạo từ Nam ra Bắc đều phải qua “Ủy ban thóc gạo” ở Sài Gòn mà ủy ban này do công ty Nhật nắm. Khi tải ra đến Bắc thì phải gom gạo cho công ty thóc gạo Bắc kỳ 75% số lượng, công ty này lo bảo đảm trước hết lương thực cho quân Nhật, còn lại mới bán cho dân

Không những vậy, Đạo dụ của cơ quan chính phủ Trần Trọng Kim ngày 13/6/1945 còn lao lý : ai phạm việc phá hoại cầu và cống, đường sá, cướp phá hoặc làm hư hại kho ngũ cốc, đồ ăn, gạo, đều bị phán quyết tử hình. Đạo dụ cũng cấm chỉ mọi cuộc tụ tập trên 10 người. Vì đạo dụ này, nhân dân không dám tập hợp nhau kéo đi phá kho thóc để chia cho người đói, hàng chục vạn người đã chết đói ngay bên ngoài cửa những kho thóc còn đầy ắp [ 12 ]
Ngoài toàn cảnh cuộc chiến tranh, chính trị và kinh tế tài chính, tình hình thời tiết ngoài Bắc cũng đã góp thêm phần trong những động lực tạo ra nạn đói. Mùa màng miền Bắc bị hạn hán và côn trùng nhỏ phá hoại, khiến sản lượng vụ đông-xuân từ năm 1944 giảm sụt khoảng chừng 20 % so với thu hoạch năm trước. Sau đó là lũ lụt xảy ra làm hư hại vụ mùa nên nạn đói khởi đầu lan dần. Mùa đông năm 1944 – 45 khắc nghiệt thay cũng lại là một mùa đông giá rét khiến những hoa màu phụ cũng mất, tạo ra những yếu tố tai ác chồng chất giữa toàn cảnh cuộc chiến tranh quốc tế. Tháng 9/1944, lụt vỡ đê La Giang ( TP Hà Tĩnh ), đê sông Cả ( Nghệ An ) cùng thực trạng mất mùa ở những tỉnh Bắc Bộ cuối năm 1944 làm cho nạn đói diễn ra trầm trọng hơn. Theo những người dân trải qua nạn đói ở Tây Lương ( Tiền Hải, Tỉnh Thái Bình ) thì vụ mùa năm 1944, lúa trên những cánh đồng rộng hàng trăm mẫu đều bị rầy phá hoại. [ 1 ]

Hoạt động của quân Đồng minh[sửa|sửa mã nguồn]

Trong Chiến tranh quốc tế thứ hai, Nước Ta bị Đế quốc Nhật Bản chiếm đóng nên bị quân Đồng Minh mà hầu hết là Hoa Kỳ tiếp tục oanh tạc những tuyến đường vận tải đường bộ để tiến công quân Nhật Bản. Kết quả là mạng lưới hệ thống giao thông vận tải ở Liên bang Đông Dương bị hư hại nặng. Năm 1945 thì đường tàu Xuyên Đông Dương không còn sử dụng được nữa và đường thiên lý Bắc Nam cũng bị phá hoại. Đường biển thì quân Đồng minh đã gài thủy lôi ở cửa biển TP. Hải Phòng khiến hải cảng chính ở Bắc Kỳ cũng không thông thương được .

Tình trạng địa chủ chiếm hữu ruộng đất[sửa|sửa mã nguồn]

Dưới thời Pháp thuộc, địa chủ phong kiến tiếp tục được duy trì. Ngoài ra còn có thêm việc chiếm hữu diện tích lớn đất đai của thực dân Pháp và giáo hội Thiên Chúa giáo. Theo thống kê phân bố ruộng đất ở miền Bắc trước năm 1945, chỉ có 4% dân số đã chiếm hữu tới 24,5% tổng số ruộng đất.[13] Đầu năm 1945, tầng lớp nông dân nghèo (không có hoặc chỉ có rất ít ruộng đất) chiếm 60% dân số nông thôn, nhưng chỉ sở hữu khoảng 10% ruộng đất. Còn giai cấp địa chủ phong kiến Việt Nam, địa chủ thực dân Pháp, địa chủ Công giáo chiếm không tới 5% dân số nhưng chiếm hữu 70% ruộng đất.[14]

Thời Pháp thuộc, đời sống bần nông, cố nông ngày càng khốn khó ; địa chủ thì lan rộng ra sự chiếm hữu đất đai. Cuộc sống của nông dân Nước Ta phụ thuộc vào vào ruộng vườn, nhưng do địa chủ chiếm hữu ngày càng nhiều ruộng đất, diện tích quy hoạnh đất canh tác trung bình của nông dân ngày càng giảm, đến năm 1945 chỉ còn mức 0,18 ha ( Thanh Hóa ), 0,17 ha ( thành phố Hà Tĩnh ), 0,12 ha ( Nghệ An ) ; sản lượng lúa tính theo đầu người cũng giảm theo, trung bình chỉ còn 1,2 tạ / người / năm. Nông dân bị bần cùng hóa nhanh hơn chính bới sự chuyển biến của nông nghiệp không theo kịp đà tăng dân số, phân loại ruộng đất bất bình đẳng. Diện tích gieo trồng tính theo đầu người ở Bắc Trung Kỳ đã giảm 5 lần tính từ thời vua Tự Đức đến năm 1945 ( ở mức 1 mẫu / người xuống mức 2 sào / người ). Sản lượng lúa theo đầu người giảm 50% tính từ những năm đầu thế kỷ XX đến năm 1945 ( ở mức 3,2 tạ / người / năm xuống 1,7 tạ / người / năm ở Thanh Hóa ; 1,6 tạ / người / năm xuống 0,8 tạ / người / năm ở Nghệ An ). [ 15 ]Trong Nạn đói năm Ất Dậu, tỷ suất chết đói cao nhất là những nông dân không có hoặc chỉ có rất ít đất canh tác. Do không có đất, những nông dân này cũng không hề sản xuất được lương thực dự trữ cho mái ấm gia đình, họ phải làm thuê cho địa chủ để mưu sinh. Gặp những năm mất mùa, không được dịch vụ thuê mướn thì những nông dân nghèo rất dễ lâm vào cảnh chết đói. Ông Phạm Công Báo, nhân chứng sống ở Giao Thủy, Tỉnh Nam Định năm 1945, kể lại [ 16 ] :

“Ở nhà thì đất của mình nhưng bước chân ra ngõ đã là đất của địa chủ, của nả bần nông nào có đáng gì? Đầu tiên họ bán tất những gì có thể như nồi đồng, mâm đồng, bát sứ, cối xay. Nhà ông Phạm Tại bán cả căn nhà 3 gian 2 chái cột kèo bằng gỗ xoan ngâm, mái lợp rạ dầy khít được có 5 bơ gạo. Cầm cự được mấy hôm cuối cùng cả gia đình ông ấy chết không sót lại một ai… Làng Hà Cát khi đó chết chừng ba bốn trăm người, đa phần là bần nông. Số sống sót là địa chủ, phú nông, trung nông hoặc một ít tá điền cấy rẽ, nộp tô.”

Phản ứng của Việt Minh[sửa|sửa mã nguồn]

Mặt trận Việt Minh chỉ trích các nhà chức trách và những người đứng đầu các hội chẩn tế đồng thời kêu gọi nông dân tấn công các kho thóc công cộng.[17] Trường hợp cá biệt ở Quảng Ngãi, khi ngay từ tháng 3 năm 1945, đội du kích Ba Tơ đã chặn bắt một số tàu thuyền chở thóc gạo được cho là đang ra Bắc để lấy gạo đem giấu đi. Tại nhiều địa phương, từ tháng 7 đến tháng 8, khi nạn đói đã mất kiểm soát, Việt Minh vận động người dân vùng lên phá kho thóc chia cho dân nghèo sắp chết đói.[19][20][21][22] Khẩu hiệu “Phá kho thóc, giải quyết nạn đói” của Việt Minh được thực hiện ở khắp Bắc bộ và Bắc Trung bộ. Tại Ninh Bình, riêng hai huyện Nho Quan, Gia Viễn đã phá được 12 kho thóc. Tại Hải Dương phá được 39 kho thóc và 43 thuyền gạo, tại Thái Bình lấy được hơn 1.000 tấn thóc chia cho người dân. Các tỉnh Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Thái Nguyên, Hải Phòng, ngoại thành Hà Nội… cũng diễn ra tương tự.[23]

Không có số liệu đúng mực về số người đã chết đói trong nạn đói này, 1 số ít nguồn khác nhau ước tính là từ khoảng chừng 400.000 đến 2 triệu người đã bị chết đói tại miền bắc Nước Ta. Đây là tỷ suất chết đói rất cao, vì dân số toàn Nước Ta năm 1945 chỉ khoảng chừng 23 triệu, trong đó khoảng chừng 9 triệu sinh sống ở những tỉnh xảy ra nạn đói .
Người dân chết đói
Tháng 5 / 1945, 7 tháng sau khi nạn đói bùng nổ tại miền bắc, tòa khâm sai của triều đình Huế tại Thành Phố Hà Nội ra lệnh cho những tỉnh miền Bắc phúc trình về tổn thất. Có 20 tỉnh báo cáo giải trình số người chết vì đói tổng số là hơn 380.000, chết vì bệnh – không rõ nguyên do – là hơn 20.000, tổng số 400.000 cho riêng 20 tỉnh ở miền Bắc. Tháng 10 / 1945, theo báo cáo giải trình của 1 quan chức quân sự chiến lược của Pháp tại Đông Dương khi đó là tướng Mordant thì khoảng chừng 500.000 người chết. Tổng số người chết trong thực tiễn phải cao hơn nhiều số lượng đó, vì có nhiều người bỏ quê đi ăn xin rồi chết ở nơi khác, thi thể được dân quanh đó vội vã đem chôn nên không thống kê được .

Toàn quyền Pháp Jean Decoux thì viết trong hồi ký của ông về thời kỳ cầm quyền tại Đông Dương “À la barre de l’Indochine” – là có 1 triệu người miền Bắc chết đói. Năm 1959, Chính phủ Nhật Bản đã đàm phán với chính phủ Ngô Đình Diệm về việc bồi thường chiến tranh, phía Nhật cho rằng có khoảng 300.000 nạn nhân chết đói, trong khi chính phủ Ngô Đình Diệm đưa ra con số 1.000.000 người. Mức bồi thường cuối cùng được thống nhất là 14 tỉ 40 triệu yên (khoảng 39 triệu đôla Mỹ) vào năm 1960, chia ra thì mỗi mạng người Việt chết đói chỉ tương đương 39 USD, bằng một nhúm tiền lẻ.[24]

Về sau, qua khảo sát hộ khẩu những tỉnh miền bắc, những nhà sử học Nước Ta ước đoán là từ 1-2 triệu người đã chết đói. Con số 2 triệu người chết cũng là điều Hồ Chí Minh có nhắc đến trong bản Tuyên ngôn Độc lập ngày 2/9 / 1945 .Nhiều làng xã chết 50-80 % dân số, nhiều mái ấm gia đình, dòng họ chết không còn ai. Làng Sơn Thọ, xã Thụy Anh ( Thái Thụy, Tỉnh Thái Bình ) có > 1.000 người thì chết đói mất 956 người. Thôn Thạch Lỗi ( nay là thôn Quang Minh ), xã Thạch Lỗi, huyện Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc ( nay thuộc TP. Thành Phố Hà Nội ) gần như cả thôn đều chết đói ( trừ trẻ nhỏ ). Chỉ trong 5 tháng, số người chết đói toàn tỉnh lên đến 280.000 người, chiếm 25 % dân số Tỉnh Thái Bình khi đó. Lịch sử đảng bộ Đảng cộng sản Việt Nam tỉnh Hà Sơn Bình cũ ghi rõ :

“Trong nạn đói năm 1945, khoảng 8 vạn người (gần 10% dân số trong tỉnh) chết đói, nhiều nơi xóm làng xơ xác tiêu điều, nhất là ở những nơi nghề thủ công bị đình đốn. Làng La Cả (huyện Hoài Đức) số người chết đói hơn 2.000/4.800 dân, có 147 gia đình chết không còn một ai. Làng La Khê (xã Yên Nghĩa, Hoài Đức) có 2.100 người thì 1.200 người chết đói, bằng 57% số dân”.

Trong cuốn “Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thái Bình” xuất bản năm 1986 ghi:

“Năm 1945, cả tỉnh có 280.000 người chết đói, chiếm 25% tổng dân số. Nhiều địa phương chết tới trên 50% dân số, như: xã Tây Lương: 67%; Sơn Thọ, Thụy Anh (Thái Thụy): 79%; xã Thanh Nê (Kiến Xương) có 4.164 người thì chết gần 2.000 người; xã Tây Ninh (Tiền Hải) có 171 gia đình chết không còn một ai…”.

Trong cuốn ” Nạn đói năm 1945 ở Nước Ta – Những chứng tích lịch sử dân tộc ” của GS Văn Tạo thống kê :

“Riêng tỉnh Thái Bình, nơi nạn đói diễn ra trầm trọng nhất, đã được Ban lịch sử tỉnh điều tra, con số tương đối sát thực tế là cả tỉnh chết đói mất 280.000 người. Chỉ tính số người chết đói ở Thái Bình cùng với Nam Định hơn 210.000 người, Ninh Bình 38.000, Hà Nam chết 52.000 thì số người chết đói đã lên đến hơn 580.000. Như vậy, con số 2 triệu người Việt Nam chết đói trong 32 tỉnh cũ tính từ Quảng Trị trở ra và hai thành phố lớn Hà Nội, Hải Phòng là gần với sự thực”.[25]

Không chỉ làm số lượng lớn người chết đói, nạn đói còn khiến hàng trăm ngàn người phải rời bỏ quê nhà, ly tán khắp nơi, nhiều người không còn quay về quê quán. Nhiều mái ấm gia đình, dòng họ bị tan vỡ sau nạn đói này, không hề tìm lại được người thân thích. Tác phẩm Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân viết về thời kỳ xảy ra nạn đói năm 1945 đã diễn đạt rõ nét tình cảnh này .Nạn đói xảy ra có khá nhiều người bỏ quê nhà ra đi, khi chết đói trở thành những xác vô danh. Do điều kiện kèm theo chôn cất xác người đói sơ sài hấp tấp vội vàng thiếu quy hoạch và ghi lại nên đến nay tại miền Bắc 1 số ít nơi khi thi công những khu công trình vô ý khai thác những ngôi mộ tập thể được cho là mộ của những người chết đói năm 1945 .

Những người chép sử khi viết về thời thịnh trị họ chỉ nói mấy câu ngắn ngủi thôi “Thuở đó cửa không cần then, cổng không cần khóa”, thế là đủ. Vậy cái hiện tượng nuôi lợn hai chuồng trồng rau hai luống, sẵn sàng mang cái độc hại cho đồng bào của mình, cho người tiêu dùng của mình, nó trở thành phổ biến, điều đó cực kỳ nguy hại. Ba mươi năm trước chúng tôi cùng các bạn đồng nghiệp Nhật Bản nghiên cứu về nạn đói năm 1945, kết luận cuối cùng là: Một nạn đói rất khủng khiếp. Nhưng chính các bạn Nhật Bản nói rằng, đây là một nạn đói lớn như thế mà không thể xảy ra những hiện tượng mà những nơi khác có: Người ta không ăn thịt lẫn nhau, người nghèo không tranh đoạt lẫn nhau. Mà rất nhiều giá trị đạo lý truyền thống của dân tộc được phát huy: Tình làng nghĩa xóm, dòng họ xã hội cưu mang nhau. Rõ ràng chúng ta phải thấy cái suy thoái đạo đức là nguy hiểm như thế nào, kinh tế có thể vực dậy được, đôi khi chỉ nửa nhiệm kỳ, nhưng suy thoái đạo đức thì không dễ để vực dậy. Tôi rất mong chúng ta quan tâm hơn đến lĩnh vực này để phát triển được bền vững hơn.

— Dân biểu Dương Trung Quốc đề đạt trước nghị trường năm 2017

Người dân đem chôn xác chết nằm ngoài trời

Khắc phục hậu quả[sửa|sửa mã nguồn]

Dân đói phá kho thóc của lính Nhật năm 1945.
Đầu năm 1945, ảnh hưởng tác động của trào lưu Việt Minh còn yếu, lòng dân chưa trọn vẹn hướng về, nên dù muốn tích trữ lương thực cũng không hề thực thi việc trưng thu lương thực trên diện rộng ( chỉ trưng thu được trong vùng Việt Minh trấn áp nên có ảnh hưởng tác động không lớn đến nạn đói ). Điều thiết yếu nhất của Việt Minh lúc này là sự ủng hộ của dân cư. Do bị Pháp và Nhật truy lùng, cũng không có nguồn lực kinh tế tài chính nên Việt Minh không hề tạo lập được kho lương thực nào có quy mô lớn đủ để cải tổ tình hình của nạn đói .Việt Minh cùng với nhân dân chống đối việc trưng mua lúa gạo, cùng dân đánh phá những kho lúa của Nhật [ 26 ]. Trong rủi ro tiềm ẩn đói cận kề cái chết, dân cư không còn e sợ sự đàn áp của chính quyền sở tại nên hưởng ứng rất phần đông. Chính niềm tin yêu nước chống thực dân đế quốc ( đa phần ) và hoạt động giải trí cứu đói của Việt Minh đã chiếm được tình cảm của một bộ phận nhân dân vùng Việt Minh ( thứ yếu ), đã dẫn đến sự kiện Cách mạng tháng Tám diễn ra thuận tiện .

Sau ngày Quốc khánh 2/9, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên 6 vấn đề cấp bách nhất mà Chính phủ cần giải quyết ngay và vấn đề số 1 là cứu đói:

Hiện nay những vấn đề gì là vấn đề cấp bách hơn cả. Theo ý tôi, có sáu vấn đề. Một là, nhân dân đang đói (…) Hơn hai triệu đồng bào chúng ta đã chết đói vì chính sách độc ác này. Vừa rồi nạn lụt đã phá hoại tám tỉnh sản xuất lúa gạo (…) Những người thoát chết đói, nay cũng bị đói. Chúng ta phải làm cách nào để có thể cho họ sống. Tôi đề nghị với Chính phủ là phát động một chiến dịch tăng gia sản xuất”.

Để cứu đói, nhiều tổ chức triển khai chính trị đương thời đã kêu gọi lực lượng chặn bắt những chuyến xe hay những chuyến ghe chở gạo được Nhật luân chuyển từ miền Nam ra Bắc, đem tiếp tế cho dân, đồng thời để có nguồn dự trữ trường kỳ. [ 27 ] Sau ngày 2 – 9 – 1945, họ đã tịch thu hàng loạt tài lộc của giới thân Pháp – Nhật trên toàn nước ( số tiền của Pháp khi ấy ta thu được 1.200.000 euro và của Nhật là 7.941.000 yên ) [ 28 ] đồng thời phát động tăng gia sản xuất, tiết kiệm chi phí lương thực để cứu trợ cho người đói .Tại buổi khai mạc lễ phát động trào lưu cứu đói được tổ chức triển khai tại Nhà hát Lớn TP.HN sau đó, quản trị Hồ Chí Minh đã đem phần gạo nhịn ăn của mình góp phần thứ nhất. Tiếp đó, nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa còn vận dụng ngay 1 số giải pháp đơn cử như được cho phép luân chuyển thóc gạo ; nghiêm trị những kẻ đầu tư mạnh, tích trữ thóc gạo ; cấm dùng gạo vào những việc làm chưa thật sự thiết yếu như nấu rượu, làm bánh ; cấm xuất khẩu gạo, ngô, đậu ; cử 1 ủy ban lo việc luân chuyển gạo từ miền Nam ra miền Bắc ( việc làm này bị đình trệ sau đó vì thực dân Pháp tái chiếm Nam Bộ ). Ngày 2/11 / 1945, Bộ trưởng Bộ Cứu tế xã hội Nguyễn Văn Tố quyết định hành động xây dựng Hội Cứu đói. Ngày 28/11 / 1945, quản trị Hồ Chí Minh ra Sắc lệnh thiết lập Ủy ban tối cao tiếp tế và cứu tế. Hàng vạn tấn gạo đã được nhân dân cả nước góp phần để khắc phục nạn đói .

Trong 5 tháng từ tháng 11/1945-5/1946, chính phủ phát động nhân dân tăng gia sản lượng lương thực, chủ yếu là vụ màu (khoai lang, ngô, sắn, đậu nành), thu hoạch đạt tương đương 506.000 tấn lúa, đủ bù đắp số lương thực thiếu hụt của vụ mùa năm 1945. Đến hết năm 1946, nạn đói cơ bản đã được giải quyết. Ngày 2/9/1946, tại lễ kỷ niệm 1 năm độc lập, ông Võ Nguyên Giáp – Chủ tịch quân sự, Ủy viên trong Chính phủ liên hiệp, tuyên bố: “Cuộc cách mạng đã chiến thắng được nạn đói, thật là 1 kỳ công của chế độ dân chủ”[11].

Nguồn tìm hiểu thêm[sửa|sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài[sửa|

sửa mã nguồn]

Source: https://vh2.com.vn
Category : Công Cộng