Đồ họa của Tech Insider cho thấy những lục địa sẽ hợp nhất thành một dải đất duy nhất trong vòng 250 triệu năm tới . Bạn đang đọc: Các...
Mặt trăng quay quanh trái đất bao nhiêu thời gian? – thanh duy
Mặt Trăng
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Để đọc về khái niệm “mặt trăng” theo nghĩa chung chỉ các vật thể vệ tinh quay quanh một hành tinh hoặc tiểu hành tinh, xem
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia Để đọc về khái niệm “mặt trăng” theo nghĩa chung chỉ các vật thể vệ tinh quay quanh một hành tinh hoặc tiểu hành tinh, xem vệ tinh tự nhiên
Mặt Trăng (tiếng Latin: Luna, ký hiệu: ☾) là vệ tinh tự nhiên duy nhất của Trái Đất và là vệ tinh tự nhiên lớn thứ năm trong Hệ Mặt Trời.
Khoảng cách trung bình tính từ tâm Trái Đất đến Mặt Trăng là 384.403 km, lớn khoảng chừng 30 lần đường kính Trái Đất. Đường kính Mặt Trăng là 3.474 km [ 1 ], tức hơn một phần tư đường kính Trái Đất. Khối lượng Mặt Trăng khoảng chừng bằng 2 % khối lượng Trái Đất và lực mê hoặc tại mặt phẳng Mặt Trăng bằng 17 % lực mê hoặc trên mặt phẳng Trái Đất. Mặt Trăng quay một vòng quanh Trái Đất với chu kỳ luân hồi quỹ đạo 27,32 ngày, và những đổi khác định kỳ trong hình học của hệ Trái Đất-Mặt Trăng – Mặt Trời là nguyên do gây ra những pha Mặt Trăng, lặp lại sau mỗi chu kỳ luân hồi giao hội 29,53 ngày .
Mặt Trăng là thiên thể duy nhất ngoài Trái Đất mà con người đã đặt chân tới. Năm 1959 là năm mang tính lịch sử đối với công cuộc khám phá Mặt Trăng, mở đầu bằng chuyến bay của vệ tinh nhân tạo Luna 1 của Liên bang Xô viết đến phạm vi của Mặt Trăng, tiếp đó Luna 2 rơi xuống bề mặt của Mặt Trăng và Luna 3 lần đầu tiên cung cấp ảnh mặt sau của Mặt Trăng. Năm 1966[1], Luna 9 trở thành tàu vũ trụ đầu tiên hạ cánh thành công và Luna 10 là tàu vũ trụ không người lái đầu tiên bay quanh Mặt Trăng. Hiện nay, các miệng hố đen ở vùng cực Nam của Mặt Trăng là nơi lạnh nhất trong hệ Mặt Trời.[2]
Cho đến nay, Chương trình Apollo của Hoa Kỳ đã thực hiện được những cuộc đổ bộ duy nhất của con người xuống Mặt Trăng, tổng cộng gồm sáu lần hạ cánh trong giai đoạn từ 1969 tới 1972. Năm 1969, Neil Armstrong và Buzz Aldrin là những người đầu tiên đặt chân lên Mặt Trăng trong chuyến bay Apollo 11. Việc thám hiểm Mặt Trăng của loài người đã ngừng lại với sự chấm dứt của chương trình Apollo[cần dẫn nguồn], dù nhiều quốc gia đã thông báo các kế hoạch đưa người hay tàu vũ trụ robot tới Mặt Trăng.
Mục lục
Tên gọi và từ nguyên[sửa|sửa mã nguồn]
Trong tiếng Việt, Mặt Trăng còn được gọi bằng những tên khác như ông trăng, ông giăng, giăng, nguyệt, Hằng Nga, Thường Nga, Thái Âm v.v… Không giống như vệ tinh của những hành tinh khác, Mặt Trăng – vệ tinh của Trái Đất – không có tên riêng nào khác. Trong một số ngôn ngữ, Mặt Trăng của Trái Đất được viết hoa để phân biệt với danh từ chung “mặt trăng”, nói đến các vệ tinh tự nhiên của các hành tinh khác như “the Moon” trong tiếng Anh[3] và “the moon”.
Từ moon (“Mặt Trăng” trong tiếng Anh) là một từ thuộc nhóm ngôn ngữ German, liên quan tới từ mensis trong tiếng Latin; từ này lại xuất phát từ gốc me- trong ngôn ngữ Ấn-Âu nguyên thủy (Proto-Indo-European), cũng xuất hiện trong measure (đo lường)[4] (thời gian), với sự gợi nhớ tới tầm quan trọng của nó trong việc đo đạc thời gian trong những từ có nguồn gốc từ nó như Monday (“thứ Hai” trong tiếng Anh), month (“tháng” trong tiếng Anh) và menstrual (hàng tháng/kinh nguyệt). Trong tiếng Anh, từ moon chỉ có nghĩa “Mặt Trăng” cho tới tận năm 1665, khi nó được mở rộng nghĩa để chỉ những vệ tinh tự nhiên mới được khám phá của các hành tinh khác[4]. Mặt Trăng thỉnh thoảng cũng được gọi theo tên tiếng Latin của nó, Luna, để phân biệt với các vệ tinh tự nhiên khác; tính từ có liên quan là lunar và một tiền tố tính từ seleno – hay hậu tố -selene (theo vị thần Hy Lạp Selene).
Bề mặt trên Mặt Trăng[sửa|sửa mã nguồn]
- Bài chi tiết: Địa lý học Mặt Trăng
Hai phía Mặt Trăng[sửa|sửa mã nguồn]
Mặt Trăng nằm trên quỹ đạo quay đồng bộ, có nghĩa là nó hầu như giữ nguyên một mặt hướng về Trái Đất ở tất cả mọi thời điểm. Buổi đầu mới hình thành, Mặt Trăng quay chậm dần và bị khoá ở vị trí hiện tại vì những hiệu ứng ma sát xuất hiện cùng hiện tượng biến dạng thuỷ triều do Trái Đất gây ra[5].
Từ đã rất lâu khi Mặt Trăng còn quay nhanh hơn hiện tại rất nhiều, bướu thuỷ triều (tidal bulge) của nó chạy trước đường nối Trái Đất-Mặt Trăng bởi nó không thể làm xẹp bướu đủ nhanh để giữ bướu này luôn ở trên đường thẳng đó[6]. Lực quay khiến bướu luôn vượt quá đường nối này. Hiện tượng này gây ra mô men xoắn, làm giảm tốc độ quay của Mặt Trăng, như một lực vặn siết chặt đai ốc. Khi tốc độ quay của Mặt Trăng giảm xuống đủ để cân bằng với tốc độ quỹ đạo của nó, khi ấy bướu luôn hướng về phía Trái Đất, bướu nằm trên đường thẳng nối Trái Đất-Mặt Trăng, và lực xoắn biến mất. Điều này giải thích tại sao Mặt Trăng quay với tốc độ bằng tốc độ quỹ đạo và chúng ta luôn chỉ nhìn thấy một phía của Mặt Trăng.
Các biến đổi nhỏ (đu đưa – libration) trong góc quan sát cho phép chúng ta có thể nhìn thấy được khoảng 59% bề mặt Mặt Trăng (nhưng luôn luôn chỉ là một nửa ở mọi thời điểm)[1].
Phần nhìn thấy được từ Trái Đất | Phần không nhìn thấy được từ Trái Đất |
Mặt quay về phía Trái Đất được gọi
Source: https://vh2.com.vn
Category : Trái Đất