Networks Business Online Việt Nam & International VH2

Mạng điện thoại chuyển mạch công cộng – Wikipedia tiếng Việt

Đăng ngày 17 July, 2022 bởi admin

Mạng điện thoại chuyển mạch công cộng (PSTN) là tổng hợp các mạng điện thoại chuyển mạch kênh trên thế giới được điều hành bởi các nhà khai thác điện thoại quốc gia, khu vực hoặc địa phương, cung cấp cơ sở hạ tầng và dịch vụ cho viễn thông công cộng. PSTN bao gồm đường dây điện thoại, cáp quang, liên kết truyền dẫn vi ba, mạng di động, vệ tinh thông tin liên lạc và cáp điện thoại dưới biển, tất cả được kết nối với nhau bằng các trung tâm chuyển mạch, do đó cho phép hầu hết các điện thoại liên lạc với nhau. Ban đầu là một mạng gồm các hệ thống điện thoại tương tự đường dây cố định, PSTN hiện nay gần như hoàn toàn là kỹ thuật số trong mạng lõi của nó và bao gồm di động [1] và các mạng khác, cũng như điện thoại cố định.[1][2]

Vận hành kỹ thuật của PSTN tuân thủ những tiêu chuẩn của ITU-T. Các tiêu chuẩn này được cho phép những mạng khác nhau ở những vương quốc khác nhau liên kết liền mạch. Các tiêu chuẩn E. 163 và E. 164 cung ứng một khoảng trống địa chỉ duy nhất toàn thế giới ] cho những số điện thoại. Sự tích hợp giữa những mạng được liên kết với nhau và kế hoạch đánh số duy nhất được cho phép những điện thoại trên khắp quốc tế hoàn toàn có thể gọi lẫn nhau .
Việc thương mại kinh doanh hóa điện thoại mở màn vào năm 1876, với những thiết bị được quản lý và vận hành theo cặp để sử dụng riêng giữa hai khu vực. Những người dùng muốn tiếp xúc với mọi người ở nhiều khu vực đã có nhiều điện thoại thiết yếu cho mục tiêu này. Thông báo cho người dùng khác về mong ước thiết lập một cuộc gọi điện thoại được triển khai bằng cách huýt sáo lớn vào thiết bị phát cho đến khi bên kia nghe thấy cảnh báo nhắc nhở. Chuông đã sớm được thêm vào những trạm điện thoại để báo hiệu cho đầu dây, vì thế không cần phải có người trực để đợi tiếng còi nữa .

Tự động hóa giới thiệu quay số xung giữa điện thoại và tổng đài, để mỗi thuê bao có thể quay trực tiếp một thuê bao khác được kết nối với cùng một tổng đài, nhưng việc gọi đường dài qua nhiều tổng đài yêu cầu các nhà khai thác chuyển đổi thủ công. Sau đó, tín hiệu địa chỉ phức tạp hơn, bao gồm các phương pháp báo hiệu đa tần số, cho phép các thuê bao gọi đường dài gọi trực tiếp, đỉnh cao là mạng Hệ thống báo hiệu 7 (SS7) kiểm soát các cuộc gọi giữa hầu hết các tổng đài vào cuối thế kỷ 20.

Sự phát triển của PSTN có nghĩa là các kỹ thuật từ xa cần được triển khai để cung cấp các đảm bảo về chất lượng dịch vụ (QoS) cho người dùng. Nghiên cứu của AK Erlang đã thiết lập các cơ sở toán học của các phương pháp cần thiết để xác định các yêu cầu về năng lực và cấu hình của thiết bị và số lượng nhân lực cần thiết để cung cấp một mức độ dịch vụ cụ thể.

Vào những năm 1970, ngành viễn thông bắt đầu triển khai các dịch vụ dữ liệu mạng chuyển mạch gói sử dụng giao thức X.25 vận chuyển dữ liệu qua phần lớn thiết bị đầu cuối như đã được sử dụng trong PSTN.

Vào những năm 1980, ngành công nghiệp khởi đầu lập kế hoạch cho những dịch vụ kỹ thuật số với giả định rằng chúng sẽ tuân theo quy mô giống như dịch vụ thoại và hình thành những dịch vụ chuyển mạch đầu cuối, được gọi là Mạng kỹ thuật số dịch vụ tích hợp băng thông rộng ( B-ISDN ). Tầm nhìn của B-ISDN đã bị vượt qua bởi công nghệ tiên tiến nâng tầm của Internet .Vào đầu thế kỷ 21, những phần truyền kiếp nhất của mạng điện thoại vẫn sử dụng công nghệ tiên tiến tương tự như cho đường dây thuê bao dặm ở đầu cuối tới người dùng cuối. Tuy nhiên, những công nghệ tiên tiến kỹ thuật số như DSL, ISDN, FTTx và modem cáp đã trở nên thông dụng hơn trong phần này của mạng viễn thông .Một số mạng điện thoại tư nhân lớn không được link với PSTN, thường dành cho mục tiêu quân sự chiến lược. Ngoài ra còn có những mạng riêng do những công ty lớn quản lý chỉ được link với PSTN trải qua những cổng số lượng giới hạn, ví dụ điển hình như một tổng đài Trụ sở riêng lớn ( PBX ) .

Source: https://vh2.com.vn
Category: Công Cộng