Networks Business Online Việt Nam & International VH2

Kyōto (thành phố) – Wikipedia tiếng Việt

Đăng ngày 27 February, 2023 bởi admin
Đối với những định nghĩa khác, xem Kyoto ( khuynh hướng )

Kyoto
kanji” Kyoto ” trong
Tên tiếng Nhật
Kanji

京都

Hiragana きょうと
Katakana キョウト

Thành phố Kyoto (京都市 (Kinh Đô thị), Kyōto-shi?, tiếng Nhật: [kʲoːtoꜜɕi] (nghe)), là thành phố thủ phủ của phủ Kyōto, Nhật Bản. Thành phố có dân số gần 1,47 triệu người vào năm 2018 và là một phần chính của vùng đô thị Kansai.

Năm 794, Kyoto ( lúc đó được gọi là Heian-kyō ) được chọn làm kinh đô mới của triều đình Nhật Bản. Các Thiên hoàng Nhật Bản quản lý ở Kyoto trong 11 thế kỷ cho đến năm 1869 khi triều đình chuyển đến Tokyo. Thành phố bị tàn phá trong Chiến tranh Ōnin vào thế kỷ 15 và bước vào thời kỳ suy tàn lê dài, nhưng từ từ hồi sinh dưới thời Mạc phủ Tokugawa ( 1600 – 1868 ) và tăng trưởng can đảm và mạnh mẽ để trở thành một thành phố lớn ở Nhật Bản. Thành phố tân tiến của Kyoto được xây dựng vào năm 1889. Thành phố đã tránh khỏi sự tàn phá quy mô lớn trong Thế chiến II và tác dụng là di sản văn hóa truyền thống trước cuộc chiến tranh của nó được bảo tồn khá nhiều .Kyoto được coi là Thành Phố Hà Nội văn hóa truyền thống của Nhật Bản và là một điểm đến du lịch lớn. Đây là nơi có nhiều đền thờ Phật giáo, đền thờ Thần đạo, hoàng cung và vườn, nhiều trong số đó được UNESCO liệt kê là Di sản Thế giới. Các địa điểm điển hình nổi bật gồm có Cung điện Hoàng gia Kyoto, Kiyomizu-dera, Kinkaku-ji, Ginkaku-ji và Biệt thự Hoàng gia Katsura. Kyoto cũng là một TT của cao học, với Đại học Kyoto là một trường nổi tiếng quốc tế .
18th-century map with the Japanese capital “Meaco”

Trong tiếng Nhật, trước đây, Kyoto được gọi là Kyō (京), Miyako (都) hoặc Kyō no Miyako (京の都). Vào thế kỷ 11, thành phố được đổi tên thành “Kyōto” (京都, “kinh đô”), từ Hán trung cổ kiang-tuo (cf. Mandarin jīngdū).[1] Sau khi thành phố Edo được đổi tên thành “Tōkyō” (東京, “Đông kinh”) vào năm 1868 và kinh đô chuyển đến đó, Kyoto trong một thời gian ngắn được gọi là Saikyō (西京, “Tây kinh”). Kyoto đôi khi cũng được gọi là Thiên niên chi đô – Thủ đô nghìn năm (千年の都).

Quốc hội Nhật Bản không bao giờ chính thức thông qua bất kỳ luật chỉ định một thủ đô.[2] Các cách viết nước ngoài cho tên thành phố bao gồm Kioto, Miaco (都 miyako, có nghĩa “đô”) và Meaco, được sử dụng chủ yếu bởi người vẽ bản đồ Hà Lan. Một thuật ngữ khác thường được sử dụng để chỉ thành phố trong thời kỳ tiền hiện đại là Keishi (京師, Keishi?), “thủ đô”.[3]

Bản đồ thế kỷ 18 của Kyoto

Bằng chứng khảo cổ học nhiều mẫu mã cho thấy sự định cư của con người ở Kyoto khởi đầu sớm nhất là vào thời kỳ Cổ sinh, [ 4 ] mặc dầu không có nhiều tài liệu công bố được giữ lại về hoạt động giải trí của con người trong khu vực trước thế kỷ thứ 6, khoảng chừng thời hạn đó, đền Shimogamo được cho là đã được xây dựng .
Trong thế kỷ thứ 8, khi những giáo sĩ Phật giáo hùng mạnh và tham gia vào những yếu tố của chính quyền sở tại Hoàng gia, Thiên hoàng Kanmu đã chọn sơ tán thủ đô hà nội để tránh xa cơ sở giáo sĩ ở Nara. Lựa chọn ở đầu cuối của anh cho khu vực là ngôi làng Uda, thuộc huyện Kadono, tỉnh Yamashiro. [ 5 ]

Thành phố mới, Heian-kyō (平安京 (Bình An kinh), Heian-kyō? “thủ đô bình an và hòa bình”), một bản sao thu nhỏ của thủ đô nhà Đường Trung Quốc thời bấy giờ Trường An,[6] trở thành kinh đô triều đình Nhật Bản vào năm 794, bắt đầu thời Heian của lịch sử Nhật Bản. Mặc dù các nhà cai trị quân sự đã thành lập chính phủ của họ ở Kyoto (Mạc phủ Muromachi) hoặc ở các thành phố khác như Kamakura (Mạc phủ Kamakura) và Edo (Mạc phủ Tokugawa), Kyoto vẫn là thủ đô của Nhật Bản cho đến khi triều đình chuyển đến Tokyo vào năm 1869 tại thời điểm Minh Trị Duy tân.

Thành phố đã bị tàn phá nặng nề trong Chiến tranh Ōnin từ năm 1467 đến năm 1477 và không thực sự hồi phục cho đến giữa thế kỷ 16. Trong suốt chiến tranh Ōnin, mạc phủ sụp đổ và quyền lực được chia cho các gia đình quân nhân.[7] Các trận chiến giữa các phe phái samurai tràn ra đường và liên quan đến giới quý tộc triều đình (kuge) cùng các phe phái tôn giáo. Lâu đài của những người quý tộc đã được biến thành pháo đài, những rãnh hào sâu được đào khắp thành phố để phòng thủ và nhiều tòa nhà bị đốt cháy. Đây là lần tàn phá khủng khiếp nhất từ trước đến nay.

Vào cuối thế kỷ 16, Toyotomi Hideyoshi đã xây dựng lại thành phố bằng cách xây dựng các đường phố mới để nhân đôi số lượng đường phố bắc nam ở trung tâm Kyoto, tạo ra các khối hình chữ nhật thay thế các khối vuông cổ xưa. Hideyoshi cũng đã xây những bức tường đất gọi là odoi (御土居, odoi?) bao quanh thành phố. Đường Teramachi ở trung tâm Kyoto là một khu đền thờ Phật giáo nơi Hideyoshi tập hợp các ngôi đền trong thành phố. Trong suốt thời Edo, nền kinh tế của thành phố phát triển mạnh mẽ và là một trong ba thành phố lớn ở Nhật Bản, hai thành phố khác là Osaka và Edo.

Kyoto skyline
Downtown Kyoto
View of Kyoto from beside the Hondō (本堂) of Kiyomizudera (京都 清水寺). – 1870s[8]
Cuộc nổi dậy Hamaguri năm 1864 đã thiêu rụi 28.000 ngôi nhà trong thành phố, điều này cho thấy sự bất mãn của phiến quân so với Mạc phủ Tokugawa. [ 9 ] Việc chuyển dời tiếp theo của Thiên hoàng đến Tokyo vào năm 1869 đã làm suy yếu nền kinh tế tài chính. Thành phố tân tiến Kyoto được hình thành vào ngày 1 tháng 4 năm 1889. Việc kiến thiết xây dựng kênh đào hồ Biwa vào năm 1890 là một giải pháp để hồi sinh thành phố. Dân số của thành phố vượt quá một triệu vào năm 1932. [ 10 ]

Hoa Kỳ cân nhắc khi nhắm mục tiêu thả bom nguyên tử vào cuối Thế chiến II vào Kyoto bởi vì nó là một trung tâm trí tuệ của Nhật Bản, nó có một dân số đủ lớn để có thể thuyết phục Thiên hoàng đầu hàng.[11] Cuối cùng, Henry L. Stimson, Bộ trưởng Chiến tranh ở chính quyền Roosevelt và Truman khẳng định thành phố đã bị xóa khỏi danh sách các mục tiêu và được thay thế bởi Nagasaki. Thành phố cũng không bị ném bom trong các lần khác mặc dù các cuộc không kích quy mô nhỏ đã gây thương vong.[cần dẫn nguồn]

Do đó, Thành phố Hoàng gia của Kyoto là một trong số ít các thành phố của Nhật Bản vẫn còn rất nhiều tòa nhà trước chiến tranh, như nhà phố truyền thống được gọi là machiya. Tuy nhiên, việc hiện đại hóa đang tiếp tục phá vỡ truyền thống Kyoto để xây các kiến ​​trúc mới hơn, chẳng hạn như khu phức hợp ga Kyōto.

Kyoto trở thành đô thị cấp vương quốc bởi sắc lệnh của chính phủ nước nhà vào ngày 1 tháng 9 năm 1956. Năm 1997, Kyoto đã tổ chức triển khai hội nghị về phát thải khí nhà kính .
Kyoto seen from Mount Atago in the northwest corner of the city
Kyoto nằm trong một thung lũng, một phần của lưu vực Yamashiro ( hay Kyoto ), ở phía đông của khu vực miền núi được gọi là vùng cao nguyên Tamba. Lưu vực Yamashiro bao quanh ba mặt bởi những núi là Higashiyama, Kitayama và Nishiyama với độ cao chỉ hơn 1000 mét trên mực nước biển. Các ngọn núi này đã mang đến mùa Hè nóng và mùa Đông lạnh. Có ba con sông trong lưu vực : Ujigawa ở phía nam, Katsuragawa ở phía tây và Kamogawa ở phía đông. Thành phố Kyoto chiếm 17,9 % đất đai trong tỉnh với diện tích quy hoạnh 827,9 km² .Thành phố bắt đầu được sắp xếp theo tử vi & phong thủy truyền thống lịch sử của Trung Quốc theo quy mô của thủ đô hà nội Trường An cổ đại của Trung Quốc. Cung điện hoàng gia nhìn về phía Nam, do đó Ukyō ( phần bên phải của kinh đô ) nằm ở phía Tây trong lúc Sakyō ( phần bên trái ) nằm ở phía Đông. Các phố ở những phường ngày này Nakagyō, Shimogyō và Kamigyō vẫn theo kiểu sắp xếp này .Ngày nay, Q. kinh doanh thương mại chính nằm ở phía Nam của Cung điện hoàng gia cổ, với khu vực phía Bắc thưa dân hơn và vẫn còn nhiều mảng xanh. Các khu vực xung quanh không tuân theo kiểu sắp xếp như TT thành phố. Kyoto được phủ bọc ba bên xung quanh bởi những núi Higashiyama, Kitayama và Nishiyama, với độ cao chỉ khoảng chừng 1000 m dưới mực nước biển .Kyoto nằm trên những giếng nước ngọt lớn. Do quy trình đô thị hóa quy mô lớn, lượng mưa chảy vào tầng nước ngầm đang cạn dần và những giếng trên toàn khu vực đang khô với vận tốc ngày càng tăng .

Nhân khẩu học[sửa|sửa mã nguồn]

Trong lịch sử dân tộc, Kyoto là thành phố lớn nhất ở Nhật Bản, sau đó bị Osaka và Edo ( Tokyo ) vượt qua vào cuối thế kỷ 16. Năm 1947, thành phố đứng vị trí thứ 3. Đến năm 1960, nó đã giảm xuống hạng 5 và đến năm 1990, nó đã giảm xuống hạng 7 và năm năm ngoái là hạng 9 .

Kyoto có khí hậu cận nhiệt đới ẩm (Köppen Cfa) với sự thay đổi rõ rệt theo mùa về nhiệt độ và lượng mưa. Mùa hè nóng và ẩm, nhưng mùa đông tương đối lạnh với tuyết rơi thỉnh thoảng. Mùa mưa ở Kyoto bắt đầu vào khoảng giữa tháng 6 và kéo dài đến cuối tháng 7, mang lại một nửa cuối mùa hè nóng và nắng. Kyoto cùng với hầu hết các thành phố ven bờ biển Thái Bình Dương và các khu vực trung tâm của Nhật Bản dễ bị bão trong tháng 9 và tháng 10.

Dữ liệu khí hậu của Kyoto, Kyoto
Tháng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Năm
Cao kỉ lục °C (°F) 19.9 22.9 25.7 30.7 33.8 36.8 39.8 39.8 38.1 32.2 26.9 22.8 39,8
Trung bình cao °C (°F) 8.9 9.7 13.4 19.9 24.6 27.8 31.5 33.3 28.8 22.9 17.0 11.6 20,8
Trung bình ngày, °C (°F) 4.6 5.1 8.4 14.2 19.0 23.0 26.8 28.2 24.1 17.8 12.1 7.0 15,9
Trung bình thấp, °C (°F) 1.2 1.4 4.0 9.0 14.0 18.8 23.2 24.3 20.3 13.6 7.8 3.2 11,7
Thấp kỉ lục, °C (°F) −11.9 −11.6 −8.2 −4.4 −0.3 4.9 10.6 12.8 7.1 0.2 −4.4 −9.4 −11,9
Giáng thủy mm (inch) 50.3
(1.98)
68.3
(2.689)
113.3
(4.461)
115.7
(4.555)
160.8
(6.331)
214.0
(8.425)
220.4
(8.677)
132.1
(5.201)
176.2
(6.937)
120.9
(4.76)
71.3
(2.807)
48.0
(1.89)
1.491,3
(58,713)
Lượng tuyết rơi cm (inch) 5
(2)
8
(3.1)
2
(0.8)
0
(0)
0
(0)
0
(0)
0
(0)
0
(0)
0
(0)
0
(0)
0
(0)
3
(1.2)
18
(7,1)
% độ ẩm 66 66 62 59 62 67 70 66 68 68 68 68 65,8
Số ngày giáng thủy TB

( ≥ 0.5 mm )

7.8 9.2 11.9 10.6 11.4 12.9 12.9 8.7 11.0 8.8 7.6 8.1 120,9
Số ngày tuyết rơi TB 3.1 3.9 1.0 0.0 0.0 0.0 0.0 0.0 0.0 0.0 0.0 1.2 9,2
Số giờ nắng trung bình hàng tháng 123.2 117.4 146.8 175.4 180.9 138.3 142.3 182.7 136.8 157.4 138.1 135.8 1.775,1
Nguồn #1: 平年値(年・月ごとの値)
Nguồn #2: (record temperatures) 観測史上1~10位の値(年間を通じての値)

Kyōto, 1891

Chính trị và cơ quan chính phủ[sửa|sửa mã nguồn]

Tòa thị chính Kyoto
Thị trưởng được bầu trực tiếp tại Kyoto năm 2013 là Daisaku Kadokawa, một đảng độc lập được tương hỗ bởi Đảng Dân chủ Nhật Bản, Đảng Dân chủ Tự do, Đảng Komeito mới, Đảng của bạn và Đảng Dân chủ Xã hội. Hội đồng thành phố lập pháp có 69 thành viên được bầu .

Hội đồng thành phố Kyoto[sửa|sửa mã nguồn]

Đảng chính trị Số ghế[12]
Đảng Dân chủ Tự do 22
Đảng Cộng sản Nhật Bản 14
Đảng Dân chủ Nhật Bản 13
Đảng Komeito mới 12
Đảng Kyoto 4
Tự do 2
Trống 2
  • Bầu cử thị trưởng Kyoto 2008
  • Bầu cử thị trưởng Kyoto 2012
  • Bầu cử thị trưởng Kyoto 2016 (ja:2016年京都市長選挙)

Khu hành chính ở Kyoto

Kyoto có 7 khu (行政区 (hành chính khu), gyōseiku?).

Khu hành chính ở Kyoto
Romaji Tiếng Nhật Tiếng Việt
1 Fushimi-ku 伏見区 Phục Kiến khu
2 Higashiyama-ku 東山区 Đông Sơn khu
3 Kamigyō-ku 上京区 Thượng Kinh khu
4 Kita-ku

北区

Bắc khu
5 Minami-ku 南区 Nam khu
6 Nakagyō-ku
Trung tâm hành chính
中京区 Trung Kinh khu
7 Nishikyō-ku 西京区 Tây Kinh khu
8 Sakyo-ku 左京区 Tả Kinh khu
9 Shimogyō-ku 下京区 Hạ Kinh khu
10 Ukyō-ku 右京区 Hữu Kinh khu
11 Yamashina-ku 山科区 Sơn Khoa khu

Chúng cùng nhau tạo nên thành phố Kyoto. Giống như những thành phố khác ở Nhật Bản, Kyoto có một thị trưởng duy nhất và một hội đồng thành phố .
Một cửa hàng tsukemono trên đường Nishiki.
Mặc dù bị tàn phá bởi cuộc chiến tranh, hỏa hoạn và động đất trong suốt 11 thế kỷ là Thành Phố Hà Nội nhưng Kyoto vẫn không bị tàn phá bởi bom lửa trong Chiến tranh quốc tế thứ hai. Nó đã bị xóa khỏi list tiềm năng bom nguyên tử bởi sự can thiệp cá thể của Bộ trưởng Chiến tranh Henry L. Stimson vì ông muốn cứu TT văn hóa truyền thống này, nơi ông biết từ tuần trăng mật và những chuyến thăm ngoại giao trước đó. [ 13 ] [ 14 ] Kyoto đã và vẫn là TT văn hóa truyền thống của Nhật Bản. [ 15 ] [ 16 ] nhà nước Nhật Bản đang chuyển Cơ quan những yếu tố văn hóa truyền thống đến Kyoto vào năm 2021 .Với 2000 ngôi đền đạo Phật và 400 đền Thần đạo, cũng như những hoàng cung, vườn thượng uyển và những khu công trình kiến trúc còn nguyên vẹn, Kyoto là một trong những thành phố được bảo tồn tốt nhất của Nhật Bản. Trong số những ngôi đền nổi tiếng của Kyoto phải kể đến Kiyomizu-dera, một ngôi đền bằng gỗ nằm trên loạt móng cọc gỗ cắm trên sườn núi dốc ; Kinkaku-ji, ngôi đền được dát vàng ; Ginkaku-ji, ngôi đền được dát bạc ; Ryōan-ji, nổi tiếng về khu vườn đá. Đền Heian Jingū là một đền Shinto ghi lại thời kỳ hoàng gia ( kiến thiết xây dựng năm 1895 ) và kỷ niệm vị Thiên hoàng tiên phong và ở đầu cuối đóng đô tại Kyoto. Có 3 khu vực đặc biệt quan trọng tương quan đến Hoàng gia ở Kyoto, đó là Cung điện Hoàng gia Kyoto, nơi ở của những vị Thiên hoàng Nhật trong nhiều thế kỷ ; biệt thự nghỉ dưỡng Hoàng gia Katsura, một trong những khu công trình kiến trúc cầu kỳ nhất nước Nhật ; và biệt thự nghỉ dưỡng Hoàng gia Shugaku-in, một trong những khu vườn Nhật đẹp nhất. Ngoài ra, đền thờ Sennyu-ji còn có lăng mộ của những Thiên hoàng từ Shijō đến Kōmei .Các khu vực đáng quan tâm khác ở quanh Kyoto gồm có Arashiyama và khu hồ đẹp như tranh vẽ, khu Gion và Pontochō nơi hoạt động giải trí của những Geisha, đường đi dạo Philosopher, và những kênh đào chạy dọc theo những con phố cổ .Các khu công trình lịch sử vẻ vang của cố đô Kyoto được UNESCO liệt kê trong thành những Di sản Thế giới. Chúng gồm những ngôi đền Kamo ( Kami và Shimo ), Kinkakuji, Kyō-ō-Gokokuji ( Tō-ji ), Kiyomizu-dera, Daigo-ji, Ninna-ji, Saihō-ji ( Kokedera ), Tenryū-ji, Rokuon-ji ( Kinkaku-ji ), Jishō-ji ( Ginkaku-ji ), Ryōan-ji, Hongan-ji, Kōzan-ji và thành tháp Nijo, đa phần được kiến thiết xây dựng bởi những tướng quan thời. Các khu công trình khác nằm bên ngoài thành phố cũng được liệt kê trong list .

Kyoto cũng nổi tiếng về các món ăn truyền thống và cách nấu nướng phong phú. Các nghi lễ đặc biệt của Kyoto như một thành phố xa biển và là nơi có nhiều đền thờ Phật tạo ra sự phát triển của các loại rau quả khác nhau rất đặc biệt của vùng Kyoto (京野菜 kyōyasai).

Ngành công nghiệp truyền hình và điện ảnh của Nhật cũng có trung tâm ở Kyoto. Rất nhiều jidaigeki, phim hành động samurai được quay tại Toei Uzumasa Eigamura.[17] Một bộ phim và công viên chủ đề, Eigamura có các bản sao của các tòa nhà truyền thống của Nhật Bản, được sử dụng cho jidaigeki. Trong số các bộ có một bản sao của Nihonbashi cũ (cây cầu ở lối vào Edo), một tòa án truyền thống, một bốt cảnh sát thời Minh Trị và một phần của khu đèn đỏ Yoshiwara cũ. Việc quay phim thực tế thỉnh thoảng diễn ra và du khách được chào đón để quan sát.

Phương ngữ được nói ở Kyoto được gọi là Kyō-kotoba hoặc Kyōto-ben, một phương ngữ cấu thành của phương ngữ Kansai. Khi Kyoto là thủ đô của Nhật Bản, phương ngữ Kyoto là tiêu chuẩn thực của Nhật Bản và ảnh hưởng đến sự phát triển của phương ngữ Tokyo, tiêu chuẩn Nhật Bản hiện đại. Courtesans thực hiện nhiệm vụ tại Tokyo được gọi là “Edokko” (bourgois). Thành ngữ nổi tiếng ở Kyoto là một copula dosu lịch sự, một động từ kết thúc lịch sự -haru, một cụm từ chào mừng okoshi-yasu “xin chào”, v.v.

Vùng đô thị Kyōto[18]
Ngành du lịch là cơ sở chính của kinh tế tài chính Kyoto. Du khách đến du lịch thăm quan cảnh đẹp và di sản văn hóa truyền thống của Kyoto. Tiểu thủ công nghiệp hầu hết là hàng bằng tay thủ công mỹ nghệ. Thành phố Kyoto là TT sản xuất áo kimono. Công nghiệp nặng hầu hết là sản xuất hàng điện tử, đây là nơi đóng trụ sở của những hãng Nintendo, OMRON, Kyocera, và Murata Machinery. Hãng Wacoal lớn cũng hoạt động giải trí ở đây. Tuy nhiên, sự tăng trưởng của ngành công nghệ cao cũng không kịp nhịp suy giảm của công nghiệp truyền thống cuội nguồn. Sản lượng công nghiệp của Kyoto đã giảm sút khá nhiều và giảm sút so với những thành phố Nhật Bản .

GDP (PPP) bình quân đầu người[19][20]
Năm US$
1975 5.324
1980 9.523
1985 13.870
1990 20.413
1995 23.627
2000 26.978
2005 32.189
2010 36.306
2014 40.794

Đại học cao đẳng[sửa|sửa mã nguồn]

Có 37 viện và trường ĐH ở Kyoto. Kyoto là một trong những TT học thuật của Nhật Bản. 3 trường ĐH nổi tiếng lớn nhất là Đại học Doshisha, Đại học Kyoto và Đại học Ritsumeikan. Trong số đó, Đại học Kyoto được xem là một trong những ĐH số 1 Nhật Bản với nhiều người đoạt giải Nobel như Yukawa Hideki .Kyoto có một mạng lưới giáo dục bậc cao duy nhất, đó là Liên hiệp những trường ĐH của Kyoto, gồm có 3 trường ĐH vương quốc, 5 trường thuộc tỉnh và thành phố, và 41 trường tư thục, cùng với 4 tổ chức triển khai khác của thành phố. Liên hiệp không cấp bằng mà cung ứng những khóa học từng phần của bằng cấp tại những trường thành viên .
Khung cảnh bên trong Sanzen’in
Nhà ga Kyoto là đầu mối giao thông vận tải của thành phố. Là nhà ga lớn thứ nhì của Nhật, cao 15 tầng, nó gồm có một TT shopping lớn, khách sạn, rạp chiếu phim và siêu thị nhà hàng Isetan. Tuyến đường tàu cao tốc Tōkaidō Shinkansen ( xem bên dưới ) cũng như toàn bộ những tuyến đường tàu địa phương đều được liên kết tại đây .Hệ thống tàu điện ngầm và mạng lưới xe buýt thành phố của Kyoto có khoanh vùng phạm vi rất rộng. Các tuyến đường tàu tư nhân cũng hoạt động giải trí trong phạm vi thành phố. Khách du lịch cũng tiếp tục tham gia giao thông vận tải trên những tuyến xe buýt công cộng, xe buýt du lịch hoặc đi taxi. Xe buýt quản lý và vận hành trên tổng thể những tuyến đường trong thành phố, đặc biệt quan trọng tại những nơi không có tàu điện. Xe buýt ở Kyoto có thông tin bằng tiếng Anh đi kèm với bảng điện tử báo hiệu điểm dừng tại những bến đỗ có ghi tên dùng ký tự La tinh .Hầu hết những xe buýt trong thành phố đều có mức giá cố định và thắt chặt : 230 yên / người lớn và 120 yên / trẻ nhỏ 6-12 tuổi. Bên cạnh đó còn có vé đi không số lượng giới hạn 1 ngày trong thành phố ( 500 yên / người lớn và 250 yên / trẻ nhỏ ) hay vé phối hợp giữa tàu và xe buýt ( 1200 yên / người lớn và 600 yên / trẻ nhỏ ). Hình thức vé này đặc biệt quan trọng tiện lợi cho việc đi thăm quan nhiều khu vực khác nhau trong 1 ngày của hành khách. Trung tâm thông tin xe buýt ở ngay bên ngoài nhà ga TT đảm nhiệm việc bán vé. Công ty vận tải đường bộ của thành phố cũng phân phát những tờ rơi rất hữu dụng, gọi là ” Bus Navi “. Tờ rơi này gồm có map những tuyến đường đi của xe buýt tới hầu hết những khu vực du lịch cùng với giá vé. Khách du lịch hoàn toàn có thể thuận tiện lấy tờ rơi này tại những TT phân phối thông tin cho người mua ở trước cửa những nhà ga chính .Tuyến tàu điện cao tốc Tōkaidō Shinkansen ship hàng luân chuyển hành khách giữa Kyoto với Nagoya và Tokyo ( theo một hướng ) và vùng Osaka cũng như những khu vực khác ở phía tây ( theo hướng ngược lại ). Tàu Tōkaidō Shinkansen đi từ nhà ga TT Kyoto đến nhà ga TT Tokyo mất khoảng chừng 140 phút. Một đường khác dẫn đến Kyoto là qua trường bay quốc tế Kansai. Tuyến tàu nhanh Haruka Express đưa hành khách từ trường bay tới nhà ga Kyoto trong vòng 72 phút. Ngoài ra cũng có những tuyến tàu khác như JR, Keihan, Hankyu hay Kintetsu và những tuyến khác dẫn đến Kyoto cũng như những thành phố lân cận trong vùng Kansai .Ngoài ra, đi xe đạp điện cũng là một cách đi lại thông dụng trong thành phố, thậm chí còn nó còn như một văn hóa truyền thống đi xe đạp điện của cố đô Kyoto. Địa hình và khoanh vùng phạm vi của thành phố cũng tương thích cho việc đi lại bằng xe đạp điện .
Khách du lịch trên đường phố gần Kiyomizu-dera
Kyoto chứa khoảng chừng 2000 ngôi đền và đền thờ. [ 21 ]

Di sản quốc tế UNESCO[sửa|sửa mã nguồn]

Khoảng 20 % ​ ​ Kho báu Quốc gia Nhật Bản và 14 % Tài sản Văn hóa Quan trọng sống sót trong thành phố. Di sản quốc tế được UNESCO công nhận là Di tích lịch sử vẻ vang của thành phố cổ Kyoto ( thành phố Kyoto, Uji và Otsu ) gồm có 17 khu vực ở Kyoto, Uji ở tỉnh Kyoto và Ōtsu ở tỉnh Shiga. Địa điểm được chỉ định là Di sản Thế giới năm 1994 .
Kyoto nổi tiếng với những liên hoan truyền thống lịch sử đã được tổ chức triển khai trong hơn 1000 năm và là một điểm lôi cuốn khách du lịch lớn. [ 22 ] Đầu tiên là Aoi Matsuri vào ngày 15 tháng 5. Hai tháng sau ( từ 1 đến 31 tháng 7 ) là Gion Matsuri được biết đến là một trong 3 tiệc tùng lớn của Nhật Bản, đỉnh điểm là một cuộc diễu hành lớn vào ngày 17 tháng 7. Kyoto ghi lại Lễ hội Bon với Gozan no Okuribi bằng việc thắp sáng ngọn lửa trên núi để hướng dẫn những linh hồn về nhà ( ngày 16 tháng 8 ). Ngày 22 tháng 10, Jidai Matsuri, Lễ hội thời đại, kỷ niệm quá khứ lừng lẫy của Kyoto .

Quan hệ quốc tế[sửa|sửa mã nguồn]

Kyoto từng là thành phố Thành Phố Hà Nội của Nhật Bản, nơi học tập và văn hóa truyền thống, có mối quan hệ vĩnh viễn với những thành phố lớn khác trên quốc tế. Nhiều học giả, nghệ sĩ và nhà văn quốc tế đã ở lại Kyoto trong nhiều thế kỷ .

Thành phố kết nghĩa[sửa|sửa mã nguồn]

Thành phố Kyoto có mối quan hệ với những thành phố sau đây : [ 23 ]

Ngoài các thành phố kết nghĩa hợp tác nhiều mặt, Kyoto đã tạo ra một hệ thống “thành phố đối tác” tập trung vào hợp tác dựa trên một chủ đề cụ thể. Hiện tại, Kyoto đã sắp xếp thành phố đối tác với các thành phố sau đây:[26]

Trong môn bóng đá, Kyoto có đại diện thay mặt là Kyoto Purple Sanga who rose to J. League ‘ s Division 1 in 2005. With the popularity of the nearby Hanshin Tigers, Kyoto chưa từng có đội bóng nào tham gia giải Bóng chày chuyên nghiệp Nhật Bản, though the Tigers play several neutral-site games at Kyoto’s Nishi Kyogoku stadium every year .Bên cạnh đó, những đội bóng chày của những trường trung học ở Kyoto cũng khá mạnh, cùng với Heian và Toba tạo nên đội quân hùng mạnh tại giải tranh tài hàng năm được tổ chức triển khai tại sân hoạt động Koshien, Nishinomiya gần Osaka .

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]

Source: https://vh2.com.vn
Category : Công Cộng