Networks Business Online Việt Nam & International VH2

Giáo trình logic học đại cương – Lôgíc học đại cương Sách giáo khoa dùng trong các trường đại học HÀ – StuDocu

Đăng ngày 20 August, 2022 bởi admin

Lôgíc học đại cương

Sách giáo khoa dùng trong các trường đại học

HÀ NỘI 2015

Lời nói đầu
Bài mở đầu. NHẬP MÔN LÔGÍC HỌC (3tiết)
Mục tiêu : Sinh viên cần nắm được nghĩa của các thuật ngữ then chốt liên
quan đến đối tượng môn học. Nắm được những điểm chính trong lịch sử hình
thành, phát triển và phân nhánh môn học. Hiểu được vị trí, vai trò của môn học
giữa các môn khoa học khác và trong hoạt động thực tiễn của con người từ đó
thấy được ý nghĩa và tầm quan trọng của việc học tập môn này.
1. Đối tượng của lôgíc học
1. Đặc thù của lôgíc học như là khoa học
Giải thích 3 nghĩa khác nhau của thuật ngữ “lôgíc”
Khách thể của lôgíc học là tư duy. Đây là khoa học về tư duy.
Có nhiều khoa học khác cũng nghiên cứu tư duy, riêng lôgíc học là _khoa
học về các hình thức và các quy luật của tư duy đúng đắn dẫn đến chân lý.

  1. Tư duy với tư cách là khách thể của lôgíc học_
    Nêu các tiền đề sinh học và xã hội cho sự hình thành tư duy ở con người.
    Từ đó nêu định nghĩa: tư duy là sự phản ánh gián tiếp và khái quát hiện
    thực khách quan vào đầu óc con người, được thực hiện bởi con người xã hội
    trong quá trình hoạt động thực tiễn cải biến thế giới xung quanh.
  • Nêu 4 đặc điểm của tư duy mà định nghĩa trên đề cập đến (tr. 3-4 Giáo
    trình).
    1. Mối quan hệ giữa tư duy và ngôn ngữ
    Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu toàn diện để thể hiện các tư tưởng – đầu
    tiên dưới dạng các tổ hợp âm thanh, sau đó dưới dạng các ký tự.
    Ngôn ngữ giữ vai trò là phương tiện thu nhận và củng cố các tri thức, lưu
    giữ và truyền bá chúng cho những người khác, là vỏ bọc vật chất của tư tưởng.
    1. 4. Nội dung và hình thức của tư tưởng

Tính chân thực của tư duy là thuộc tính của tư duy tái tạo lại hiện thực
như nó vốn có, tương thích với nó về nội dung, biểu thị khả năng của tư duy đạt
tới chân lý.
Còn tính đúng đắn của tư duy lại là thuộc tính căn bản khác biểu thị khả
năng tư duy tái tạo trong cấu trúc của nó cấu trúc khách quan của hiện thực.
Trong tư duy việc đảm bảo tính chân thực và tính đúng đắn có ý nghĩa to
lớn. Chúng là hai điều kiện căn bản để thu được kết quả suy luận xác thực.
Lôgíc hình thức quan tâm chủ yếu đến tính đúng đắn của tư duy. Đó là
vấn đề cơ bản của nó. Nhưng tính đúng đắn không phải được dẫn xuất từ các
quy tắc lôgíc học, mà là dẫn xuất trước hết từ “tính đúng đắn” của tồn tại khách
quan, tính có trật tự của chính nó. Tính đúng đắn của tư duy vốn phản ánh trước
hết tính quy luật khách quan của thế giới, đã nảy sinh và tồn tại tự phát từ lâu
trước khi con người đúc kết các quy tắc. Còn các quy tắc lôgíc chỉ là những
thành tựu trên con đường thấu hiểu bản chất của tư duy đúng đắn và những tính
quy luật tác động trong nó.
2. Lược sử phát triển của lôgíc học
2. Sự xuất hiện và các giai đoạn phát triển của lôgíc học hình thức
truyền thống
Lôgíc học có lịch sử lâu dài và phong phú gắn liền với lịch sử phát triển
xã hội nói chung. Sự xuất hiện của lôgíc học như là lý thuyết về tư duy đã có
sau thực tiễn con người suy nghĩ hàng nghìn năm. Cùng với sự phát triển của
lao động sản xuất con người đã hoàn thiện và phát triển dần các khả năng suy
nghĩ, rồi biến tư duy cùng các hình thức và quy luật của nó thành khách thể
nghiên cứu.
Những vấn đề lôgíc đã lẻ tẻ xuất hiện trong suy tư người cổ đại từ hơn
2,5 nghìn năm trước đây đầu tiên ở Ấn Độ và Trung Quốc. Sau đó chúng được
vạch thảo đầy đủ hơn ở Hylạp và Lamã.

Có hai nguyên nhân cơ bản làm xuất hiện lôgíc học. Thứ nhất, sự ra đời
và phát triển ban đầu của các khoa học, trước hết là của toán học. Sinh ra trong
đấu tranh với thần thoại và tôn giáo, khoa học dựa cơ sở trên tư duy duy lý đòi
hỏi phải có suy luận và chứng minh. Do vậy, lôgíc học đã nảy sinh như là ý đồ
vạch ra và luận chứng những đòi hỏi mà tư duy khoa học phải tuân thủ để thu
được kết quả tương thích với hiện thực.
Hai là sự phát triển của thuật hùng biện trong điều kiện dân chủ Hylạp
cổ đại.
Người sáng lập lôgíc học – “cha đẻ của lôgíc học” là triết gia lớn của
Hylạp cổ đại, nhà bách khoa Arixtôt (384-322 tr. cn.). Ông viết nhiều công trình
về lôgíc học có tên gọi chung là “Bộ công cụ”, trong đó chủ yếu trình bày về
suy luận và chứng minh diễn dịch. Arixtôt còn phân loại các phạm trù – những
khái niệm chung nhất và khá gần với phân loại từ trước của Đêmôcrit về phán
đoán. Ông đã phát biểu ba quy luật cơ bản của tư duy, trừ luật lý do đầy đủ. Học
thuyết lôgíc của Arixtôt đặc sắc ở chỗ, dưới dạng phôi thai nó đã bao hàm tất cả
những phần mục, trào lưu, các kiểu của lôgíc học hiện đại như xác suất, biểu
tượng, biện chứng.
Giai đoạn phát triển mới của lôgíc học hình thức gắn bó hữu cơ với việc
xây dựng lôgíc quy nạp diễn ra từ thế kỷ XVII đi liền với tên tuổi của nhà triết
học và tự nhiên học kiệt xuất người Anh Ph. Bêcơn (1561-1626). Ông là người
khởi xướng lôgíc quy nạp. “… Lôgíc học đang có, là vô dụng trong việc đem lại
tri thức mới” 1. Vì thế Bê cơn đã viết “Bộ công cụ Mới” như là thứ đối nghịch
với “Bộ công cụ” của Arixtôt, trong đó tập trung vạch thảo các phương pháp
quy nạp để xác định sự phụ thuộc nhân quả giữa các hiện tượng. Đó chính là
công lao to lớn của Bêcơn.
Lôgíc quy nạp về sau này được nhà triết học người Anh Đz. Mill (1806-
1873) hệ thống hoá và phát triển thêm trong tác phẩm hai tập “Hệ thống lôgíc

1 Ph. Bêcơn. Toàn tập, t. 2. Nxb. Tư tưởng M., 1978. Tr. 13 .khởi xướng lôgíc toán. Ông đã ý tưởng ra ngôn từ hình tượng vạn năng với kỳ vọng nhờ đó hoàn toàn có thể duy lý hoá mọi khoa học thực nghiệm .. Những tư tưởng của Lépnhit được tăng trưởng tiếp ở thế kỷ XVIII và nửa đầu thế kỷ XIX. Tuy nhiên, chỉ từ nửa sau thế kỷ XIX mới có những điều kiện kèm theo chín muồi cho sự tăng trưởng của lôgíc toán. Nhà toán học và lôgíc học người Anh Đz. Bun ( 1815 – 1864 ) trong những khu công trình của mình đều ứng dụng toán học vào lôgíc học. Ông đã nghiên cứu và phân tích toán học so với triết lý suy luận, vạch thảo phép tính lôgíc ( “ đại số Bun ” ). Nhà toán học và lôgíc học người Đức G. Phrege ( 1848 – 1925 ) ứng dụng lôgíc học để nghiên cứu và điều tra toán học và những cơ sở của nó, kiến thiết xây dựng số học hình thức hoá. Nhà triết học, lôgíc học, toán học người Anh B. Raxel ( 1872 – 1970 ) cùng với A. Uaitkhed ( 1861 – 1947 ) trong tác phẩm cơ bản ba tập “ Các nguyên tắc của toán học ” với những mục tiêu luận chứng cho nó về mặt lôgíc đã cố kiến thiết xây dựng hệ tiên đề diễn dịch cho lôgíc học. 2. Sự hình thành và tăng trưởng của lôgíc học biện chứng Lôgíc học biện chứng cũng là nhánh quan trọng của lôgíc học tân tiến. Ngay Arixtôt đã đặt ra và có ý xử lý nhiều yếu tố cơ bản của lôgíc học biện chứng – phản ánh những xích míc hiện thực vào những khái niệm, yếu tố đối sánh tương quan cái riêng và cái chung, sự vật và khái niệm về nó và v. v .. Những yếu tố của lôgíc biện chứng dần được tích luỹ trong những khu công trình của những nhà tư tưởng sau đó. Nhưng lôgíc biện chứng chỉ thực sự khởi đầu được định hình vào cuối thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX. Và điều đó cũng trước hết gắn liền với sự văn minh của những khoa học và với tên tuổi của những nhà triết học tầm cỡ Đức khởi đầu bởi Cantơ ( 1724 – 1804 ). Bên cạnh lôgíc học hình thức, ông thấy thiết yếu phải thiết kế xây dựng một thứ lôgíc học nội dung, mà ông gọi là lôgíc học siêu nghiệm. Nó phải nghiên cứu và điều tra những hình thức thực sự cơ bản của tư duy như phạm trù, tức là những khái niệm chung nhất. Cantơ là người tiên phong phát hiện ra đặc thù xích míc khách quan, biện chứng thâm thúy của tư duy con người. Nhân đó, ônghướng tới việc vạch thảo những hướng dẫn tương ứng cho những nhà khoa học. Mặc dù đã đặt ra những nguyên tắc của lôgíc học mới với yếu tố TT là yếu tố xích míc biện chứng, tuy nhiên Cantơ lại chưa trình diễn nó một cách mạng lưới hệ thống. Ông cũng không vạch ra cả mối đối sánh tương quan thực sự của nó với lôgíc học hình thức, mà hơn thế nữa còn định đặt trái chiều lôgíc học này với lôgíc học kia. Hêghen ( 1770 – 1831 ) đã liên tục ý đồ vạch thảo mạng lưới hệ thống chỉnh thể lôgíc biện chứng mới. Trong khu công trình “ Khoa học lôgíc ” ông đã mày mò ra xích míc giữa những kim chỉ nan lôgíc hiện có với thực tiễn tư duy mà ở thời gian đó đã rất nóng bức. Ông đã tìm ra phương tiện đi lại xử lý xích míc này bằng việc kiến thiết xây dựng mạng lưới hệ thống lôgíc học mới dưới dạng đặc trưng, tôn giáo thần bí. Tiêu điểm ở đó là biện chứng của tư duy trong hàng loạt tính phức tạp và xích míc của nó. Hêghen nghiên cứu và điều tra lại thực chất của tư duy, những hình thức và quy luật của nó. Nhân đấy ông đi đến Kết luận “ Phép biện chứng cấu thành lên thực chất của chính tư duy, những quy luật và hình thức của nó, rằng với tư cách là lý tính nó cần phải phủ định chính mình, phải rơi vào xích míc ” 2. Ông thấy trách nhiệm của mình là phải tìm ra phương pháp xử lý những xích míc ấy. Những yếu tố của lôgíc biện chứng, mối đối sánh tương quan của nó với lôgíc hình thức đã được C. Mác ( 1818 – 1883 ) và Ph. Ănghen ( 1820 – 1895 ) liên tục cụ thể hoá và tăng trưởng trong những khu công trình của mình. Sử dụng vật liệu ý thức đa dạng chủng loại nhất được tích luỹ bởi triết học, những khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, những Ông đã tạo lập lên mạng lưới hệ thống mới, duy vật biện chứng, và nó đã được hoá thân vào những tác phẩm như “ Tư bản ” của C. Mác, “ Chống Điurinh ”, “ Biện chứng của tự nhiên ” của Ph. Ănghen và v. v .. Từ những quan điểm triết học chung ấy C. Mác và Ph. Ănghen không phủ nhận ý nghĩa của lôgíc học hình thức, nhưng nhấn mạnh vấn đề tính lịch sử dân tộc của nó. Ph. Ănghen đã ghi nhận rằng tư duy lý luận ở mỗi một thời đại là mẫu sản phẩm lịch sử vẻ vang, ở những thời gian khác nhau có những hình thức và đồng thời nội dung rất khác nhau. “ Suy ra, khoa2 Hêghen. Bách khoa thư những khoa học triết học, gồm 3 tập, Nxb. Tư tưởng, M. 1974 – 1977, t. 1, tr. 96

3. Ý nghĩa xã hội và các chức năng cơ bản của lôgíc học
a) Chức năng nhận thức_._
b) Chức năng thế giới quan.
c) Chức năng phương pháp luận.
d) Chức năng tư tưởng hệ_.
3. Vai trò của lôgíc học trong việc hình thành văn hoá lôgíc của con
người_
Văn hoá lôgíc là văn hoá của tư duy được thể hiện qua văn hoá lời nói và
chữ viết. Nó bao gồm:
a) Tri thức về các phương tiện hoạt động tinh thần, về các hình thức và
quy luật của nó;
b) Sự biết áp dụng những tri thức ấy vào thực tiễn tư duy dựa trên những
khái niệm để thực hiện các thao tác lôgíc đúng, tiến hành các suy luận, chứng
minh và bác bẻ;
c) Thói quen phân tích các tư tưởng cả của riêng mình và của người khác
để lựa chọn cách suy luận hợp lý nhất, ngăn ngừa những sai lầm lôgíc.
Việc rèn luyện văn hoá lôgíc là công việc dài lâu và đầy khó khăn. Lôgíc
học có ý nghĩa lớn trong việc rèn luyện ấy. Khi nói về ý nghĩa của lôgíc học,
cần phải tránh hai thái cực: hoặc là đánh giá nó quá cao, hoặc là hạ thấp nó. Bản
thân việc sử dụng lôgíc học đòi hỏi phải có hai điều kiện: thứ nhất, là có một
khả năng tư duy nhất định; và thứ hai, một số tri thức nhất định.
Câu hỏi thảo luận và ôn tập
2) Hãy trình bày đối tượng, phương pháp nghiên cứu của lô gích học hình
thức.
2) Trình bày các nghĩa khác nhau của thuật ngữ lôgíc? Lôgíc học quan
tâm đến nghĩa nào của thuật ngữ đó?
3) Tư duy là gì? thế nào là lô gíc của tư duy, thế nào lô gíc của tư duy
hình thức?

4 ) Thế nào là nội dung, hình thức của tư duy ? Phân biệt tính chân thực và tính đúng đắn của tư duy như thế nào ? 5 ) Trình bày ngắn gọn về lịch sử dân tộc Open và tăng trưởng của lôgíc học. Phân biệt những nhánh lôgíc học : hình thức truyền thống lịch sử, toán và biện chứng. 6 ) Trình bày về vai trò, những tính năng của lôgíc học. Nêu rõ ý nghĩa của lôgíc học và của việc học tập lôgíc học .

Khái niệm thực hiện 2 chức năng cơ bản là nhận thức và giao tiếp.
2. Khái niệm và từ
Nếu khái niệm là một hình thức của tư duy, một phạm trù lôgíc học, thì
từ là phạm trù ngôn ngữ học, là phương tiện ngôn ngữ để gắn kết tư tưởng, lưu
giữ, và truyền lại cho những người khác. Nói khác, từ là cơ sở vật chất của khái
niệm.
Không thể có khái niệm ngoài từ. Khái niệm được hình thành trên cơ sở
những từ xác định có nghĩa. Nghĩa của từ thường được dùng để chuyển tải nội
dung của khái niệm. Mọi khái niệm đều được thể hiện bằng một từ hay cụm từ ,
nhưng không phải từ nào cũng thể hiện khái niệm. Vì thế không thể thay đổi nội
dung của khái niệm bằng âm và nghĩa của các từ khác nhau. Một từ có thể diễn
đạt nội dung của một số khái niệm khác nhau. Đây là hiện tượng đồng âm khác.
Ngược lại, một khái niệm có thể được diễn đạt bằng nhiều từ. Đó là hiện tượng
đồng nghĩa khác âm.
Lôgíc học hiện đại đang hướng tới xây dựng một hệ thống ngôn ngữ nhân
tạo hoàn chỉnh có thể diễn đạt chính xác một nghĩa từng khái niệm trong tư duy.
3. Các phương pháp cơ bản thành lập khái niệm
Việc hình thành khái niệm là kết quả hoạt động nhận thức và thực tiễn
của con người nhờ các phương pháp lôgíc như: so sánh, phân tích, tổng hợp ,
trừu tượng hoá, khái quát hoá.
4. Cấu tạo của khái niệm
Mọi khái niệm đều được tạo thành từ 2 bộ phận: nội hàm và ngoại diên.
4. Nội hàm của khái niệm chính là nội dung của nó được xét dưới dạng
chia nhỏ thành những dấu hiệu bản chất khác biệt, giúp phân biệt đối tượng mà
nó phản ánh với những đối tượng khác. Nội hàm đặc trưng cho khái niệm về
mặt chất. Có thể biểu diễn nội hàm của khái niệm như sau: A(b, c, d,…), trong
đó A – là khái niệm nói chung, còn b, c, d,… – là những thuộc tính của đối
tượng.

Các dấu hiệu nội hàm gồm hai loại: dấu hiệu loại là dấu hiệu chung bản
chất cho toàn bộ lớp đối tượng, và dấu hiệu chủng, chung và bản chất chỉ cho
một đối tượng hoặc lớp nhỏ hơn các đối tượng và làm cho nó khác với các đối
tượng khác. Thông thường người ta nêu trước những dấu hiệu chung, bản chất
đại diện cho toàn bộ lớp đối tượng, rồi mới đến những dấu hiệu ngày càng khác
biệt, đặc thù hơn chỉ thuộc về đối tượng mà khái niệm đang phản ánh. Số lượng
các dấu hiệu càng nhiều thì nội hàm càng phong phú.
4. Ngoại diên của khái niệm là tập hợp đối tượng thực mang các dấu
hiệu chung, bản chất được nêu trong nội hàm. Ngoại diên của khái niệm chính
là phạm vi đối tượng mà khái niệm phản ánh và đặc trưng cho khái niệm về mặt
lượng, do vậy có thể liệt kê chính xác các đối tượng thuộc ngoại diên, nếu
chúng là hữu hạn và tương đối không nhiều, còn không thì có thể mô tả ngoại
diên dựa vào các dấu hiệu nội hàm. Số lượng đối tượng càng nhiều thì ngoại
diên của khái niệm càng rộng.
4. Quan hệ giữa nội hàm và ngoại diên của khái niệm là quan hệ tỷ lệ
nghịch: nội hàm càng phong phú, thì ngoại diên càng hẹp. Ngược lại, ngoại
diên của khái niệm càng rộng, thì nội hàm của khái niệm càng nghèo.
Những khái niệm có ngoại diên rộng nhất được gọi là các phạm trù, còn
các khái niệm có nội hàm phong phú nhất thường phản ánh một đối tượng cụ
thể, xác định (khái niệm đơn nhất). Cũng cần lưu ý rằng quy luật này chỉ tác
động khi tư duy phản ánh những đối tượng tồn tại ở một phẩm chất xác định,
trong trạng thái tĩnh tại tương đối. Sự tác động của nó đúng với những khái
niệm bao hàm các khái niệm khác và thể hiện qua phép mở rộng và thu hẹp
khái niệm (xem mục 7).
5. Phân loại khái niệm
5. Phân loại khái niệm theo nội hàm
a) Khái niệm cụ thể và trừu tượng.
b) Khái niệm khẳng định và khái niệm phủ định_._

b) Quan hệ đối lập: là quan hệ giữa những khái niệm mà nội hàm của
chúng có những dấu hiệu trái ngược nhau, nhưng tổng ngoại diên của chúng
không lấp đầy ngoại diên của khái niệm loại chung cho chúng.
c) Quan hệ mâu thuẫn : là quan hệ giữa những khái niệm có nội hàm
không chỉ trái ngược mà còn loại trừ nhau và tổng ngoại diên của chúng luôn
lấp đầy ngoại diên của một khái niệm loại.
7. Mở rộng và thu hẹp khái niệm là các thao tác lôgíc xử lý nội hàm và
ngoại diên của khái niệm. Quan hệ bao hàm loại – chủng là cơ sở của chúng. Sự
tác động của quy luật quan hệ tỷ lệ nghịch giữa nội hàm và ngoại diên của khái
niệm được thể hiện trực tiếp ở các thao tác này.
7. Mở rộng khái niệm là thao tác giúp thu được một khái niệm mới
bằng cách mở rộng ngoại diên của khái niệm cho trước. Những khái niệm đứng
sau bao giò cũng phải bao hàm những khái niệm đứng trước đó. Giới hạn của
mở rộng khái niệm là phạm trù.
7. Thu hẹp khái niệm là thao tác lôgíc ngược với mở rộng, trong đó từ
khái niệm có ngoại diên lớn hơn (loại) ta chuyển đến khái niệm có ngoại diên
nhỏ hơn (chủng) tương ứng_._ Giới hạn của thu hẹp là ở khái niệm đơn nhất.
8. Phép định nghĩa khái niệm
8. Bản chất của định nghĩa khái niệm là thao tác lôgíc nhằm vạch ra
những dấu hiệu nội hàm cơ bản nhất của khái niệm.
Cần phải định nghĩa khái niệm ở một trong ba trường hợp sau: Thứ nhất ,
tổng kết điểm chủ yếu sau quá trình nhận thức bản chất đối tượng; thứ hai, khi
sử dụng những khái niệm mà người khác còn chưa biết nội hàm; thứ ba, khi sử
dụng các từ đã biết nhưng lại được dùng ở nghĩa mới.
8. Cấu tạo và các chức năng của phép định nghĩa gồm 2 bộ phận:
Khái niệm được định nghĩa (definiendum = Dfd) là khái niệm mà ta phải
vạch rõ nội hàm cơ bản của nó ra.

Khái niệm dùng để định nghĩa ( definiens = Dfn ) là khái niệm có những tín hiệu chung và cơ bản cấu thành nội hàm của khái niệm được định nghĩa. Mối liên hệ lôgíc giữa khái niệm được định nghĩa và khái niệm dùng để định nghĩa được bộc lộ nhờ từ “ là ” hay dấu gạch ngang. Chức năng của định nghĩa khái niệm là vạch rõ nội hàm của khái niệm được định nghĩa ; phân biệt đối tượng người dùng cần định nghĩa với những đối tượng người tiêu dùng khác 8. Các kiểu định nghĩa a ) Căn cứ vào đối tượng người dùng được định nghĩa, thì có 2 kiểu định nghĩa : định nghĩa thực và duy danh .

  • Định nghĩa thực là định nghĩa về chính đối tượng đó bằng cách chỉ ra
    những dấu hiệu cơ bản nhất trong nội hàm của khái niệm được định nghĩa.
    Ví dụ: Con người là động vật có năng lực tư duy.
  • Định nghĩa duy danh là nhằm vạch ra nghĩa của từ biểu thị đối tượng.
    Ví dụ: Hiến pháp được gọi là đạo luật cơ bản.
    Như vậy, định nghĩa duy danh chính là thao tác đặt tên cho đối tượng.
    b) Căn cứ vào tính chất của khái niệm dùng để định nghĩa thì định nghĩa
    gồm các kiểu:
  • Định nghĩa qua loại gần nhất và khác biệt chủng là kiểu định nghĩa
    trong đó phải chỉ ra khái niệm loại gần nhất chứa khái niệm cần định nghĩa, rồi
    sau đó vạch ra những dấu hiệu khác biệt của khái niệm cần định nghĩa so với
    khái niệm đó.
    Nhưng có những khái niệm cần định nghĩa đã là rộng nhất khiến không
    thể tìm được khái niệm loại của nó; hoặc không tìm được thuộc tính khác biệt
    đặc thù của đối tượng mà khái niệm cần định nghĩa phản ánh. Trong các trường
    hợp đó cần phải có những kiểu định nghĩa khác phù hợp hơn.
  • Định nghĩa theo quan hệ : là kiểu định nghĩa trong đó người ta chỉ ra
    một khái niệm đối lập với khái niệm cần định nghĩa và nêu rõ mối quan hệ
    giữa các đối tượng mà hai khái niệm đó phản ánh. (định nghĩa “vật chất” của V.

b) Không được định nghĩa vòng quanh. Đây là kiểu định nghĩa, trong đó
khái niệm dùng để định nghĩa lại được xác định nội hàm thông qua khái niệm
cần định nghĩa, hoặc nội hàm của khái niệm cần định nghĩa lại được giải thích
thông qua những khái niệm khác mà nội hàm còn chưa rõ ràng.
c) Tránh dùng mệnh đề phủ định trong định nghĩa. Nếu dùng mệnh đề
phủ định để định nghĩa (A là không B) thì trong nhiều trường hợp không làm rõ
được nội hàm của khái niệm được định nghĩa, mà mới chỉ dừng lại ở mức độ
nhấn mạnh nó không có những dấu hiệu này hay khác mà thôi.
d) Định nghĩa phải tường minh, rõ ràng, chính xác. Quy tắc này yêu cầu
những thuật ngữ được sử dụng trong định nghĩa phải ngắn gọn, rõ nghĩa, tránh
dùng những từ ngữ mập mờ, đa nghĩa, hoặc là những từ ví von so sánh dễ gây
hiểu lầm về đối tượng được định nghĩa.
Việc vận dụng tốt các quy tắc định nghĩa là điều kiện cần, nhưng chưa là
đủ để xây dựng các định nghĩa khoa học chặt chẽ phù hợp với hiện thực. Các
quy tắc ấy được rút ra trên cơ sở phân tích các định nghĩa “có sẵn”. Vì vậy để
có một định nghĩa tốt rất cần phải am hiểu tinh tường về đối tượng.
9. Phép phân chia khái niệm
9. Bản chất và nguồn gốc của phân chia khái niệm
Nếu định nghĩa là thao tác nhằm vào nội hàm khái niệm, thì phân chia lại
là thao tác nhằm vào ngoại diên của khái niệm để vạch ra ngoại diên của các
khái niệm chủng trong khái niệm loại theo một căn cứ xác định.
Sở dĩ có thể phân chia khái niệm được là vì, một tính xác định về chất (là
cơ sở của phép định nghĩa) của đối tượng thực có thể thể hiện ở những hình
thức khác nhau phụ thuộc vào quan hệ qua lại của đối tượng với các đối tượng
khác, vào mức độ biến đổi và phát triển của nó. Sự hiện hữu của các hình thức
thể hiện là cơ sở khách quan của phân chia. Nếu định nghĩa trả lời câu hỏi: “đối
tượng là gì?”, thì phân chia trả lời: “ đối tượng ấy có những hình thức nào ?”

Cần phân loại khái niệm trong 3 trường hợp, khi phải vạch ra không riêng gì thực chất của tư duy, mà còn cả những hình thức bộc lộ và tăng trưởng của nó ; khi người đối thoại không rõ nghành nghề dịch vụ ứng dụng của khái niệm ; khi sử dụng từ đồng âm khác nghĩa, chỉ ra những nghĩa của nó về thực ra đã là phân loại khái niệm. Cần phân biệt việc phân loại khái niệm như thể vạch ra những khái niệm chủng trong khái niệm loại với việc chỉ ra những bộ phận trong một chỉnh thể. Đây là hai thao tác có những điểm độc lạ mà không phải khi nào người ta cũng phân biệt được. 9. Cấu tạo của phép phân loại gồm 3 bộ phận là : a ) Khái niệm bị phân loại : là khái niệm loại mà từ đó ta vạch chỉ ra những khái niệm chủng chứa trong nó ( ký hiệu là A ). b ) Cơ sở phân loại : là địa thế căn cứ, tín hiệu, mà dựa vào đó ta chia khái niệm loại ra thành những khái niệm chủng. Khi triển khai phân loại khái niệm cần chú ý quan tâm là việc lựa chọn cơ sở của nó sẽ quyết định hành động giá trị khoa học và thực tiễn của phép phân loại. c ) Các khái niệm chủng thành phần : là những khái niệm thu được sau khi phân loại ( ký hiệu là A 1, A 2, … An ). 9. Các quy tắc phân loại khái niệm a ) Phân chia phải cân đối. Ngoại diên của khái niệm bị phân loại phải bằng tổng ngoại diên của những khái niệm sau phân loại : A  A 1 + A 2 + … + An. Vi phạm quy tắc này sẽ dẫn đến một trong những lỗi sau : – Chia thiếu thành phần : khi không chỉ ra đủ những khái niệm chủng trong khái niệm bị phân loại. Tổng ngoại diên của những khái niệm thu được sau phân loại nhỏ hơn ngoại diên của khái niệm bị phân loại : A  A 1 + A 2 + … + An – Chia thừa thành phần : khi những khái niệm chủng thành phần thu được thừa ra so với ngoại diên của khái niệm loại bị phân loại : A  A 1 + A 2 + … + An

  • Phân chia vừa thừa vừa thiếu.

Source: https://vh2.com.vn
Category : Khoa Học

Liên kết:XSTD