Networks Business Online Việt Nam & International VH2

Cơ sở dữ liệu quan hệ – Wikipedia tiếng Việt

Đăng ngày 30 December, 2022 bởi admin

Cơ sở dữ liệu quan hệ (tiếng Anh: relational database) là một cơ sở dữ liệu (phổ biến nhất là kỹ thuật số) dựa trên mô hình quan hệ dữ liệu, theo đề xuất của Edgar F. Codd vào năm 1970.[1] Một hệ thống phần mềm sử dụng để duy trì cơ sở dữ liệu quan hệ là một hệ quản trị cơ sở dữ liệu quan hệ (RDBMS). Nhiều hệ thống cơ sở dữ liệu quan hệ có tùy chọn sử dụng SQL (Ngôn ngữ truy vấn có cấu trúc) tiêu chuẩn để truy vấn và duy trì cơ sở dữ liệu.

Thuật ngữ “cơ sở dữ liệu quan hệ” được phát minh bởi EF Codd tại IBM vào năm 1970. Codd đã giới thiệu thuật ngữ này trong tài liệu nghiên cứu của mình “A Relational Model of Data for Large Shared Data Banks” (Một mô hình dữ liệu quan hệ cho các ngân hàng dữ liệu chia sẻ lớn).[2] Trong bài báo này và các bài báo sau này, ông đã định nghĩa những gì có nghĩa là “quan hệ”. Một định nghĩa nổi tiếng về những gì cấu thành một hệ thống cơ sở dữ liệu quan hệ bao gồm 12 quy tắc của Codd. Tuy nhiên, không có hiện thực thương mại nào của mô hình quan hệ tuân thủ tất cả các quy tắc của Codd [3], vì vậy thuật ngữ này đã dần dần mô tả một lớp hệ thống cơ sở dữ liệu rộng hơn, ở mức tối thiểu:

Cấu trúc chung của một cơ sở dữ liệu quan hệ.
Connolly và Begg định nghĩa Hệ thống quản trị cơ sở dữ liệu ( DBMS ) là một ” mạng lưới hệ thống ứng dụng được cho phép người dùng xác lập, tạo, duy trì và trấn áp quyền truy vấn vào cơ sở dữ liệu “. [ 4 ] RDBMS là một phần lan rộng ra của từ viết tắt nhiều lúc được sử dụng khi cơ sở dữ liệu cơ bản là quan hệ .

Một định nghĩa khác cho hệ thống quản lý cơ sở dữ liệu quan hệ là hệ thống quản lý cơ sở dữ liệu (DBMS) dựa trên mô hình quan hệ. Hầu hết các cơ sở dữ liệu được sử dụng rộng rãi ngày nay đều dựa trên mô hình này.[5]

Cơ sở dữ liệu quan hệ phân tán[sửa|sửa mã nguồn]

Kiến trúc cơ sở dữ liệu quan hệ phân tán ( Distributed Relational Database Architecture – DRDA ) được phong cách thiết kế bởi một nhóm thao tác trong IBM trong quy trình tiến độ 1988 đến 1994. DRDA được cho phép những cơ sở dữ liệu quan hệ được liên kết mạng hợp tác để thực thi những nhu yếu SQL. [ 6 ] [ 7 ] Các thông điệp, giao thức và những thành phần cấu trúc của DRDA được xác lập bởi Kiến trúc quản trị dữ liệu phân tán .
Theo DB-Engines, vào tháng 7 năm 2019, những mạng lưới hệ thống được sử dụng thoáng rộng nhất là Oracle, MySQL ( ứng dụng không tính tiền ), Microsoft SQL Server, PostgreQuery ( ứng dụng không tính tiền ), IBM DB2, Microsoft Access, SQLite ( ứng dụng không lấy phí ) và MariaDB ( ứng dụng không tính tiền ). [ 8 ]Theo công ty điều tra và nghiên cứu Gartner, năm 2011, năm nhà cung ứng cơ sở dữ liệu quan hệ ứng dụng độc quyền số 1 theo lệch giá là Oracle ( 48,8 % ), IBM ( 20,2 % ), Microsoft ( 17,0 % ), SAP gồm có Sybase ( 4,6 % ) và Teradata ( 3,7 % ). [ 9 ]

Source: https://vh2.com.vn
Category : Bảo Mật