Mất bình tĩnh, quên mất nội dung trình bày và cố gắng bắt trước người khác,… là những lỗi sai cơ bản khi nói trước đám đông. Để có được kỹ...
Người Việt tại Đài Loan – Wikipedia tiếng Việt
Người Việt tại Đài Loan hay Người Đài Loan gốc Việt, có số lượng tương đối lớn so với những người nước ngoài khác ở đây. Có khoảng 80.000 người Việt Nam ở Đài Loan tính đến năm 2006; trong số đó 60.000 là người giúp việc trong gia đình, 16.000 làm việc tại các nhà máy và 2.000 còn lại làm các công việc khác. Họ chiếm khoảng 21% trong số các công nhân nước ngoài tại hòn đảo này[2]; trong số đó 42% làm việc tại các thành phố Đài Bắc, Tân Bắc (thành phố bao quanh Đài Bắc) và Đào Viên ở miền bắc Đài Loan. Đồng thời, có khoảng 118.300 người phụ nữ Việt Nam đã kết hôn với những người đàn ông bản xứ thông qua các dịch vụ môi giới kết hôn quốc tế kể từ năm 2005. Họ bao gồm những người Việt di cư đến sinh sống ở Đài Loan và những công dân Đài Loan sinh ra ở đó là con lai gốc Việt hoặc có cha mẹ người Việt.
Xuất khẩu lao động
Đài Loan là một khu vực quan trọng cho lao động xuất khẩu Nước Ta, đặc biệt quan trọng trong công nghiệp nặng và ngư nghiệp. Năm 2002, lao động Nước Ta tại Đài Loan chiếm khoảng chừng 28,5 % ( 13.200 người ) trong số 46.200 người Nước Ta đang lao động ở quốc tế, khiến Đài Loan làm nước đứng thứ nhì, trước Lào và chỉ sau Malaysia ; ngay cả sau khi xuất khẩu lao động Nước Ta đến Nước Hàn và Nhật Bản đã giảm bớt, Đài Loan vẫn giữ vị trí quan trọng của mình [ 3 ] .Từ khi Hội đồng Lao động của Đài Loan được cho phép cho thuê người Nước Ta năm 1999, ô-sin Nước Ta mở màn chiếm tỷ suất lớn của phụ nữ Nước Ta tại Đài Loan. Giữa những năm 2000 và 2003, số người ô-sin Nước Ta đã tăng gấp 15 lần, từ 2.634 người đến 40.397 người, biến họ trở thành nhóm ô-sin lớn thứ nhì theo vương quốc, cao hơn cả người Philippines và sau người Indonesia ; họ chiếm khoảng chừng 1/3 tổng số người giúp việc tại gia ở hòn đảo này. Người Philippines trước kia là nhóm giúp việc lớn nhất, vì kỹ năng và kiến thức tiếng Anh của họ được cho phép họ làm người dạy kèm lý tưởng cho con cháu trong mái ấm gia đình họ giúp việc. Tuy nhiên, kỹ năng và kiến thức tiếng Anh tốt của họ làm quan hệ chủ-tớ mất cân đối vì những người chủ ít có kỹ năng và kiến thức tiếng Anh ; người Việt và người Indonesia được chọn vì họ có ít kiến thức và kỹ năng tiếng Anh hơn, và cho nên vì thế họ có ít năng lực lập nhóm và khám phá thông tin ở ngoài xã hội Đài Loan hơn [ 4 ] .
Đến năm 2004, Việt Nam đã xuất khẩu 37.700 lao động đến Đài Loan hằng năm, hầu hết làm người giúp việc nhà và nhân viên bệnh viện. Tuy nhiên, trong năm 2005, chính phủ Đài Loan đã ra lệnh ngừng tuyển người Việt vì người Việt có tỷ lệ bỏ việc cao nhất trong tất cả các người châu Á tại Đài Loan. Đến năm sau, Đài Loan và Việt Nam đã thương lượng lại hợp đồng cho lao động Việt Nam, kéo dài thời gian làm việc từ ba đến sáu năm và cắt bớt thủ tục, và lập ra một chính sách chính thức để người lao động có thể than phiền về các người chủ; tuy nhiên, số tiền đặc cọc cũng được tăng lên, nhằm giảm tỷ lệ bỏ hợp đồng của các lao động[2].
Bạn đang đọc: Người Việt tại Đài Loan – Wikipedia tiếng Việt
Kết hôn
Mặc dù phạm pháp, những dịch vụ làm mai mối quốc tế vẫn phổ cập tại Nước Ta ; tính đến năm 2005, 118.300 phụ nữ Nước Ta, phần đông từ miền Nam, đã kết hôn với người Đài Loan. Từ năm 2001, phụ nữ Nước Ta đã chiếm 49 % số cô dâu quốc tế tại Đài Loan. Tuổi trung bình của họ là giữa 25 và 26 tuổi, trong khi tuổi trung bình của chú rể là 36 ; 54 % đến từ Thành phố Hồ Chí Minh. 73 % là người Kinh, trong khi số còn lại 27 % là người Hoa [ 5 ]. 72.411 ( 60 % ) trong tổng thể những cô dâu Nước Ta tại Đài Loan trong năm 2005 đã kết hôn trong vòng 10 năm trước. Phụ nữ Nước Ta cưới chồng Đài Loan chiếm 85 % trong số 11.973 người nhập quốc tịch Trung Hoa Dân quốc năm 2006 .
Chính phủ Việt Nam đã tạo một số quy định về hôn nhân quốc tế giữa 2002 và 2005, trong đó có việc cấm kết hôn nếu chênh lệch tuổi quá cao, và đòi hỏi các người cưới nhau phải có một ngôn ngữ tương đồng.
nhà nước Trung Hoa Dân quốc cũng muốn hạn chế việc di cư theo diện hôn nhân gia đình, nhưng khác với chính phủ nước nhà Nước Ta, chỉ hoàn toàn có thể sửa đổi chủ trương thị thực. Họ đã biến hóa chủ trương này : trước kia họ đã phỏng vấn từng người để cấp thị thực, rồi đổi thành phỏng vấn nhóm vào năm 1999 ; năm 2005, họ hạn chế 20 lần phỏng vấn mỗi ngày. Đến năm 2007, số cô dâu đã giảm bớt từ cao điểm 14.000 mỗi năm thành 1/3 số lượng đó [ 6 ] .
Theo Cao ủy Liên Hợp Quốc về người tị nạn, khoảng 3.000 phụ nữ Việt Nam từng kết hôn với người Đài Loan đã trở thành người không có quốc tịch sau khi ly dị; họ đã từ bỏ quốc tịch Việt Nam để nhập tịch Trung Hoa Dân quốc sau khi lấy chồng, nhưng lại trở về Việt Nam sau khi ly dị và từ bỏ quốc tịch Trung Hoa Dân quốc khi điền đơn xin lại quốc tịch Việt Nam. Con cái họ, vì chỉ có quốc tịch Trung Hoa Dân quốc và chưa bao giờ từng có quốc tịch Việt Nam, không thể nhập học trong các trường công tại Việt Nam[6].
Nhân vật
Tham khảo
Chú thích
Tạp chí học thuật
- Dương, Thông Vinh (ngày 25 tháng 8 năm 2007). “從越南觀點看越南台灣人:越僑全球化與移民精神 [Nhìn người Đài Loan gốc Việt từ quan điểm của Việt Nam: Toàn cầu hóa Việt Kiều và sự nhận thức về dân nhập cư]” ( PDF ). Cultural Studies Monthly. Trung tâm Nghiên cứu Nhân loại, Đại học quốc lập Đài Loan (71) .
Liên kết ngoài
Source: https://vh2.com.vn
Category : Công Cộng