Networks Business Online Việt Nam & International VH2

Kinh tế và Chu kỳ Nợ Ngắn hạn (Phần-2)

Đăng ngày 17 March, 2023 bởi admin

Ở đây trong Phần 2 của loạt blog về kinh tế, chúng ta sẽ nói về các chu kỳ nợ ngắn hạn . Trong Phần 1, chúng ta đã xem nền kinh tế là gì, cách tiền vận động trong nền kinh tế, v.v.

Còn về chu kỳ luân hồi nợ thời gian ngắn thì sao ? Ray Dalio đã lý giải rất hay về các chu kỳ luân hồi nợ thời gian ngắn trong video Youtube của mình .

Trước khi chúng ta tìm hiểu về các chu kỳ nợ ngắn hạn, Phương sẽ mang lại hình ảnh nói về một chu kỳ kinh tế hoàn chỉnh . Nó bao gồm các giai đoạn sau:

  • Một số chu kỳ nợ ngắn hạn (kéo dài 6-8 năm).
  • Tăng dần năng suất theo thời gian (kéo dài vô thời hạn).
  • Một chu kỳ nợ dài hạn (kéo dài 60-65 năm).

Đây là một bức tranh lớn về nền kinh tế của chúng ta. Nó nói gì? Nó nói về cách nền kinh tế của chúng ta sẽ hoạt động như thế nào trong một khoảng thời gian dài như 60-65 năm. 

  • Đầu tiên sẽ có một giai đoạn của đòn bẩy . Nó sẽ tồn tại hơn 50 năm.
  • Thứ hai là GDP sẽ giảm mạnh ( suy thoái ). Nó sẽ kéo dài 2-3 năm.
  • Thứ ba, nền kinh tế sẽ tái phục hồi ( sự phục hồi hệ thống tiền tệ ). Sẽ mất 7-8 năm để làm như vậy.

Bây giờ, đâu là chu kỳ nợ ngắn hạn? Lưu ý những con sóng nhỏ cứ lặp đi lặp lại trong chu kỳ nợ dài hạn. Những con sóng nhỏ đó đại diện cho chu kỳ nợ ngắn hạn. Nhiều con sóng nhỏ gộp lại sẽ tạo thành một cơn sóng lớn gọi là chu kỳ nợ dài hạn

Những chu kỳ nợ ngắn hạn

CHU KỲ NỢ…

Do nợ (tín dụng) mà sự phát triển của nền kinh tế diễn ra theo chu kỳ. Tại sao gọi nó là “chu kỳ”? Bởi vì một tập hợp các sự kiện trong một nền kinh tế, có xu hướng lặp đi lặp lại nhiều lần trong cả dài hạn và ngắn hạn.

Về chu kỳ luân hồi thời gian ngắn :

  • Khoảng thời gian của một chu kỳ ngắn hạn là từ  6 – 8 năm.
  • “Tập hợp các sự kiện” là gì? Chúng ta sẽ thấy nó bây giờ…

Mặc dù tất cả chúng ta gọi những chu kỳ luân hồi này là ngắn, nhưng thời hạn của nó là 6-8 năm. Trong điều kiện kèm theo thường thì, tất cả chúng ta coi khoảng chừng thời hạn này là dài hạn, phải không ? Một mặt, trong giới góp vốn đầu tư thì thời hạn nắm giữ 3-4 năm là dài hạn và thời gian ngắn là khoảng chừng thời hạn dưới 1 năm .
Nhưng khi nói đến chu kỳ luân hồi nợ, thậm chí còn khoảng chừng thời hạn 6-8 năm được gọi là thời gian ngắn. Điều quan trọng là ghi dấu sự độc lạ này trong tâm lý tất cả chúng ta :

  • Trong đầu tư: thậm chí 3-4 năm được coi là dài hạn.
  • Trong nền kinh tế (chu kỳ nợ): 6-8 năm được coi là ngắn hạn.

Vấn đề là, nếu tất cả chúng ta quen với việc xem các chu kỳ luân hồi kinh tế ( chu kỳ luân hồi nợ ) trong thời gian ngắn, thì việc xem xét góp vốn đầu tư trong dài hạn sẽ thuận tiện hơn nhiều .
Tại sao Phương nói như vậy ? Bởi vì tất cả chúng ta khó thiết kế xây dựng một viễn cảnh dài hạn về các khoản góp vốn đầu tư của mình. Những gì tất cả chúng ta muốn là doanh thu nhanh gọn tối đa trong 1-2 năm tới. Càng ngắn càng tốt, phải không ?
Nhưng guồng máy kinh tế của tất cả chúng ta không hoạt động giải trí như thế này .

Hiểu biết về các chu kỳ nợ ngắn hạn sẽ giúp xây dựng tầm nhìn đầu tư dài hạn. Phân tích thông minh các chu kỳ kinh tế thực sự có thể thúc đẩy lợi nhuận đầu tư của chúng ta.

# 1. CHU KỲ NỢ NGẮN HẠN…

Hãy phóng to và xem điều gì nằm trong một chu kỳ luân hồi nợ thời gian ngắn …
Trong một chu kỳ luân hồi nợ thời gian ngắn, có hai yếu tố cấu thành ( tiến trình ) :

  • Mở rộng (tốc độ tăng trưởng GDP dương), và
  • Suy thoái (tốc độ tăng trưởng GDP âm).

Nguyên nhân của Mở rộng là gì? Có nhiều tín dụng hơn . Mọi người (cá nhân, doanh nghiệp, chính phủ) nợ nhiều hơn trong giai đoạn này.

Nguyên nhân của Suy thoái là gì? Hạn chế việc sử dụng tín dụng hơn . Mọi người ít nợ hơn trong giai đoạn này.

Do đó tín dụng thúc đẩy nền kinh tế hiện đại của chúng ta.

# 1.1 TÍN DỤNG TRONG NỀN KINH TẾ

Tại sao tín dụng lại quan trọng trong nền kinh tế hiện đại? Hãy hiểu điều này bằng cách lấy ví dụ về một cá nhân.

Đồ họa thông tin này chỉ là đại diện cho danh mục tài sản của một cá nhân điển hình như thế nào. Tổng số vốn được sử dụng để mua tài sản bao gồm 90% tín dụng và 10% tiền mặt .

Việc hỗ trợ vốn cho hoạt động giải trí kinh doanh thương mại của các doanh nghiệp cũng không độc lạ lắm. Đa số các công ty được thực thi bằng cách sử dụng kinh tế tài chính tín dụng thanh toán .
Trên thực tiễn, việc sử dụng tín dụng thanh toán là rất lớn, trong tổng số vốn hiện có của nền kinh tế, gần 94 % là tín dụng thanh toán, và chỉ 6 % là tiền mặt .
Kinh tế - Chu kỳ Nợ Ngắn hạn - Tiền mặt Vs Tín dụngKinh tế – Chu kỳ Nợ Ngắn hạn – Tiền mặt Vs Tín dụng

Chúng ta cũng có thể nói như thế này, thứ mà chúng ta nghĩ là tiền thực chất là tín dụng 94%. Chỉ 6% trong số đó là tiền mặt.

Trong nền kinh tế văn minh, phần đông ( 94 % ) tiền thực sự là dựa trên tín dụng thanh toán, và nó là “ tín dụng thanh toán ” mà ở đầu cuối dẫn đến lan rộng ra và suy thoái và khủng hoảng kinh tế .

# 1.2 SỰ MỞ RỘNG CỦA NỀN KINH TẾ…

Mở rộng nền kinh tế có nghĩa là gì ? Tăng trưởng GDP .

Giả sử từ thời điểm 1 đến thời điểm 2, không có tín dụng nào trong nền kinh tế. GDP trong giai đoạn này sẽ tăng trưởng như thế nào? Tăng trưởng GDP chỉ có thể được thúc đẩy bằng cách nâng cao năng suất . Do đó, tăng trưởng GDP sẽ chỉ là tuyến tính , như thể hiện trong biểu đồ dưới đây.

Kinh tế – Chu kỳ Nợ Ngắn hạn – Mở rộng – Không Tín dụng

Giả sử trong khoảng thời gian từ lần 1 đến lần 2, nền kinh tế có sẵn tín dụng . GDP trong giai đoạn này sẽ tăng trưởng như thế nào? Tăng trưởng GDP sẽ bị ảnh hưởng bởi việc sử dụng tín dụng . Do đó, tăng trưởng GDP sẽ theo chu kỳ hoặc gợn sóng , như thể hiện trong biểu đồ dưới đây.

Kinh tế - Chu kỳ Nợ Ngắn hạn - Mở rộng - Có Tín dụngKinh tế – Chu kỳ Nợ Ngắn hạn – Mở rộng – Có Tín dụngTại sao tăng trưởng GDP diễn ra theo từng đợt hình sin ( chu kỳ luân hồi ) ? Bởi vì GDP đang tăng và giảm theo cách khác. Giữa điểm 1 và điểm 2, nhiều lần tăng trưởng GDP là dương và âm xen kẽ .

Nhưng cần lưu ý rằng, tốc độ tăng trưởng GDP chung trong cả 1 giai đoạn dài (giữa 1 và 2) vẫn giữ nguyên trong cả hai trường hợp:

  • Trường hợp một : Tăng trưởng GDP mà không có Tín dụng.
  • Trường hợp hai : Tăng trưởng GDP với Tín dụng.

Bây giờ tất cả chúng ta biết rằng GDP tăng trưởng theo từng đợt khi có tín dụng thanh toán trong nền kinh tế. Những sóng ( chu kỳ luân hồi ) này biểu thị điều gì ?

  • Trong một giai đoạn của chu kỳ, tăng trưởng GDP là dương.
  • Trong một giai đoạn khác của chu kỳ, tăng trưởng GDP là âm.

# 1.3 TỶ LỆ TĂNG TRƯỞNG GDP LÀ TÍCH CỰC (MỞ RỘNG)

Tại sao GDP tăng trưởng dương? Vì chi tiêu tăng lên, do tín dụng tăng.

Sẽ rất mê hoặc khi tưởng tượng tác động ảnh hưởng của tín dụng thanh toán so với nền kinh tế, làm tăng tiêu tốn .

Tất cả những người đang kiếm tiền bằng tiền mặt (như lương từ công việc, lợi nhuận từ kinh doanh, v.v.), những người như vậy đều được đánh giá tín nhiệm tốt và do đó có thể mắc nợ nếu họ có phát sinh nhu cầu lớn hơn số vốn hiện có.

Nợ cộng với thu nhập làm tăng vốn khả dụng với con người. Vốn tăng đồng nghĩa với việc tăng sức chi tiêu.

Khi mọi người tiêu tốn nhiều hơn trong một nền kinh tế, thì GDP sẽ tăng nhanh hơn. Tại sao ?

Bởi vì một người chi tiêu là một người khác thu nhập.

Khi nhiều người tiêu tốn hơn, điều đó có nghĩa là nhiều người cũng đang kiếm tiền. Điều này ở đầu cuối tạo ra một cuộc tiêu tốn .

Nhưng tiêu quá nhiều cũng không tốt. Nó dẫn đến lạm phát cao .

# 1.4 LẠM PHÁT CAO


Chi tiêu quá mức dẫn đến lạm phát kinh tế cao. Nhưng lạm phát kinh tế cao không nhất thiết luôn luôn là một điều xấu. Nhưng “ dư thừa tín dụng thanh toán trong dân ” tương hỗ lạm phát kinh tế là xấu .

Làm thế nào chính phủ đối phó với lạm phát cao dựa trên tín dụng này? Bằng cách tăng lãi suất . Tại sao họ tăng lãi suất và vì mục đích gì? Bởi vì điều này sẽ làm cho tín dụng (nợ) đắt hơn.

Nợ đắt hơn có nghĩa là, ít người sẽ chọn vay hơn. Mọi người ít có khả năng mắc nợ hơn khi nợ ngày càng đắt hơn. Các khoản cho vay giảm đồng nghĩa với việc ít vốn có sẵn trong người. Do đó chi tiêu ít hơn. Chi tiêu ít hơn cuối cùng sẽ đảo ngược chu kỳ tăng trưởng .

Nhưng trước khi tất cả chúng ta tranh luận về sự đảo ngược chu kỳ luân hồi tăng trưởng ( suy thoái và khủng hoảng ), tất cả chúng ta hãy hiểu tại sao tăng trưởng “ tín dụng thanh toán ( nợ ) thôi thúc ” không tốt cho nền kinh tế về lâu bền hơn …

# 1.4.1 NỀN KINH TẾ DỰA TRÊN NỢ CAO LÀ ĐIỀU XẤU XA…

Nợ nần giống như việc kiếm tiền khá dễ dàng, phân lớn (cá nhân, doanh nghiệp, chính phủ) sẽ tài trợ cho tất cả các nhu cầu trong cuộc sống của họ bằng cách sử dụng nợ. Tại sao? Vì nó là đồng tiền dễ dàng. Mọi người bị thu hút bởi những khoản tiền dễ dàng. Đó là bản chất của con người .

Vì vậy, yếu tố là gì nếu mọi người sống trên nợ ? Có hai tác động ảnh hưởng của việc phụ thuộc vào quá mức vào nợ :

  • Dẫn đến lạm phát cao (nhiều tiền hơn trong khi ít hàng hóa và dịch vụ hơn).
  • Dẫn đến năng suất làm việc giảm sút.

Trong một nền kinh tế nợ nần chồng chất, tiêu tốn hoàn toàn có thể tăng theo cấp số nhân. Điều này khởi đầu đẩy lạm phát kinh tế lên mức cao nguy hại .

Hơn nữa, khi mọi người dễ mắc nợ, họ sẽ không làm việc chăm chỉ hơn. Do đó năng suất của con người, của cả nền kinh tế, cũng giảm theo. Tại sao chúng ta cần cải thiện năng suất?

Bởi vì cải thiện năng suất dẫn đến bán được nhiều hơn, lợi nhuận nhiều hơn, nhiều việc làm hơn, do đó có thêm thu nhập cho mọi người (cho tất cả các tác nhân của nền kinh tế). Nếu năng suất không tăng, cuối cùng thu nhập sẽ giảm .

Luôn phải có sự cân bằng giữa tăng trưởng thu nhập và tăng trưởng nợ trong một nền kinh tế. Nếu nợ tăng nhanh hơn thu nhập, nó sẽ dẫn đến tỷ lệ lạm phát cao (như ở Zimbabwe gần đây).

Tăng trưởng thu nhập sẽ chỉ xảy ra khi cải thiện năng suất. Mọi người phải làm việc chăm chỉ để kiếm được nhiều tiền hơn. Nhưng tăng trưởng nợ xảy ra gần như tự động . Nợ tăng lên theo tỷ lệ lãi suất mà nó tính.

Hãy xem xét một trường hợp, trong đó quy mô thu nhập của một quốc gia bằng với nợ. Nhưng do một số vấn đề, thị trường việc làm không phát triển, thậm chí việc tăng lương còn yếu. GDP cũng tăng trưởng không đủ nhanh. Điều gì sẽ xảy ra với một quốc gia như vậy? Ở một quốc gia như vậy, tăng trưởng “nợ tích lũy trước” sẽ nhanh hơn tăng thu nhập.

Tăng trưởng thu nhập yếu, so với tăng trưởng nợ, cuối cùng dẫn đến vỡ nợ trong việc trả nợ . Nhiều người sẽ không thể trả nợ.

Rồi một ngày nào đó, doanh nghiệp cũng sẽ bắt đầu không trả được nợ. Đây là một tình huống rất nguy hiểm. Tại sao? Bởi vì trong nền kinh tế hiện đại của chúng ta, phần lớn tiền thực sự là tín dụng .

Mọi người không trả lại khoản vay, sau cuối có nghĩa là ai đó đang mất thu nhập của họ. Khi thu nhập giảm, ít người có được nhìn nhận tin tưởng tốt. Nó có nghĩa là, sẽ có ít người đủ tiêu chuẩn để được vay hơn. Chi tiêu trong nền kinh tế sẽ giảm. Điều này càng khiến thu nhập của những người khác giảm sút. Điều này khởi đầu một vòng luẩn quẩn .
Do đó, cơ quan chính phủ bảo vệ rằng nợ dư thừa không được phép tích tụ trong nền kinh tế. Họ làm gì để ngăn ngừa nợ chồng chất ?

  • Đầu tiên, họ theo dõi tỷ lệ lạm phát.
  • Thứ hai, họ tăng lãi suất để giảm lạm phát.

Vì vậy, quay trở lại cuộc bàn luận bắt đầu của tất cả chúng ta về chu kỳ luân hồi nợ thời gian ngắn. Trong # 1.3 ở trên, tất cả chúng ta đã đọc cách tín dụng thanh toán hoàn toàn có thể thôi thúc tiêu tốn và do đó tăng trưởng GDP. Nhưng tiêu tốn dư thừa đẩy lạm phát kinh tế lên cao. Để kiểm soát và điều chỉnh lạm phát kinh tế, Ngân hàng nhà nước tăng lãi suất vay .
Điều gì xảy ra sau khi lãi suất vay tăng ?

# 1.5 TĂNG TRƯỞNG GDP LÀ ÂM (SUY THOÁI)

Suy thoái là gì ? Trong tiến trình chu kỳ luân hồi nợ thời gian ngắn này, nền kinh tế có vận tốc tăng trưởng GDP âm .
Điều gì gây ra suy thoái và khủng hoảng trong nền kinh tế tân tiến ? Chế độ lãi suất vay cao do chính phủ nước nhà gây ra. Tại sao cơ quan chính phủ tăng lãi suất vay ? Để trấn áp lạm phát kinh tế cao .
Điều gì xảy ra do lãi suất vay tăng ? Nợ trở nên đắt hơn, và tiêu tốn công giảm. Chi tiêu ít hơn có nghĩa là, thu nhập cho người khác ít hơn .
Suy thoái sẽ lê dài bao lâu ? Cho đến khi lạm phát kinh tế giảm xuống mức hoàn toàn có thể đồng ý được .
Điều gì sẽ xảy ra khi lạm phát kinh tế được thông thường hóa ? Các ngân hàng nhà nước TW sẽ giảm lãi suất vay một lần nữa, và tín dụng thanh toán sẽ trở nên rẻ hơn. Mọi người sẽ mở màn tiêu tốn nhiều hơn .

Thao tác này sẽ lại bắt đầu chu kỳ mở rộng (quay lại bước # 1.3).

TÂM LÝ CON NGƯỜI

Giai đoạn mở rộng :

Tại sao mọi người có xu hướng hào nhoáng hơn trong giai đoạn mở rộng? Vì những điều sau đây xảy ra xung quanh họ:

  • Thu nhập ngày càng tăng.
  • Nợ dễ dàng có sẵn để vay
  • Họ có thể chi tiêu nhiều hơn.

Người ta tiêu tiền ở đâu ? Mọi người thường tiêu tiền theo hai góc nhìn :

  1. Về tiêu sản (Như ô tô, TV, Tiện ích, kỳ nghỉ, v.v.)
  2. Về tài sản (Như tài sản, cổ phiếu, quỹ tương hỗ, trái phiếu, v.v.)

Sự hào nhoáng (đến mức quá tự tin) len lỏi khi mọi người bắt đầu thu thập tài sản. Nó không phải là mua tài sản mang lại niềm tin. Chính sự gia tăng giá trị tài sản đã tạo ra sự tin tưởng thái quá của mọi người.

Giá trị tài sản tăng mạnh trong giai đoạn mở rộng kinh tế. Những người có tài sản, coi đây là tín hiệu của sự “giàu có”. Ngân hàng cũng bắt đầu cung cấp nhiều khoản vay hơn cho những người như vậy. Tại sao? Bởi vì họ đang lấy những tài sản thổi phồng làm tài sản thế chấp . Điều này dẫn đến tín dụng (nợ) đổ vào nền kinh tế nhiều hơn, đồng nghĩa với việc chi tiêu nhiều hơn.

Chi tiêu nhiều hơn có nghĩa là, thu nhập thậm chí còn nhiều hơn cho người khác ( Ray Dalio nói, ” tiêu tốn của chúng tôi là thu nhập của người khác “ ) .
Đây là nguyên do khiến tâm ý mọi người rất loạn trong tiến trình lan rộng ra .

Giai đoạn suy thoái :

Chính xác là điều ngược lại xảy ra trong quy trình tiến độ suy thoái và khủng hoảng. Mọi người ít nợ hơn, tiêu tốn giảm, giá trị gia tài giảm … vv
Kinh tế - Chu kỳ nợ ngắn hạn - Suy thoái - Tâm lýĐây là cách hoạt động giải trí của các chu kỳ luân hồi nợ thời gian ngắn … hãy kiểm tra sơ đồ trên nó tổng hợp tổng thể những gì tất cả chúng ta đã học ở đây …

PHẦN KẾT LUẬN

Chu kỳ nợ thời gian ngắn hầu hết là do sự sẵn có của nguồn tín dụng thanh toán rẻ hơn .

Khi có tín dụng rẻ hơn , mọi người cảm thấy giàu có hơn. Tại sao? Bởi vì họ có thể chi tiêu nhiều hơn ( mở rộng ).

Vì một người tiêu tốn là thu nhập của những người khác, dân số liên tục tiêu tốn .

Khi mọi người chi tiêu nhiều hơn, ngành công nghiệp, doanh nghiệp và chính phủ cũng thúc đẩy bản thân sản xuất nhiều hàng hóa và dịch vụ hơn ( năng suất được cải thiện ).

Điều này sau cuối dẫn đến vận tốc tăng trưởng GDP của nền kinh tế nhanh hơn .

Khi ít tín dụng hơn , mọi người cảm thấy nghèo hơn. Tại sao? Bởi vì họ có thể chi tiêu ít hơn , đồng thời tài sản của họ cũng bị đánh giá thấp hơn trong thời kỳ này ( suy thoái ).

Khi một người tiêu tốn bằng thu nhập của những người khác, dân số mở màn cắt giảm tiêu tốn của họ trong thời kỳ suy thoái và khủng hoảng .

Khi mọi người mua ít hơn, ngành công nghiệp, doanh nghiệp và chính phủ cũng giảm tốc độ sản xuất hàng hóa và dịch vụ ( năng suất giảm) .

Điều này ở đầu cuối dẫn đến tăng trưởng GDP của nền kinh tế âm .
Cuối cùng, tất cả chúng ta hoàn toàn có thể Tóm lại hai điều từ đây :

  1. Chính vì Tín dụng mà chúng ta có những chu kỳ trong nền kinh tế của mình.
  2. Đó là vì bản chất con người muốn chi tiêu nhiều hơn, chúng ta phải dùng đến nợ.

Các chu kỳ nợ dài ngắn như vậy dẫn đến chu kỳ nợ dài hạn. Trong Phần 3, chúng ta sẽ đọc về chu kỳ nợ dài hạn .

Phần mê hoặc nhất sẽ là nguyên do gây ra chu kỳ luân hồi nợ dài hạn và cách một vương quốc hoàn toàn có thể thoát khỏi chu kỳ luân hồi nợ dài hạn .

Pin

0 Shares

Source: https://vh2.com.vn
Category : Công Nghệ