Networks Business Online Việt Nam & International VH2

Đại nhảy vọt – Wikipedia tiếng Việt

Đăng ngày 11 March, 2023 bởi admin

Đại nhảy vọt (Giản thể:大跃进, Phồn thể:大躍進, bính âm:Dàyuèjìn; âm Hán Việt: đại dược tiến) là tên thường gọi trong sách báo tiếng Việt cho kế hoạch xã hội và kinh tế của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được thực hiện từ năm 1958 đến năm 1962 nhằm mục tiêu sử dụng dân số khổng lồ của Trung Quốc để chuyển tiếp nhanh chóng Trung Quốc đại lục từ một nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp lạc hậu, dựa vào nông dân là chính sang một xã hội công nghiệp cộng sản hiện đại. Mao Trạch Đông đặt điểm tựa của chương trình vào Lý luận sức sản xuất. Đại nhảy vọt ngày nay được đa số mọi người, cả trong và ngoài Trung Quốc, xem như là một chính sách kinh tế thất bại nặng nề. Sự thất bại của kế hoạch này làm đình trệ sản xuất, kết hợp với những thiên tai (lũ lụt, hạn hán, nạn châu chấu…) đã gây ra nạn đói, một con số ước lượng có đến 20 triệu (có thể lên đến 40 triệu) người chết trong nạn đói này đã kéo tụt nền kinh tế non trẻ của Trung Quốc chậm lại hàng chục năm và được nhiều người gọi với cái tên đầy châm biếm Cuộc Cách mạng Đại nhảy lùi. Sách báo tiếng Việt còn có một số cách gọi khác như Bước nhảy lớn, Bước nhảy vọt.

Trong những đại hội đảng vào tháng 3 năm 1960 và tháng 5 năm 1962, những hiệu quả tồi tệ của cuộc Đại nhảy vọt được nghiên cứu và điều tra bởi Đảng Cộng sản Trung Quốc ( CPC ), và Mao đã bị chỉ trích trước đại hội. Những đảng viên hạng sang dung hòa như Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình nhờ vậy giành được nhiều sự ủng hộ, và Mao dần mất đi lời nói, dẫn tới việc ông khởi xướng cuộc cách mạng văn hóa năm 1966 để tái củng cố quyền lực tối cao .

Bối cảnh lịch sử vẻ vang[sửa|sửa mã nguồn]

Vào tháng 10 năm 1949, sau cuộc rút lui của Quốc Dân Đảng ra đảo Đài Loan, Đảng Cộng sản Trung Quốc tuyên bố thành lập Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và tiếp nhận quyền lực quốc gia. Một trong những chính sách đầu tiên và quan trọng nhất là cải cách ruộng đất trong đó đất của địa chủ và những người nông dân giàu có hơn bị ép buộc phân phát lại cho nông dân nghèo hơn. Trong hàng ngũ Đảng, có một cuộc tranh luận lớn về việc cải cách ruộng đất nên phải thực hiện như thế nào và với mức độ nào. Phe ôn hòa gồm có thành viên Bộ chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc Lưu Thiếu Kỳ cho rằng sự thay đổi nên diễn ra từng bước một và rằng bất cứ một sự tập thể hóa nông dân nào cũng nên chờ đợi cho đến khi đã thực hiện xong công nghiệp hóa để có thể cung ứng máy móc nông nghiệp cần thiết cho cơ giới hóa nông nghiệp. Một phe cấp tiến do Mao Trạch Đông lãnh đạo cho rằng cách tốt nhất để tài trợ cho công nghiệp hóa là để Chính phủ nắm giữ nông nghiệp, bằng cách đó sẽ thiết lập độc quyền đối với việc phân phát và cung cấp lúa gạo. Điều này sẽ cho phép chính phủ mua ở giá thấp và bán ở giá cao hơn, từ đó tích lũy vốn cần thiết cho công nghiệp hóa đất nước. Khi nhận ra rằng chính sách này không được quần chúng nông dân ưa chuộng, có người đề nghị là nông dân nên bị ép buộc nằm dưới quyền kiểm soát của chính phủ bằng việc thiết lập các nông trường tập thể, nơi sẽ có ích cho việc chia sẻ dụng cụ và súc vật lao động. Chính sách này dần dần được hối thúc tiến hành giữa năm 1949 và 1958, đầu tiên là thành lập các “đội trợ giúp hỗ tương” (mutual aid teams) gồm từ 5 -15 hộ gia đình, sau đó vào năm 1953 là “hợp tác xã nông nghiệp cơ bản” (elementary agricultural cooperatives) gồm từ 20 – 40 hộ gia đình, rồi từ năm 1956 là các “đại hợp tác xã” (higher co-operatives) gồm từ 100-300 gia đình. Những cải cách này (ngày nay đôi khi được nhắc đến như là “Tiểu nhảy vọt”) thường thì không được người nông dân ưa chuộng và thường được áp đặt bằng cách mời nông dân đến các buổi họp và giữ họ ở đó nhiều ngày và đôi khi nhiều tuần cho đến khi họ “tự nguyện” đồng ý gia nhập tập thể hóa.

Ngoài những thay đổi kinh tế, Đảng đã tiến hành nhiều thay đổi xã hội lớn ở nông thôn bao gồm dẹp bỏ tất cả các cơ sở thuộc về tôn giáo và huyền bí cũng như những lễ nghi và thay thế tất cả bằng các buổi tuyên truyền và hội họp chính trị. Nhiều cố gắng đã được thực hiện để nâng cao giáo dục nông thôn và vị thế của phụ nữ (cho phép phụ nữ quyền xin li dị nếu họ muốn) và chấm dứt phong tục bó chân, tảo hôn và nghiện thuốc phiện. Thẻ thông hành đi lại trong nước được giới thiệu năm 1956 với mục đích cấm di chuyển xa mà không có giấy phép thích hợp. Ưu tiên cao nhất là dành cho giai cấp vô sản thành thị vì họ là đối tượng mà phúc lợi quốc gia được tạo ra.

Giai đoạn đầu của tập thể hóa không là một thành công xuất sắc lớn lao và có nạn đói lan rộng năm 1956, mặc dầu cỗ máy tuyên truyền của Đảng luôn liên tục thông tin có những vụ mùa tăng hiệu suất cao. Những người ôn hòa trong Đảng, gồm có Chu Ân Lai, lôi kéo bãi bỏ tập thể hóa. Lập trường của phe ôn hòa được củng cố bởi bài diễn văn bí hiểm năm 1956 của Nikita Khrushchev đọc tại Đại hội Đảng lần thứ 20, trong đó chỉ trích những sai lầm đáng tiếc của Joseph Stalin và chỉ rõ sự thất bại của các chủ trương nông nghiệp của ông ta gồm có tập thể hóa tại Liên Xô .Vào năm 1957, để giảm bớt căng thẳng mệt mỏi trong hàng ngũ Đảng, Mao đã khuyến khích tự do ngôn luận và phê bình qua Chiến dịch trăm hoa đua nở. Nhiều người tin rằng đây là một mưu đồ khiến những người chỉ trích chính sách, đa phần là các nhà trí thức, nhưng cũng có 1 số ít thành viên của đảng bất mãn với các chủ trương nông nghiệp, tự xuất hiện thêm. [ 1 ] Một số cho là Mao đơn thuần quay sang phe cứng rắn ngay sau khi các chủ trương của ông bị phản đối can đảm và mạnh mẽ, nhưng lời công bố được đưa ra như thế so với lịch sử dân tộc các cuộc tiến công hung tàn và mặc kệ mọi thứ của ông so với những người chỉ trích và đối thủ cạnh tranh của ông cộng thêm tính nổi cáu nổi tiếng thì điều này có vẻ như không thể nào. Khi ông ra tay, có đến tối thiểu nửa triệu người bị bắt giam dưới Chiến dịch chống phe hữu do Đặng Tiểu Bình tổ chức triển khai, khiến bất kỳ sự chống đối nào từ trong Đảng phải tĩnh mịch .Vào năm 1957, vào lúc hoàn thành xong kế hoạch kinh tế tài chính năm năm lần thứ nhất, Mao Trạch Đông mở màn hoài nghi về con đường tiến lên Chủ nghĩa Xã hội mà Liên Xô đã đi liệu có thích hợp cho Trung Quốc hay không. Mao phê phán Khrushchev về việc lật ngược các chủ trương của Chủ nghĩa Stalin, bị báo động bởi các cuộc nổi dậy xảy ra tại Đông Đức, Ba Lan và Hungary, và nhận thức rằng Liên Xô đang tìm kiếm ” chung sống độc lập ” với các thế lực phương Tây. Mao trở nên thêm tin rằng Trung Quốc phải tự chọn con đường riêng của mình để tiến lên Chủ nghĩa Cộng sản .
Bích chương tuyên truyền mục tiêu sản xuất thép. Lời văn nói: “Dĩ cương vi cương, toàn diện dược tiến” (Lấy thép làm mấu chốt, vượt lên trong mọi mặt).

Đại nhảy vọt là tên đặt cho Kế hoạch Năm năm lần thứ hai dự trù kéo dài từ 1958-1963. Mao tiết lộ Đại nhảy vọt tại một cuộc họp vào tháng 1 năm 1958 tại Nam Kinh. Ý tưởng trung tâm đằng sau Đại nhảy vọt là sự phát triển nhanh của nền công nghiệp và nông nghiệp Trung Quốc nên được diễn ra song song. Họ hy vọng thực hiện công nghiệp hóa bằng cách lợi dụng nguồn cung ứng lao động giá rẻ khổng lồ và tránh phải nhập cảng các thiết bị, máy móc nặng. Để đạt được điều này, Mao chủ trương một vòng tập thể hóa sâu rộng hơn dựa theo mô hình “Thời kỳ thứ 3” của Liên Xô là cần thiết trong nông thôn Trung Quốc nơi các hợp tác xã hiện hữu sẽ được nhập vào thành các Công xã nhân dân (People’s communes) khổng lồ. Một công xã thí điểm được thiết lập tại Chayashan trong tỉnh Hà Nam tháng 4 năm 1958. Tại đây, lần đầu tiên, đất tư hữu bị xóa bỏ hoàn toàn và các nhà bếp công xã được giới thiệu. Tại các cuộc họp của Bộ chính trị vào tháng 8 năm 1958, quyết định được đưa ra là những công xã nhân dân này sẽ trở thành hình thức tổ chức chính trị và kinh tế mới khắp các vùng nông thôn Trung Quốc. Vào cuối năm, khoảng 25.000 công xã được lập lên, mỗi công xã có trung bình 5.000 hộ gia đình. Ở các công xã tự cung tự cấp này, lương và tiền được thay thế bằng công điểm (work points). Ngoài nông nghiệp, chúng kết hợp một vài dự án xây dựng và công nghiệp nhẹ.

Mao cho rằng sản xuất lúa gạo và thép như thể cột trụ chính của tăng trưởng kinh tế tài chính. Ông tiên đoán rằng trong vòng 15 năm kể từ Đại nhảy vọt, sản lượng thép của Trung Quốc sẽ vượt qua sản lượng thép của Vương quốc Anh. Trong các cuộc họp Bộ chính trị vào tháng 8 năm 1958, quyết định hành động được đưa ra là sản xuất thép được ấn định tăng gấp đôi trong năm, đa phần sản lượng ngày càng tăng tới từ các lò nung thép sân vườn. Mao được Bí thư tỉnh An Huy cho xem một thí dụ về một lò nung thép sân vườn ở Hợp Phì vào tháng 9 năm 1958. Lò nung này được cho là đang sản xuất thép chất lượng cao ( mặc dầu trong thực tiễn thì thép tinh luyện này đã được sản xuất ở nơi khác ). Mao khuyến khích việc thiết lập các lò nung thép sân vườn loại nhỏ tại mỗi xã và tại mỗi thành phố. Nỗ lực khổng lồ từ nông dân và các công nhân khác được đưa vào để sản xuất thép từ sắt vụn. Để phân phối nguyên vật liệu đốt cho các lò nung, cây rừng bị chặt bừa bãi, gây thiệt hại lớn cho thiên nhiên và môi trường vạn vật thiên nhiên của địa phương. Tình trạng phá cửa nhà và bàn và ghế đồ vật để lấy củi đốt lò nung cũng xảy ra khắp nơi. Nồi, xoong, chảo, và các thứ đồ vật sắt kẽm kim loại khác được trưng dụng để phân phối ” sắt vụn ” cho các lò nung để hoàn toàn có thể đạt được tiềm năng sản xuất. Nhiều nam lao động nông nghiệp bị thuyên chuyển từ thu hoạch mùa màng sang giúp sản xuất thép cũng giống như các công nhân ở nhiều nhà máy sản xuất, trường học và thậm chí còn cả bệnh viện. Đối với những ai có chút kinh nghiệm tay nghề về sản xuất thép hoặc có hiểu biết cơ bản về luyện kim thì cũng hoàn toàn có thể đoán ra được rằng mẫu sản phẩm từ các lò nung này là những đống sắt nguyên vật liệu phẩm chất thấp và chẳng có chút giá trị gì về kinh tế tài chính. Tuy nhiên, chính sự nghi ngại sâu đậm của Mao so với giới tri thức, và niềm tin vào sức mạnh kêu gọi khổng lồ của giới nông dân đã khiến ông ra lệnh thực thi nỗ lực khổng lồ này trên toàn nước mà không cần hỏi quan điểm của các chuyên viên. Nỗ lực lớn được triển khai trong suốt Đại nhảy vọt trên khoanh vùng phạm vi rộng như các dự án Bất Động Sản xây đắp cơ bản thường được hoạch định cẩu thả, ví dụ như các khu công trình thủy lợi, thường được xây mà chẳng hỏi ý từ các kỹ sư được đào tạo và giảng dạy. Hơn nữa, kinh nghiệm tay nghề của các những tầng lớp tri thức theo sau Chiến dịch trăm hoa đua nở đã khiến những ai biết được kế hoạch như thế là một chuyện điên rồ cũng chẳng dám lên tiếng chỉ trích. Theo bác sĩ riêng của ông là Lý Chí Tuy, Mao và đoàn tùy tùng đến viếng thăm khu sản xuất thép truyền thống lịch sử tại Mãn Châu tháng 1 năm 1959 và khi đó ông mới biết được là thép chất lượng cao chỉ hoàn toàn có thể sản xuất tại các xí nghiệp sản xuất quy mô lớn, sử dụng nhiêu liệu đáng an toàn và đáng tin cậy như than đá. Tuy nhiên, ông quyết định hành động không ra lệnh ngưng các lò nung thép sân vườn vì không muốn dập tắt nhiệt tâm cách mạng của quần chúng. Chương trình chỉ được bãi bỏ một cách lặng lẽ nhiều tháng sau đó .Tại các công xã, một số ít ý tưởng sáng tạo nông nghiệp gây tranh cãi được đề bạt theo mệnh lệnh của Mao. Nhiều ý tưởng sáng tạo trong số này dựa theo sáng tạo độc đáo của nhà sinh vật học Liên Xô là Trofim Lysenko và những người theo chân ông. Các chủ trương gồm có việc trồng trọt trong đó hạt giống được gieo với tỷ lệ dày hơn thông thường với nhận định và đánh giá sai lầm đáng tiếc là các hạt giống cùng loại sẽ không cạnh tranh đối đầu đất sống với nhau. Cày sâu được khuyến khích vì niềm tin sai lầm đáng tiếc điều này sẽ cho cây xanh có thêm mạng lưới hệ thống rễ lớn hơn. Thậm chí tai hại hơn là có quan điểm cho rằng một phần đất trồng nên bỏ phí .Tác động khởi đầu của Đại nhảy vọt đã được bàn luận tại Hội nghị Lư Sơn vào tháng 7/8 năm 1959. Mặc dù nhiều người trong số các lãnh đạo ôn hòa hơn có giữ các điều kiện kèm theo hạn chế so với chủ trương mới, người chỉ huy hạng sang duy nhất công khai minh bạch nói thẳng là nguyên soái Bành Đức Hoài. Mao dùng hội nghị để gạt bỏ Bành ra khỏi chiếc ghế Bộ trưởng Quốc phòng của ông và lên án cả Bành ( người xuất thân từ một mái ấm gia đình nông dân ) và các người ủng hộ ông như những người tư sản và mở chiến dịch toàn nước chống ” chủ nghĩa thời cơ hữu khuynh “. Bành bị Lâm Bưu thay thế và Lâm Bưu mở màn một cuộc thanh trừng có mạng lưới hệ thống những người ủng hộ Bành ra khỏi quân đội .
Chính sách kinh tế tài chính sai lầm đáng tiếc đã đưa đến nạn đói lớn. Mặc dù có những sáng tạo độc đáo nông nghiệp tai hại nhưng thời tiết năm 1958 rất thuận tiện và mùa thu hoạch rất hứa hẹn được mùa. Không may là rất nhiều lao động đã chuyển qua sản xuất thép và các dự án Bất Động Sản thiết kế xây dựng, có nghĩa là nhiều vụ mùa bị bỏ hư không thu hoạch tại một số ít nơi. Một nguyên do khác là tác dụng của Chiến dịch diệt chim sẻ. Mặc dù các vụ mùa thu hoạch giảm sút, các quan chức địa phương, dưới áp lực đè nén kinh điển của cơ quan chính phủ TW báo cáo giải trình các vụ mùa thu hoạch kỷ lục ứng với các sáng tạo độc đáo mới, đã tranh nhau báo cáo giải trình với hiệu quả bị thổi phồng. Các số lượng này được dùng để tính số lượng lúa gạo mà nhà nước lấy để cung ứng cho thành thị và xuất khẩu. Việc các số lượng độc lạ quá lớn giữa báo cáo giải trình và trong thực tiễn khiến cho nhiều nông dân không còn đủ lương thực nuôi sống mình và mái ấm gia đình, và ở 1 số ít nơi, nạn đói mở màn xảy ra. Trong những năm 1958 – 1960, Trung Quốc vẫn liên tục là nước xuất khẩu lúa gạo đáng kể mặc dầu việc nạn đói lan rộng chỉ được biết đến ở nông thôn vì Mao muốn giữ thể diện và thuyết phục quốc tế bên ngoài về sự thành công xuất sắc của những kế hoạch của ông .

Các sách niên giám của Encyclopaedia Britannica cho các năm từ 1958 đến 1962 có nhắc đến thời tiết bất thường như sau: Các vụ hạn hán xảy ra sau các vụ lụt lội. Tuy nhiên, tất cả các dữ liệu thời tiết cho sách niên giám của Encyclopaedia Britannica là từ nguồn của chính phủ Trung Quốc.

Vào năm 1959 và 1960, thời tiết ít thuận lợi hơn và tình hình trở nên khá nghiêm trọng, với nhiều tỉnh của Trung Quốc gặp phải nạn đói trầm trọng. Khô hạn, lụt lội, và thời tiết xấu làm cho Trung Quốc hoàn toàn trở tay không kịp. Sông Hoàng Hà gây lụt miền Đông Trung Quốc vào tháng 7 năm 1959. Theo Trung tâm Thảm họa (Disaster Center),[2] ước tính khoảng 2 triệu người vì đói và chết đuối do nạn lụt đó.

Vào năm 1960, ảnh hưởng tác động của hạn hán và các điều kiện kèm theo thời tiết xấu khác đã làm tác động ảnh hưởng đến 55 Tỷ Lệ đất canh tác. Khoảng 60 % đất nông nghiệp ở miền bắc không có một chút ít mưa nào. [ 3 ]Với hiệu suất giảm kỷ lục, thậm chí còn các khu vực thành thị cũng phải chịu sự cắt giảm khẩu phần lương thực rất nhiều ; tuy nhiên, nạn đói hàng loạt phần đông chỉ tập trung chuyên sâu ở nông thôn, nơi các số lượng thống kê sản xuất bị thổi phồng kinh khủng. Kết quả là chỉ có rất ít lúa gạo còn lại cho nông dân. Sự thiếu lương thực xảy ra tồi tệ khắp quốc gia ; tuy nhiên, các tỉnh nào mà vận dụng cải cách của Mao triệt để nhất, ví dụ như An Huy, Cam Túc, Hà Nam, thường chịu thiệt hại nhiều hơn. Tứ Xuyên, một trong những tỉnh đông dân nhất của Trung Quốc và được biết đến tại Trung Quốc như ” vựa thóc của trời ” vì sự phì nhiêu của nó, được cho rằng là nơi có số lượng người chết lớn nhất vì nạn đói do sự hăng say của người chỉ huy tỉnh thực thi những cải cách của Mao .Các chủ trương nông nghiệp của Đại nhảy vọt vẫn liên tục cho đến tháng 1 năm 1961, tại phiên họp toàn thể của Ủy ban Trung ương lần thứ 9, việc hồi sinh sản xuất nông nghiệp bằng việc lật ngược các chủ trương của Đại nhảy vọt được mở màn. Xuất khẩu lúa gạo ngưng lại và những lần nhập khẩu từ Canada và Úc giúp giảm tác động ảnh hưởng của việc thiếu lương thực, tối thiểu là tại các thành phố duyên hải .
Bích chương tuyên truyền của Đại nhảy vọt. Lời văn nói: “Tổng lộ tuyến vạn tuế, đại dược tiến vạn tuế, nhân dân công xã vạn tuế” (Đường hướng chung muôn năm, Đại nhảy vọt muôn năm, công xã nhân dân muôn năm)

Đại nhảy vọt ngày nay được đa số mọi người, cả trong và ngoài Trung Quốc, xem như là một đại thảm họa kinh tế, thực sự đúng là một “Đại Nhảy Lùi” (Great Leap Backward) mà ảnh hưởng đến Trung Quốc trong nhiều năm sau đó. Khi các con số thống kê bị thổi phồng tới tay giới chức đặc trách kế hoạch, mệnh lệnh được ban ra là phải chuyển nguồn nhân lực lao động vào công nghiệp hơn là nông nghiệp. Con số người chết vượt bậc chính thức được ghi nhận tại Trung Quốc trong những năm của Đại nhảy vọt là 14 triệu, nhưng các học giả ước tính rằng con số nạn nhân chết đói là từ 20 đến 43 triệu.[4] Ba năm từ năm 1959 đến năm 1962 được biết như là “Ba năm Ác nghiệt” (Three Bitter Years) và Ba năm Thiên tai. Nhiều quan chức địa phương bị truy tố và hành quyết công khai vì đưa ra thông tin sai lệch.[5]

Vào đầu thập niên 1980, những người chỉ trích về Đại nhảy vọt tiếp tục đưa ra nhiều số liệu về thiệt hại nhân mạng. Nhân viên Chính phủ Hoa Kỳ là Judith Banister ra một bài viết gây nhiều ảnh hưởng trong tạp chí China Quarterly (tạp chí chuyên về Trung Quốc và Đài Loan, do Đại học Cambridge phát hành), và kể từ đó việc ước tính con số người chết lên đến 30 triệu trong Đại nhảy vọt đã trở nên phổ biến trong giới truyền thông Hoa Kỳ.

Trong thời kỳ Đại nhảy vọt, kinh tế tài chính của Trung Quốc khởi đầu tăng. Sản xuất sắt tăng 45 % năm 1958 và số lượng tăng chung của hai năm tiếp nối là 30 %, nhưng lao xuống vực thẳm vào năm 1961, và không đạt được mức độ của năm 1958 trước đó cho đến năm 1964 .Mặc dù đương đầu với những rủi ro tiềm ẩn đánh mất sự nghiệp của họ, 1 số ít đảng viên cộng sản công khai minh bạch đổ lỗi thảm họa này là do giới chỉ huy Đảng gây ra và cho rằng đấy là vật chứng Trung Quốc cần phải dựa nhiều vào giáo dục, tích góp thành thạo kỹ thuật và vận dụng các phương pháp tư sản trong việc tăng trưởng kinh tế tài chính. Trong một bài diễn văn của Lưu Thiếu Kỳ trước 3.000 người trong Đại hội Đại biểu Nhân dân năm 1962, ông chỉ trích rằng ” thảm họa kinh tế tài chính có 30 % lỗi do tự nhiên, 70 % là do con người “. [ 6 ] Đây là nguyên do chính cho sự đàn áp chống đối mà Mao đã tung ra trong cuộc Cách mạng Văn hóa đầu năm 1966 .Mao tự rời chức vụ quản trị Cộng hòa Nhân dân Nước Trung Hoa năm 1959 vì tiên đoán rằng ông sẽ lãnh trọn sự đổ lỗi cho sự thất bại của Đại nhảy vọt. Tuy nhiên, ông vẫn giữ chức quản trị Đảng Cộng sản Trung Quốc. Lưu Thiếu Kỳ ( quản trị mới của CHND Trung Quốc ) và Đặng Tiểu Bình ( Tổng bí thư Trung ương Đảng ) được giao quyền thực thi các chiêu thức hồi sinh nền kinh tế tài chính. Hơn nữa, chủ trương Đại nhảy vọt của Mao đã bị chỉ trích công khai minh bạch tại một đại hội đảng ở Lư Sơn tỉnh Giang Tây. Cuộc tiến công là do Bộ trưởng Quốc phòng Bành Đức Hoài dữ thế chủ động. Bành trở nên tức bực bởi tác động ảnh hưởng bất lợi tiềm tàng mà các chủ trương của Mao đã gây ra cho việc hiện đại hóa các lực lượng vũ trang. Bành cho rằng ” để cho chính trị chỉ huy ” thì không sửa chữa thay thế được chủ trương và luật lệ kinh tế tài chính ; nhiều chỉ huy đảng không nêu danh cũng bị khiển trách là cố ” nhảy một cú vào chủ nghĩa cộng sản “. Sau cuộc thử thách tại Lư Sơn, Bành Đức Hoài, bị cho là được Nikita Khrushchev xúi giục chống Mao, bị phế truất. Bành được sửa chữa thay thế bởi Lâm Bưu, một người theo chủ nghĩa thời cơ cấp tiến và theo chủ nghĩa Mao .

Ngoài ra, sự mất mát này trong chế độ của Mao có nghĩa rằng Mao trở thành một “tổ tiên khuất núi” (dead ancestor) như Mao tự dán nhãn cho mình: Một người được kính trọng nhưng không bao giờ được hỏi ý kiến, nắm giữ hậu trường chính trị của Đảng. Hơn nữa, ông cũng không xuất hiện trước công chúng. Ông hối tiếc điều này và về sau tái phát động phong trào sùng bái cá nhân bằng việc lội trên sông Dương Tử.

Về chủ trương ruộng đất, các thất bại trong việc đáp ứng thực phẩm trong Đại nhảy vọt đã dẫn đến việc dần vô hiệu tập thể hóa trong thập niên 1960. Nó báo hiệu cho các cuộc xóa bỏ tập thể hóa xa hơn nữa dưới thời Đặng Tiểu Bình. Nhà khoa học chính trị Meredith Woo-Cumings cho rằng : ” Chắc chắn là chính sách này đã không phản ứng kịp thời để cứu mạng sống của hàng triệu nông dân, nhưng khi nó phản ứng, sau cuối cũng quy đổi được kế sinh nhai của hàng trăm triệu nông dân ( một cách nhã nhặn vào đầu thập niên 1960, nhưng lâu bền sau các cải cách của Đặng Tiểu Bình đến sau năm 1978 ) “. [ 7 ] [ 8 ]Sau cái chết của Mao và sự khởi đầu của công cuộc Cải cách kinh tế tài chính Trung Quốc dưới thời Đặng Tiểu Bình, khuynh hướng trong chính phủ nước nhà Trung Quốc là sự nhìn nhận Đại nhảy vọt như một đại thảm họa kinh tế tài chính và quy lỗi của nó là do sự sùng bái cá thể dưới thời Mao Trạch Đông, và xem nó như một trong các lỗi lầm nghiêm trọng mà Mao đã gây ra sau khi xây dựng Cộng hòa Nhân dân Nước Trung Hoa .

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]

Source: https://vh2.com.vn
Category : Công Cộng