Networks Business Online Việt Nam & International VH2

Đại Cách mạng Văn hóa vô sản – Wikipedia tiếng Việt

Đăng ngày 09 March, 2023 bởi admin

Đại Cách mạng Văn hóa Giai cấp Vô sản (giản thể: 无产阶级文化大革命; phồn thể: 無產階級文化大革命; Hán-Việt: Vô sản Giai cấp Văn hóa Đại Cách mạng; bính âm: Wúchǎn Jiējí Wénhuà Dà Gémìng; thường gọi tắt là Đại Cách mạng Văn hóa 文化大革命 wénhuà dà gémìng, hay vắn tắt hơn là Văn cách 文革, wéngé) là một phong trào chính trị xã hội tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa diễn ra trong 10 năm từ tháng 5 năm 1966 tới tháng 10 năm 1976, gây tác động rộng lớn và sâu sắc lên mọi mặt của cuộc sống chính trị, văn hóa, xã hội ở Trung Quốc đại lục. Ngoài ra, cuộc cách mạng này đã làm thay đổi quan niệm xã hội, chính trị, và đạo đức của quốc gia này một cách sâu sắc và toàn diện. Tuy nhiên, phong trào này cũng gây ra những vụ bạo động, sự hỗn loạn và tổn thất lớn, nên nó cũng được gọi là “10 năm hỗn loạn”, “10 năm thảm họa” (tiếng Trung: 十年动乱, 十年浩劫; Hán-Việt: Thập niên động loạn, thập niên hạo kiếp)

Cuộc cách mạng này được Mao Trạch Đông khởi xướng và lãnh đạo từ ngày 16 tháng 5 năm 1966, với mục tiêu chính thức là “đấu tranh với giai cấp tư sản trong lĩnh vực tư tưởng và sử dụng những tư tưởng và lề thói mới của giai cấp vô sản để thay đổi diện mạo tinh thần của toàn bộ xã hội“. Tuy nhiên, mục đích chính của cách mạng này được một số người cho là một cách để Mao Trạch Đông lấy lại quyền kiểm soát Đảng Cộng sản Trung Quốc sau cuộc Đại nhảy vọt bị thất bại dẫn đến sự tổn thất uy tín đáng kể của Mao Trạch Đông trước những lãnh đạo bất đồng ý kiến như Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình, Bành Đức Hoài,…

Mao tuyên bố rằng “các phần tử tư sản đã xâm nhập vào chính phủ và xã hội”, chúng đang có âm mưu “khôi phục chủ nghĩa tư bản”. Lâm Bưu, người đứng đầu Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc, đã được công nhận trong hiến pháp là người kế vị của Mao sau khi Mao qua đời; Lâm Bưu biên soạn cuốn sách Hồng bảo thư, tuyển tập những câu nói của Mao, cuốn sách này trở thành một văn bản mang tính thiêng liêng, gần giống như một cuốn kinh thánh phục vụ cho sự sùng bái cá nhân Mao Trạch Đông. Để tiêu diệt các thành phần chống đối trong Đảng Cộng sản Trung Quốc cũng như trong các trường học, nhà máy và các tổ chức chính phủ, Mao nhấn mạnh rằng những người theo chủ nghĩa xét lại cần phải bị loại bỏ thông qua đấu tranh giai cấp bạo lực. Giới trẻ Trung Quốc hưởng ứng chủ trương này bằng việc thành lập các nhóm Hồng vệ binh trên khắp đất nước. Các trường trung học và đại học đã bị đóng cửa. Các công nhân đô thị cũng chia thành các phe phái, và quân Giải phóng được huy động để khôi phục trật tự. Nhiều quan chức cấp cao, đáng chú ý nhất là Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình, đã bị bắt giam hoặc bị lưu đày. Hàng triệu người bị buộc tội là “phần tử cánh hữu”, họ bị bức hại hoặc chịu sự sỉ nhục công khai, bị cầm tù, bị tra tấn, phải chịu lao động khổ sai, bị tịch thu tài sản và thậm chí bị xử tử hoặc bị ép phải tự tử. Nhiều thanh niên trí thức thành thị đã bị gửi đến các vùng nông thôn trong cái gọi là phong trào Tiến về Nông thôn. Hồng vệ binh đã phá hủy rất nhiều các di tích và hiện vật lịch sử có giá trị, nhiều địa điểm văn hóa và tôn giáo cũng bị lục soát.

Dù Mao Trạch Đông tự công bố chính thức là Văn cách kết thúc năm 1969, nhưng ngày này người ta vẫn cho rằng cuộc cách mạng này còn gồm có cả quy trình tiến độ từ 1969 đến 1976. Lâm Bưu đã bỏ trốn và chết trong một vụ tai nạn thương tâm máy bay vào năm 1971, ông bị cáo buộc là có thủ đoạn lật đổ Mao. Sau cái chết của Mao và sự kiện bắt giữ các thành viên của nhóm Tứ nhân bang là ( Giang Thanh, Trương Xuân Kiều, Vương Hồng Văn và Diêu Văn Nguyên ) vào năm 1976, Đặng Tiểu Bình từ từ dỡ bỏ các chủ trương của Cách mạng Văn hóa. Năm 1981, Đảng Cộng sản Trung Quốc công bố rằng Cách mạng Văn hóa là một ” thất bại nặng nề nhất và tổn thất nặng nề nhất mà Đảng, nhà nước và nhân dân phải gánh chịu kể từ khi xây dựng nước Cộng hòa Nhân dân “. [ 1 ]. Tổng cộng 1,5 đến 1,8 triệu người Trung Quốc bị giết, tự sát hay chịu thương tật trong quy trình tiến độ này, khoảng chừng 20 triệu người bị đưa về nông thôn lao động cưỡng bức trong nhiều năm. Khoảng 200 triệu người bị thiếu ăn tiếp tục. [ 2 ]

Sau khi Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được thành lập, Mao Trạch Đông muốn áp dụng mô hình của Stalin để xây dựng đất nước. Mao Trạch Đông tin rằng mô hình của Stalin là phương thức tiến hành cải tạo chủ nghĩa cộng sản tại Trung Quốc. Dưới thời kỳ Khrushchev lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô bắt đầu phủ nhận mô hình của Stalin, còn được gọi chủ nghĩa xét lại. Mao Trạch Đông chống lại chủ nghĩa hữu khuynh, mở rộng đấu tranh giai cấp, bác bỏ chủ nghĩa xét lại về Stalin. Đảng Cộng sản Trung Quốc đưa ra quan điểm Mao Trạch Đông phát động Đại Cách mạng Văn hóa để bắt đầu ngăn chặn chủ nghĩa tư bản phục hồi, duy trì Đảng trong sạch và tìm con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội bằng chính mình. Trong Đảng, Mao Trạch Đông chỉ trích đối lập, Chủ tịch nước Lưu Thiếu Kỳ, Tổng Bí thư Đặng Tiểu Bình và chính sách khác là “sai lầm”, mâu thuẫn giữa Lưu Thiếu Kỳ và Mao Trạch Đông gia tăng, về con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình đưa ra quan điểm trái ngược với Mao Trạch Đông, để phát triển quan điểm của mình họ đã lập các nhóm nhỏ mà không cần thông báo trước với Mao Trạch Đông. Chính trong thời điểm này, Ủy ban Trung ương Đảng và Mao Trạch Đông đề xuất chủ nghĩa sửa đổi, Đảng và Nhà nước đang đối mặt với chủ nghĩa tư bản phục hồi hết sức nguy hiểm, vài năm trước tại nông thôn thực hiện chính sách “bốn sạch” (tiếng Trung: 四清, tứ thanh), và tại thành thị là “năm diệt” (tiếng Trung: 五反, ngũ phiên) và thể hiện sự phê phán các tư tưởng, vận động quần chúng ra sức đấu tranh bảo vệ Đảng và Nhà nước.

Phong trào bốn sạch[sửa|sửa mã nguồn]

Năm 1956, Đại hội Đảng lần thứ 20 Đảng Cộng sản Liên Xô chỉ trích Stalin, Mao Trạch Đông phản đối đưa ra quan điểm trái chiều. Tháng 4/1959, tại Hội nghị Trung ương 7 khóa VIII Đảng Cộng sản Trung Quốc, Mao Trạch Đông đưa ra quan điểm, nhấn mạnh vấn đề sức mạnh được tập trung chuyên sâu vào Ủy ban Thường vụ Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương do ông chỉ huy. Ngày 2/7/1959, Hội nghị Bộ Chính trị lan rộng ra và Hội nghị Trung ương 8 khóa VIII họp tại Lư Sơn, tại Hội nghị này đã đưa ra quan điểm ” đánh đổ tập đoàn lớn phản động Bành ” và ” bảo vệ con đường đúng đắn của Đảng, đập tan chủ nghĩa thời cơ xét lại “. Hội nghị Lư Sơn bắt đầu dự tính khắc phục sai lầm đáng tiếc cực ” tả ” có tính thuyết phục Open trong Đại nhảy vọt năm 1958, nhưng yêu cầu không được đồng ý chấp thuận trong cuộc họp. Ngày 14/7, Bộ trưởng Quốc phòng Bành Đức Hoài gửi thư cho Mao Trạch Đông ” Thư gửi quản trị tìm hiểu thêm “, chỉ trích Mao Trạch Đông rằng Đại nhảy vọt là ” đặc thù cuồng tín của giai cấp tiểu tư sản ” và ” cần phải ngăn ngừa sự nguy hại của chủ nghĩa Stalin “. Những lời chỉ trích của Bành Đức Hoài tựa như như những lời lẽ của Khrushchev, Bí thư thứ nhất Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô cách đây một năm, khi mối quan hệ Trung – Xô sụp đổ. Sau khi Mao Trạch Đông nhận được bức thư đã phân phát trong cuộc tranh luận, Hoàng Khắc Thành, Trương Văn Thiên, Chu Tiểu Chu và nhiều người khác chấp thuận đồng ý. Ngày 23/7, Mao Trạch Đông, người chưa khi nào bày tỏ quan điểm của mình, xem xét khuynh hướng áp đảo trong đảng để khẳng định chắc chắn quan điểm ​ ​ của Bành Đức Hoài rằng lá thư cho thấy ” sự rung chuyển của giai cấp tư sản ” và tiến công vào đảng. Mao Trạch Đông tức giận với Bành Đức Hoài : ” Ông đang chống lại Trung ương, bức thư đã phân phát, để quần chúng đấu tranh, tổ chức triển khai lực lượng, thiết lập lại Đảng và quốc tế theo khuôn khổ của ông “. Ngày 2/8, Mao Trạch Đông đã phát biểu và kêu gọi để phản đối ” cuộc tiến công lan rộng của chủ nghĩa thời cơ “. Ông công bố rõ ràng rằng không còn là yếu tố chống lại ” cực tả ” nữa. Bắt đầu từ ngày hôm sau, mỗi nhóm khởi đầu chỉ trích Bành Đức Hoài, Hoàng Khắc Thành, Trương Văn Thiên, Chu Tiểu Chu tương ứng .

Đại nhảy vọt[sửa|sửa mã nguồn]

Năm 1958, sau kế hoạch Năm năm lần thứ nhất, Mao Trạch Đông kêu gọi phát triển một “chủ nghĩa xã hội triệt để” trong nỗ lực đưa đất nước sang xã hội cộng sản tự cung tự cấp. Để đạt được mục tiêu này, Mao khởi xướng kế hoạch Đại nhảy vọt, thiết lập các “Xã Nhân dân đặc biệt” (thường gọi là Công xã nhân dân) ở nông thôn thông qua việc sử dụng lao động tập thể và vận động quần chúng. Nhiều cộng đồng dân cư đã được huy động để sản xuất một mặt hàng duy nhất-đó là thép. Và Mao Trạch Đông tuyên bố sẽ tăng sản lượng nông nghiệp lên gấp đôi mức năm 1957. Nhưng trên thực tế,sản lượng nông nghiệp thời kì đó của Trung Quốc còn không bằng thời vua Càn Long và thời nhà Thanh.[cần dẫn nguồn]

Cuộc Đại nhảy vọt là một thất bại về kinh tế tài chính. Các ngành công nghiệp rơi vào thực trạng không ổn định vì nông dân sản xuất quá nhiều thép chất lượng thấp trong khi các ngành khác bị bỏ rơi. Hơn nữa, những người nông dân không qua huấn luyện và đào tạo và được trang bị nghèo nàn để sản xuất thép, phần nhiều dựa vào khu vực sân sau nhà để đạt chỉ tiêu sản xuất thép do các quan chức địa phương đặt ra. Trong khi đó, các công cụ nhà nông chính bị nấu chảy để làm thép khiến quy mô sản xuất nông nghiệp bị thu nhỏ. Điều này dẫn đến sự sụt giảm sản lượng của phần nhiều các loại sản phẩm ngoại trừ gang và thép không đạt tiêu chuẩn chất lượng. Tồi tệ hơn nữa, để tránh bị phạt, chính quyền sở tại địa phương tiếp tục phóng đại các số lượng và che giấu khiến cho yếu tố thêm trầm trọng trong nhiều năm [ 3 ] .Hầu như chưa phục sinh từ nhiều thập kỷ cuộc chiến tranh, nền kinh tế tài chính Trung Quốc thêm một lần nữa rơi vào khủng hoảng cục bộ. Năm 1958, Đảng Cộng sản Trung Quốc bắt buộc phải thừa nhận rằng những số liệu thống kê sản xuất đã bị phóng đại. Ngoài ra, phần nhiều lượng thép sản xuất ra không tinh khiết và vô ích. Trong khi đó, sự hỗn loạn trong các khu sản xuất tập thể, thời tiết xấu và việc xuất khẩu lương thực nhằm mục đích bảo vệ bảo mật an ninh lương thực đã dẫn đến một trận đói kém cực lớn. Thực phẩm trong thực trạng rất là khan hiếm và sản xuất giảm đáng kể. Theo nhiều nguồn khác nhau, số người chết do nạn đói này gây ra ước tính 20 đến 30 triệu người [ 4 ] .Sự thất bại của cuộc Đại nhảy vọt có ảnh hưởng tác động lớn lên uy tín của Mao Trạch Đông bên trong Đảng. Năm 1959, ông ta từ chức quản trị nhà nước, và sau đó Lưu Thiếu Kỳ lên thay. Tháng 7 năm 1959, những người chỉ huy cấp cao của Đảng triệu tập tại Lư Sơn để đàm đạo về các quyết sách của Đảng, nhất là các tác động ảnh hưởng của cuộc Đại nhảy vọt. Tại hội nghị, nguyên soái Bành Đức Hoài, khi đó là Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc, đã chỉ trích chủ trương của Mao Trạch Đông trong cuộc Đại nhảy vọt là đã quản trị kém và đi ngược lại các quy luật kinh tế tài chính. [ 3 ] .Trong lúc Hội nghị Lư Sơn đóng vai trò như một hồi chuông báo tử cho nguyên soái Bành, cũng là nhà phê bình lớn tiếng nhất của Mao, điều này đã dẫn đến một sự chuyển giao quyền lực tối cao vào tay những người thuộc phái ôn hòa đứng đầu là Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình, những người nắm quyền trấn áp cơ quan chính phủ [ 3 ]. Sau Hội nghị, Mao Trạch Đông đã tìm cách tước bỏ các chức vụ chính thức của Bành Đức Hoài và buộc tội ông ta là kẻ ” thời cơ cánh hữu “. Bành Đức Hoài bị thay bởi Lâm Bưu, một vị tướng khác trong lực lượng quân cách mạng và sau này là người đóng vai trò chủ yếu trong việc triển khai các chủ trương của Chủ nghĩa Mao Trạch Đông .

Xung đột giữa Lưu Thiếu Kỳ và Mao Trạch Đông[sửa|sửa mã nguồn]

Vào đầu những năm 1960, mặc dầu Mao Trạch Đông vẫn còn giữ chức quản trị Đảng, nghĩa vụ và trách nhiệm chính trong sự thất bại của cuộc Đại nhảy vọt đã buộc ông ta phải giam mình khỏi những yếu tố thường nhật của nhà nước và cơ quan chính phủ. Nhiều chủ trương Đại nhảy vọt của ông ta bị đảo ngược, các ảnh hưởng tác động xấu đi của chúng giảm nhẹ và từ từ biến mất. Trong số những cải cách của Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình thì việc xóa bỏ phần nào thực trạng sản xuất tập thể được xem là thực dụng và hiệu suất cao hơn. Trong suốt quy trình này, Lưu Thiếu Kỳ đặt ra cụm từ nổi tiếng, ” Mua tốt hơn tự sản xuất, và cho thuê tốt hơn so với đi mua “. Điều này đã mở ra một biên giới mới trong kinh tế tài chính Trung Quốc và trái chiều với kim chỉ nan ” tự cung tự túc tự cấp ” của Mao Trạch Đông .Những chủ trương kinh tế tài chính thành công xuất sắc của Lưu Thiếu Kỳ đã lôi cuốn sự ủng hộ từ bên trong Đảng. Cùng với Đặng Tiểu Bình, Kỳ có vẻ như muốn trục xuất Mao Trạch Đông ra khỏi cỗ máy quyền lực tối cao nhưng vẫn giữ ông ta trong vai trò hình tượng vương quốc. Đáp lại, Mao Trạch Đông đã khởi xướng Phong trào Giáo dục đào tạo Xã hội Chủ nghĩa vào năm 1962 để lấy lại nền tảng chính trị của mình. Mục tiêu chính của trào lưu là Phục hồi lòng nhiệt thành cách mạng của các đảng viên và quần chúng. Đáng chú ý quan tâm hơn, trào lưu này còn tập trung chuyên sâu vào cải cách mạng lưới hệ thống giáo dục tiểu học và trung học. Một trong những góc nhìn điển hình nổi bật nhất của nó là sự tích hợp của đơn vị chức năng hành chính xã và lao động nhà máy sản xuất vào giáo dục. Phong trào đã đạt được tác dụng là đưa chủ nghĩa Mao vào giới trẻ Trung Quốc .Năm 1963, Mao Trạch Đông mở màn công kích Lưu Thiếu Kỳ công khai hơn. Ông ta công bố rằng đấu tranh giai cấp vẫn đang được thực thi và phải được học hỏi và vận dụng ” ngày một, tháng một, và năm một “, và bóng gió rằng các thành phần cố hữu của giai cấp tư sản ( ám chỉ Lưu Thiếu Kỳ ) vẫn còn sống sót mặc dầu cách mạng đã thành công xuất sắc. Năm 1964, Phong trào Giáo dục đào tạo Xã hội Chủ nghĩa tiến triển trở thành Phong trào Bốn-dọn-dẹp, một trào lưu chính trị – xã hội to lớn hơn nhằm mục đích mục tiêu ” làm sạch chính trị, kinh tế tài chính, tư tưởng, và tổ chức triển khai của bọn phản động “. Mao Trạch Đông xem chiến dịch này là nhắm vào các thành phần trung lưu vừa được thiết lập nhưng đã trở nên xa rời quần chúng, trong khi Lưu Thiếu Kỳ lại muốn một cách tiếp cận từ dưới lên để vô hiệu những tội phạm nhỏ, những tầng lớp địa chủ và thành phần phản động. Sự sự không tương đồng trong quan điểm về thực chất của trào lưu đã tạo ra xung đột giữa Mao Trạch Đông và Lưu Thiếu Kỳ .

Khẩu chiến chính trị[sửa|sửa mã nguồn]

Cuối năm 1959, nhà sử học và cũng là Phó Thị trưởng Bắc Kinh Ngô Hàm xuất bản phiên bản tiên phong của bộ kịch lịch sử vẻ vang tựa đề Hải Thụy bãi quan ( 海瑞罢官 ). Trong vở kịch, một viên quan trung thành với chủ tên Hải Thụy bị sa thải bởi một tên nhà vua biến chất. Trong khi vở kịch nhận được sự ca tụng từ phía Mao thì năm 1965 vợ Mao Trạch Đông là Giang Thanh và liên minh của bà ta là Diêu Văn Nguyên, biên tập viên cho một tờ báo ở Thượng Hải, đã viết bài báo công kích vở kịch. Diêu gọi vở kịch là ” một thứ cỏ độc ” hãm hại Mao với ý niệm Mao như một tên nhà vua suy đồi và Bành Đức Hoài như một công chức trung thực .Bài báo Thượng Hải đó Viral khắp nước và nhiều tờ nhật báo số 1 khác đã xin đăng lại. Thị trưởng Bắc Kinh là Bành Chân, một người ủng hộ Ngô Hàm, đã xây dựng một ủy ban điều tra và nghiên cứu bài báo và công bố rằng những lời chỉ trích của Diêu Văn Nguyên là không chính đáng. Ngày 12 tháng 2 năm 1966, Ủy ban ( gọi là ” Nhóm Năm tên chịu nghĩa vụ và trách nhiệm về cuộc Đại Cách mạng văn hóa ” ) đã công bố một báo cáo giải trình mà về sau được biết đến với tên ” Đại cương tháng Hai ” ( 二月提纲 ) nhằm mục đích tìm cách số lượng giới hạn tranh luận về nhân vật Hải Thụy trong khuôn khổ văn chương và lôi kéo sự quan tâm của dư luận ra khỏi các hàm ý chính trị .

Tuy nhiên, Giang Thanh và Diêu Văn Nguyên tiếp tục tố cáo cả Ngô Hàm và Bành Chân trên báo chí. Ngày 16 tháng 5, dưới sự chỉ đạo của Mao, Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc đã ban hành một thông báo chính thức về cuộc Đại Cách mạng văn hóa. Trong tài liệu này, Bành Chân bị chỉ trích gay gắt và nhóm “Năm tên” bị giải tán và được thay thế bởi Nhóm Cách mạng văn hóa. Ngày 18 tháng 5, Lâm Bưu tuyên bố trong một bài phát biểu rằng “Chủ tịch Mao là một thiên tài, và mọi thứ Chủ tịch nói đều thực sự tuyệt vời; những lời nói của Chủ tịch sẽ tạo ra ý nghĩa cuộc sống của hàng trăm ngàn người trong chúng ta”. Vì vậy, bắt đầu giai đoạn đầu của sự sùng bái nhân cách Mao Trạch Đông do Giang Thanh, Lâm Bưu và những kẻ cùng phe điều hành.

Ngày 25 tháng 5, một giảng viên triết học tại Đại học Bắc Kinh tên là Nhiếp Nguyên Tử ( 聂元梓 ) đã viết một tấm áp phích lớn và dán ở bảng tin công cộng. Nhiếp công kích giới chỉ huy Đảng trong trường và các quan chức của Đảng ở Bắc Kinh là ” bọn côn đồ đen tối chống lại Đảng “, ý niệm rằng có các thế lực đen tối trong nhà nước và các trường ĐH đang cố gắng nỗ lực ngăn ngừa tiến trình cách mạng. Vài ngày sau đó, Mao ra lệnh phổ cập những lời của Nhiếp ra khắp nước và gọi đó là ” tấm áp phích lớn tuyên truyền cho Chủ nghĩa Mác tiên phong ở Trung Quốc “. Ngày 29 tháng 5, tại trường trung học thuộc Đại học Thanh Hoa, đơn vị chức năng Hồng vệ binh tiên phong được xây dựng. Mục đích của đơn vị chức năng này là trừng phạt và cô lập cả giới tri thức lẫn những quân địch chính trị của Mao .Ngày 1 tháng 6 năm 1966, tờ Nhân dân Nhật báo đã phát động một cuộc công kích vào các lực lượng phản động trong giới tri thức. Sau đó, giới quản trị các trường ĐH và những người tri thức nổi tiếng khác bị truy tố. Ngày 28 tháng 7 năm 1966, đại diện thay mặt Hồng vệ binh đã viết thư cho Mao nói rằng các cuộc thanh trừng trên diện rộng và toàn bộ những sự kiện chính trị-xã hội có tương quan đều được triển khai đúng chuẩn và công minh. Mao đáp lại với sự ủng hộ tổng lực của mình bằng tấm áp phích lớn tựa đề ” Oanh tạc các trụ sở ” ( tiếng Trung : 炮打司令部 — — 我的一张大字报 ). Mao viết rằng, mặc kệ cuộc Cách mạng vô sản đã được triển khai, giai cấp thống trị vẫn bị tóm gọn bởi các thành phần tư sản, các nhà tư bản và những người theo chủ nghĩa xét lại, và rằng các thành phần phản cách mạng này vẫn còn sống sót, thậm chí còn ngay trong hàng ngũ chỉ huy cấp cao của Đảng. Điều này thực ra là một cuộc khẩu chiến chống lại Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình và những người cùng phe với họ .
Ngày 8 tháng 8 năm 1966, Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc trải qua ” quyết định hành động tương quan đến Cuộc Cách mạng Văn hóa Vô sản ” ( còn gọi là ” Thông cáo 16 điểm ” ). Quyết định này lao lý rằng Cuộc Cách mạng văn hóa Vô sản là ” một cuộc cách mạng lớn đụng chạm đến tổng thể mọi người và thiết lập một quy trình tiến độ mới trong sự tăng trưởng của cách mạng xã hội chủ nghĩa trong nước, một quy trình tiến độ sâu rộng hơn ” .

Mặc dù giai cấp tư sản đã bị lật đổ, chúng vẫn cố gắng sử dụng những tư tưởng và lề thói cũ của giai cấp bóc lột để đầu độc quần chúng nhân dân, nắm bắt tâm chí họ và cố gắng khôi phục giai đoạn tư sản. Giai cấp vô sản phải làm điều ngược lại: Đó là tranh đấu với giai cấp tư sản trong lĩnh vực tư tưởng và sử dụng những tư tưởng và lề thói mới của giai cấp vô sản để thay đổi diện mạo tinh thần của toàn bộ xã hội. Hiện tại, mục tiêu của chúng ta là đấu tranh và đè bẹp những kẻ hữu khuynh muốn phá bỏ cấu trúc thượng tầng của chủ nghĩa xã hội…
— ”Thông cáo 16 điểm”

Vì vậy, quyết định hành động đó lấy trào lưu sinh viên sẵn có và tăng trưởng nó lên một Lever chiến dịch đại chúng toàn nước, lôi kéo sự tham gia của không những sinh viên mà còn cả công nhân, nông dân, quân nhân, tri thức cách mạng và các cán bộ cách mạng để triển khai trách nhiệm quy đổi cấu trúc thượng tầng bằng cách treo các áp phích ký tự lớn và tổ chức triển khai các cuộc tranh luận sôi sục. Theo ý Mao thì Trung Quốc cần ” một cuộc cách mạng văn hóa ” để đưa Chủ nghĩa xã hội trở lại. Các quyền tự do lao lý theo Thông cáo 16 điểm sau đó được đưa vào Hiến pháp Trung Quốc như thể ” Bốn quyền tuyệt vời nhất của nền dân chủ vĩ đại ” : Quyền tự do ngôn luận, quyền phát biểu quan điểm, quyền được viết các áp phích ký tự lớn và quyền được tổ chức triển khai các tranh luận lớn. Thực ra, trong bốn quyền đó, một số ít quyền đã bao hàm lẫn nhau .Những người mà không có mối tương quan với Đảng Cộng sản sẽ được thử thách và thường thì bị buộc tội tham nhũng và bị bỏ tù. Những quyền tự do này được bổ trợ bởi quyền được bãi công, mặc dầu quyền này đã bị suy yếu bởi sự dính dáng của quân đội vào nền chính trị dân sự vào tháng 2 năm 1967. Tất cả những quyền này đã bị xóa bỏ khỏi Hiến pháp sau khi nhà nước của Đặng Tiểu Bình dập tắt Phong trào Bức tường Dân chủ năm 1979 .Ngày 16 tháng 8 năm 1966, hàng triệu Hồng vệ binh từ khắp các nơi trên quốc gia tập trung chuyên sâu tại Bắc Kinh để có thời cơ thấy mặt quản trị Mao. Ngay trên đầu cổng Thiên An Môn, quản trị Mao Trạch Đông và Lâm Bưu đã Open và diễn thuyết trước 11 triệu Hồng vệ binh, và nhận được rất nhiều tràng reo hò từ đám đông. Mao ca tụng hành vi của Hồng vệ binh trong các chiến dịch gần đây là ” tăng trưởng Chủ nghĩa xã hội và dân chủ ” .

Ngày 1/6/1966, trên Nhân dân Nhật báo có bài xã luận với tựa đề “Bài trừ mọi tư tưởng cũ, văn hóa cũ, phong tục cũ, tập quán cũ đầu độc nhân dân do giai cấp bóc lột dựng nên” mở đầu Chiến dịch tiêu hủy Bốn cái cũ. Trong chiến dịch này tất cả những gì liên quan đến các loại tôn giáo đều bị Hồng vệ binh ngược đãi thẳng tay. Nhiều công trình tôn giáo như chùa chiền, nhà thờ, tu viện Hồi giáo, và các nghĩa trang đều bị đóng cửa, đôi khi còn bị cướp phá hoặc bị đập bỏ. Nhiều cổ vật, sách cổ, tranh ảnh, thư pháp… bị phá hủy, đốt bỏ. Điều khủng khiếp nhất của chiến dịch là việc sử dụng bừa bãi hình thức tra tấn, giết chóc dẫn đến các vụ tự tử do nạn nhân không chịu được tra tấn và nhục nhã. Trong tháng 8 và tháng 9, chỉ riêng ở Bắc Kinh đã có 1772 người bị sát hại. Tại Thượng Hải, trong tháng 12 có 704 vụ tự tử và 534 ca tử vong liên quan đến Cách mạng Văn hóa. Trong thời gian này ở Vũ Hán cũng chứng kiến 62 vụ tự sát và 32 vụ giết người.[5]

Chính quyền cũng không dám ngăn ngừa hành vi của Hồng vệ binh. Xie Fuzhi, cảnh sát trưởng vương quốc, cho biết : ” Đừng nói rằng họ sai khi đánh đập những kẻ xấu ; nếu trong cơn thịnh nộ mà họ có đánh ai đó đến chết thì cũng hoàn toàn có thể hiểu được. ” [ 6 ]Trong hai năm, đến tận tháng 7 năm 1968 ( ở vài nơi, thời hạn hoàn toàn có thể lâu hơn ), các nhóm hoạt động giải trí của Hội sinh viên như lực lượng Hồng vệ binh đã lan rộng ra nghành quyền lực tối cao của mình, và ngày càng tăng các nỗ lực tái thiết Xã hội chủ nghĩa. Họ khởi đầu bằng cách phát tờ rơi lý giải cho hành vi tăng trưởng và củng cố Chủ nghĩa xã hội của họ và đưa tên các nhân vật bị khép tội ” phản cách mạng ” lên trên bảng tin của trường. Họ tập hợp lại thành từng nhóm lớn, tổ chức triển khai các buổi tranh luận lớn, và viết các vở kịch mang tính ” giáo dục “. Họ tổ chức triển khai các cuộc họp công cộng để chỉ trích những lời bào chữa của các bị cáo ” phản cách mạng ” .

Thế giới này là của các bạn, cũng như của chung chúng ta, nhưng xét cho cùng thì nó vẫn là của các bạn. Các bạn, những người trẻ tuổi tràn đầy nhiệt huyết, đang ở độ thăng hoa của cuộc đời giống như mặt trời lúc tám hoặc chín giờ sáng. Chúng tôi hy vọng vào các bạn. Thế giới thuộc về các bạn. Tương lai Trung Quốc thuộc về các bạn.

Hồng bảo thư, ấn bản tiếng Anh
Đây là một trong nhiều trích đoạn từ cuốn Hồng bảo thư mà sau này Hồng vệ binh luôn mang theo như một sự hướng dẫn hành vi từ phía Mao Trạch Đông. Đó là mục tiêu cho hành vi vì tiềm năng tương lai của Hồng vệ binh. Những trích dẫn trực tiếp từ lời của Mao đã dẫn đến các hành vi khác của Hồng vệ binh dưới quan điểm của các nhà sáng lập Chủ nghĩa Mao khác. Mặc dù Thông cáo 16 điểm và các công bố khác từ các nhà chỉ huy cấp cao khác của Chủ nghĩa Mao đều ngăn cấm hình thức ” bạo động vũ trang ” ( vũ đấu ) và ủng hộ ” đấu tranh tâm ý ” ( văn đấu ), nhưng những cuộc đấu tranh này thường dẫn đến việc sử dụng vũ lực. Ban đầu, những cuộc khẩu chiến giữa các nhóm hoạt động giải trí thậm chí còn trở thành đấm đá bạo lực, nhất là khi họ mở màn tước vũ khí của quân đội năm 1967. Những người khởi xướng Chủ nghĩa Mao đã số lượng giới hạn hoạt động giải trí của Hồng vệ binh trong khuôn khổ hình thức ” bất bạo động “, nhưng đôi lúc chính điều đó lại có vẻ như khuyến khích đấm đá bạo lực ; và chỉ sau các vụ cướp vũ khí quân đội của Hồng vệ binh, họ mới mở màn đàn áp các trào lưu quần chúng. Lưu Thiếu Kỳ bị đưa vào một trại tạm giam và qua đời tại đó năm 1969. Đặng Tiểu Bình cũng bị đưa đi ” tái tạo ” ba lần và sau cuối phải thao tác trong một xí nghiệp sản xuất cơ khí cho đến khi Chu Ân Lai đưa ông trở lại vài năm sau đó. Tuy nhiên, phần đông những người bị bắt giữ không được như mong muốn như vậy và nhiều người trong số họ không khi nào được quay trở lại .Hành động của Hồng vệ binh được quản trị Mao Trạch Đông ca tụng. Ngày 22 tháng 8 năm 1966, ông phát hành một thông cáo chung, trong đó lao lý cấm mọi sự can thiệp từ phía công an vào hoạt động giải trí của Hồng vệ binh. Người nào làm trái với Thông cáo đó sẽ bị gán cho tội danh ” phản cách mạng ” .Ngày 5 tháng 9 năm 1966, một thông cáo khác được phát hành khuyến khích tổng thể Hồng vệ binh đến Bắc Kinh trong một quãng thời hạn xác lập. Tất cả ngân sách, gồm có ăn ở và đi lại sẽ được chính quyền sở tại chi trả. Ngày 10 tháng 10 năm 1966, một liên minh của Mao là Lâm Bưu đã công khai minh bạch chỉ trích Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình là ” những kẻ dẫn đường cho Chủ nghĩa Tư bản ” và là ” mối rình rập đe dọa ” đến Chủ nghĩa Xã hội. Sau đó, Bành Đức Hoài cũng bị đưa đến Bắc Kinh và bị truy tố trước quần chúng .
Ngày 3 tháng 1 năm 1967, Lâm Bưu và Giang Thanh đã sử dụng tiếp thị quảng cáo và cán bộ địa phương để tạo ra cái gọi là ” Bão táp tháng Giêng “, trong đó nhiều quan chức cấp cao Thượng Hải cũng bị chỉ trích nặng nề và bị đem ra truy tố [ 7 ]. Điều này đã mở đường cho Vương Hồng Văn nắm quyền quản trị thành phố với chức vụ người đứng đầu Ủy ban Cách mạng thành phố. Do đó, chính quyền sở tại thành phố bị bãi bỏ. Ở Bắc Kinh, Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình một lần nữa trở thành tiềm năng của sự chỉ trích, nhưng những chỉ trích khác cũng nhắm vào các việc làm sai lầm của Phó thủ tướng Trần Vân. Các quan chức cơ quan chính phủ hay đảng viên địa phương cũng nhân thời cơ này để cáo buộc kẻ địch tội ” phản cách mạng ” .Ngày 8 tháng Giêng, Mao đã ca tụng những hành vi này trải qua tờ báo của Đảng là tờ Nhân dân Nhật báo, khuyến khích các quan chức địa phương phê bình và tự phê bình nếu có dính líu tới hoạt động giải trí ” phản cách mạng “. Điều này dẫn đến các cuộc thanh trừng trên diện rộng và liên tục giữa các quan chức địa phương khiến cho chính quyền sở tại nhân dân ở nhiều địa phương bị tê liệt trọn vẹn. Tham gia vào các cuộc thanh trừng ” phản cách mạng ” này là cách duy nhất để tránh bị thanh trừng, nhưng cũng không có gì bảo vệ .Vào tháng hai, Giang Thanh và Lâm Bưu, dưới sự ủng hộ của Mao, đã nhấn mạnh vấn đề rằng ” đấu tranh giai cấp ” cần lan rộng ra sang ngành quân đội. Nhiều tướng lĩnh chủ chốt trong Quân Giải phóng Nhân dân Nước Trung Hoa đã tỏ thái độ lo lắng và phản đối Cách mạng văn hóa ; họ gọi đó là ” một sự sai lầm đáng tiếc “. Cựu Bộ trưởng Ngoại giao là Trần Nghị đã tỏ ra tức giận ngay trong cuộc họp Bộ Chính trị, và nói rằng sự chia bè kết phái sẽ hủy hoại quân đội trọn vẹn và sau đó là đến Đảng .Các tướng lĩnh khác, gồm có Nhiếp Vinh Trăn, Hạ Long và Từ Hướng Tiền cũng bày tỏ sự bất mãn. Họ lần lượt bị tố cáo bởi các phương tiện đi lại tiếp thị quảng cáo vương quốc dưới sự trấn áp của Trương Xuân Kiều và Diêu Văn Nguyên. Cuối cùng thì toàn bộ bọn họ đều bị thanh trừng bởi Hồng vệ binh. Cùng lúc đó, nhiều đơn vị chức năng Hồng vệ binh lớn quay sang cạnh tranh đối đầu với nhau do xích míc về lập trường cách mạng khiến cho tình hình thêm phức tạp và làm quốc gia thêm hỗn loạn .Do vậy, Giang Thanh đã ra thông tin dừng tất các hành vi không lành mạnh bên trong lực lượng Hồng vệ binh. Ngày 6 tháng 4, Lưu Thiếu Kỳ đã bị lên án công khai minh bạch và thoáng đãng bởi nhóm thành viên gồm Giang Thanh, Khang Sinh, thậm chí còn có cả Mao. Tiếp theo đó là một kháng nghị và các cuộc tuần hành của quần chúng, đáng chú ý quan tâm nhất là cuộc tuần hành ở Vũ Hán ngày 20 tháng 7. Trong nơi này, Giang Thanh đã công khai tố cáo bất kể ” hành vi phản cách mạng nào ” ; sau đó đích thân bà ta bay tới Vũ Hán để chỉ trích Trần Tái Đạo, tướng đảm nhiệm khu vực Vũ Hán .Ngày 22 tháng 7, Giang Thanh chỉ huy Hồng vệ binh sửa chữa thay thế Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc nếu thiết yếu, do đó làm cho lực lượng vũ trang hiện tại bị vô hiệu. Sau lần ca tụng khởi đầu của Giang Thanh, Hồng vệ binh khởi đầu cướp phá các doanh trại và các tòa nhà quân đội. Hành động này đã không hề bị ngăn ngừa bởi các tướng lĩnh quân đội và lê dài tới tận mùa thu năm 1968 .
Là cánh tay đắc lực của Mao, quyền lực của Lâm Bưu chỉ dưới Mao.
Mùa xuân 1968, một chiến dịch lớn nổ ra nhằm mục đích mục tiêu tăng cường tôn sùng Mao Trạch Đông lên mức ngang thần thánh. Ngày 27 tháng 7 năm 1968, sự lấn quyền quân đội của Hồng vệ binh chính thức kết thúc và chính quyền sở tại TW gửi các đơn vị chức năng quân đội tới để bảo vệ nhiều khu vực là tiềm năng của Hồng vệ binh. Mao ủng hộ và thôi thúc sáng tạo độc đáo được cho phép quần chúng lắng nghe một trong những hướng dẫn tối cao của mình. Một năm sau đó, các nhóm Hồng vệ binh trọn vẹn tan rã vì Mao sợ rằng sự hỗn loạn do họ gây ra hoàn toàn có thể làm hại nền tảng cơ bản của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Trong bất kể trường hợp nào thì tiềm năng của Hồng vệ binh đã đạt được và Mao đã củng cố được quyền lực tối cao chính trị của mình .Đầu tháng 10, Mao triển khai chiến dịch thanh trừng những quan chức không trung thành với chủ với ông ta. Họ bị đưa tới vùng nông thôn và thao tác trong các trại lao động. Cũng trong tháng này, tại Đại hội Đảng lần thứ 12 – khóa 8, Lưu Thiếu Kỳ bị trục xuất vĩnh viễn ra khỏi Đảng và Lâm Bưu được đưa lên giữ chức Phó quản trị Đảng và được Mao chọn làm người kế tục. Địa vị và nổi tiếng của Bưu chỉ xếp sau Mao. [ 8 ]Lâm Bưu, người được Mao chọn kế vị, trở thành nhân vật điển hình nổi bật nhất trong cuộc Đại Cách mạng văn hóa sau năm 1968. Tháng 12 năm 1971, Trung Quốc ( và quốc tế ) bị sốc sau khi một chiếc máy bay bị rơi ở Mông Cổ và Lâm Bưu được cho là một trong những hành khách xấu số. Sự kiện này xảy ra sau một loạt những nỗ lực ám sát Mao bất thành. Từ đó đến nay, chưa thể xác định được các sự kiện tương quan đến Lâm Bưu trong tiến trình 1968 – 1971 với độ thuyết phục và đúng chuẩn được vì nguyên do nhạy cảm chính trị xung quanh sự kiện máy bay rơi đó. [ 9 ] Những năm tháng quyền lực tối cao của Lâm Bưu và cái chết đầy huyền bí của ông ta là chủ đề chăm sóc của nhiều sử gia khắp quốc tế nhưng chưa một ai hoàn toàn có thể đưa ra Kết luận xác đáng về yếu tố đó .Tháng 12 năm 1968, Mao triển khai Phong trào Tiến về nông thôn. Phong trào lê dài từ cuối thập niên 1960 đến đầu thập niên 1970 đã kêu gọi hàng trăm ngàn tri thức trẻ sống ở các thành phố đi về các vùng nông thôn để sống, lao động và học hỏi kinh nghiệm tay nghề của những người công nhân và nông dân. Từ ” tri thức ” lúc đó được dùng với nghĩa rộng nhất là những học viên mới tốt nghiệp trung học. Cuối những năm 1970, những ” tri thức trẻ ” này sau cuối cũng được phép trở lại thành phố quê nhà. Xét góc nhìn nào đó thì trào lưu này là một phương pháp điều chuyển các thành viên Hồng vệ binh từ thành phố về nông thôn, nơi mà họ ít có năng lực gây loạn nhất .
Đại hội Đảng IX được tổ chức triển khai vào tháng 4 năm 1969, và ship hàng như thể một phương tiện đi lại để ” hồi sinh ” đảng với tư duy mới và cán bộ mới sau khi nhiều thành phần chỉ huy cũ đã bị loại trừ trong các cuộc đấu tranh của những năm trước đó. [ 10 ] Khuôn khổ thể chế của Đảng xây dựng hai thập kỷ trước đó đã bị hư hại gần như trọn vẹn : vì vậy đại biểu Quốc hội lần này thực ra đã được lựa chọn bởi Ủy ban cách mạng chứ không phải trải qua bầu cử của đảng viên [ 11 ]. Con số đại diện thay mặt của quân đội tăng lên nhiều so với đại hội trước đó ( 28 % các đại biểu là thành viên Quân Giải phóng Nhân dân ), và việc bầu cử thêm nhiều thành viên Quân Giải phóng Nhân dân vào Ủy ban Trung ương mới phản ánh sự ngày càng tăng này. [ 12 ] Nhiều sĩ quan quân đội được lên chức trung thành với chủ với thống soái Quân Giải phóng Nhân dân Lâm Bưu, thành hình một phe phái mới phân loại giữa chỉ huy quân đội và dân sự. [ 13 ]

Hậu quả và di chứng[sửa|sửa mã nguồn]

Cách mạng văn hóa ở Trung Quốc đã để lại những hậu quả nghiêm trọng không chỉ về kinh tế, xã hội mà cả về văn hóa. Trước khi Mao Trạch Đông qua đời, người ta có ước tính rằng có khoảng 12 đến 20 triệu người, gồm 5,4 triệu Hồng vệ binh, đã trải qua lao động nặng nhọc ở nông thôn, trong đó là 1 triệu người dân Thượng Hải, tức là 18% dân số của thành phố lúc đó. Số nạn nhân trong giai đoạn này có nhiều ước tính khác nhau, nhưng chắc chắn là rất lớn. Theo nhà nghiên cứu Rudolph Rummel, từ năm 1964 đến năm 1975, khoảng 7,7 triệu người Trung Quốc là nạn nhân trực tiếp hoặc gián tiếp bởi phong trào này do đói kém và xung đột dân sự.[14] Khoảng 3 triệu người (trong đó có nhiều Đảng viên Đảng Cộng sản Trung Quốc) bị kỷ luật hoặc cầm tù, 60% đảng viên bị khai trừ, nhiều người trong số họ bị trục xuất về nông thôn để lao động nặng nhọc trong thời gian diễn ra Cách mạng văn hóa. Về mặt xã hội, trong thời Cách mạng văn hóa, nhiều trường đại học ở Trung Quốc đã bị đóng cửa, dẫn đến hậu quả là cả một thế hệ người Trung Quốc không được tiếp cận với giáo dục đại học. Trong thập niên 1980, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc khi đó là Hồ Diệu Bang đã nhận xét rằng: “Khoảng 100 triệu người Trung Quốc đã chịu đau khổ trong thời kỳ này”.[15]

Đặng Tiểu Bình đã nhận định và đánh giá những sai lầm đáng tiếc của cuộc Cách mạng Văn hóa có phần nghĩa vụ và trách nhiệm của Mao Trạch Đông trên cương vị người chỉ huy quốc gia, nhưng mặt khác nó cũng là do sự kích động quá khích của đám đông quần chúng khiến việc thi hành trào lưu trở nên hỗn loạn, chệch hẳn so với dự tính khởi đầu :

Cách mạng Văn hóa là một sai lầm. Chúng ta phải mạnh dạn chối bỏ sai lầm này của Mao trong những năm tháng cuối đời của ông. Nhưng cũng cần nhìn vào sự thật. Sự thật là không phải mọi sai lầm và quá đáng trong cuộc Cách mạng Văn Hóa đều do Mao.” [15].

Bao Pu, một tác giả tại Hong Kong, có quan điểm tương tự. Mao Trạch Đông là người chủ xướng phong trào, nhưng nhiều người dân Trung Quốc cũng “vừa là tội đồ, vừa là nạn nhân”. Đây là sai lầm chung của cả một thế hệ, nếu hàng chục triệu người dân Trung Quốc không hăng hái tấn công lẫn nhau, nếu không có hàng chục triệu thanh niên Hồng Vệ Binh quá khích đập phá để hùa theo phong trào thì thiệt hại đã không lớn đến vậy:

“Không thể đổ hết mọi tội lỗi cho Mao Trạch Đông được. Đúng, ông ta có trách nhiệm vì là người khơi mào phong trào, nhưng để tàn phá toàn bộ đất nước đến mức như vậy – thì cả một thế hệ người Trung Quốc phải nhìn nhận lại.”[16]

Trong Nghị quyết năm 1981 của Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Cách mạng văn hóa được nêu lên với kết quả là “gây ra bất ổn định xã hội, và gây ra thảm họa cho Đảng, nhà nước, và nhân dân“.[15]

  • Michael Schoenhals, ed., China’s Cultural Revolution, 1966-1969: Not a Dinner Party (Armonk, N.Y.: M.E. Sharpe, 1996. An East Gate Reader). xix, 400p. ISBN 1563247364.
  • MacFarquhar, Roderick and Schoenhals, Michael. Mao’s Last Revolution. Harvard University Press, 2006. ISBN 0674023323
  • Morning Sun, “Bibliography,” Morningsun.org Books and articles of General Readings and Selected Personal Narratives on the Cultural Revolution.

Chủ đề sâu xa[sửa|sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]

Source: https://vh2.com.vn
Category : Công Cộng