Networks Business Online Việt Nam & International VH2

HỒ CHÍ MINH ĐÁNH GIÁ NHƯ THẾ NÀO VỀ TÔN TRUNG SƠN & CHỦ NGHĨA TAM DÂN

Đăng ngày 30 May, 2023 bởi admin

Mặc dù không cùng ý thức hệ tư tưởng, nhưng giữa “Tôn Trung Sơn và Hồ Chí Minh lại có mối đồng cảm lịch sử và thời đại sâu sắc” như tác giả Đặng Thanh Tịnh từng viết: “Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, có ảnh hưởng sâu sắc nhất trong các nhà cách mạng dân chủ tư sản đối với Người đó chính là Tôn Trung Sơn. Trong các bài viết và lời kể của các nhà lão thành cách mạng Việt Nam không chỉ một lần nói về Hồ Chí Minh đã nghiên cứu Chủ nghĩa tam dân và có tình cảm sâu sắc với Tôn Trung Sơn”(1).

Mặc dù không cùng ý thức hệ tư tưởng, nhưng giữa “ Tôn Trung Sơn và Hồ Chí Minh lại có mối đồng cảm lịch sử dân tộc và thời đại thâm thúy ” như tác giả Đặng Thanh Tịnh từng viết : “ Trong cuộc sống hoạt động giải trí cách mạng của quản trị Hồ Chí Minh, có tác động ảnh hưởng thâm thúy nhất trong những nhà cách mạng dân chủ tư sản so với Người đó chính là Tôn Trung Sơn. Trong những bài viết và lời kể của những nhà lão thành cách mạng Nước Ta không chỉ một lần nói về Hồ Chí Minh đã nghiên cứu và điều tra Chủ nghĩa tam dân và có tình cảm thâm thúy với Tôn Trung Sơn ” ( 1 ). Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng viết trong Hồ Chí Minh – Lãnh tụ của tất cả chúng ta rằng : “ Lâu nhất trong đời hoạt động giải trí hải ngoại của Người, Hồ quản trị ở Trung Quốc có tình cảm nồng nàn với Tôn Văn, với cách mạng và nhân dân Trung Quốc ” ( 2 ). Còn tác giả Trần Dân Tiên thì nhận xét : “ Ông Nguyễn để hết tâm lực nghiên cứu và điều tra chính trị Trung Quốc. Ba nguyên tắc của bác sĩ Tôn Dật Tiên : dân tộc bản địa độc lập, dân quyền tự do, dân số niềm hạnh phúc, vừa nghiên cứu và điều tra vừa thao tác để sống ” ( 3 ) .
Tuy vậy, nhiều khu công trình viết về tư tưởng cách mạng của Hồ Chí Minh chưa đánh giá đúng mức về yếu tố này. Trên cơ sở nguồn tư liệu ( tiếng Việt và tiếng Trung ), có thừa kế hiệu quả điều tra và nghiên cứu của người đi trước, chúng tôi xin nhấn mạnh vấn đề mấy yếu tố sau đây :

  1. Giai đoạn từ Cách mạng Tân Hợi đến Quốc – Cộng hợp tác, Hồ Chí Minh bước đầu để ý đến cách mạng của Tôn Trung Sơn và Chủ nghĩa tam dân

Ngày 5/6/1911, Nguyễn Ái Quốc rời Tổ quốc Việt Nam ra đi tìm đường cứu nước. Mục tiêu đầu tiên mà Người hướng đến chính là nước Pháp để tìm hiểu bản chất của những từ “tự do, bình đẳng, bác ái”. Bốn tháng sau, cách mạng Tân Hợi nổ ra thì Người đang ở Pháp, sau đó sang Mỹ, đến Anh, rồi trở lại Pháp. Mặc dù cách mạng do Tôn Trung Sơn lãnh đạo tác động đến phong trào cách mạng châu Á, đặc biệt là Việt Nam, nhưng mãi đến đầu những năm 20 mới có một ít tờ báo xuất bản ở Trung Quốc lọt đến Paris theo chân những người du học và sinh sống ở đây… Có lẽ nhờ đó mà Nguyễn Ái Quốc biết được những gì đang diễn ra trên đất Trung Quốc đầu thập kỷ 20 của thế kỷ XX, đặc biệt là hoạt động của Chính phủ cách mạng Quảng Châu và những tư tưởng cách mạng của Tôn Trung Sơn. Hồ Chí Minh biết đến cách mạng của Tôn Trung Sơn sau khi đã lựa chọn con đường cách mạng vô sản. Dấu vết sớm nhất về những tư tưởng đẹp đẽ của Tôn Trung Sơn trong di sản của Hồ Chí Minh có lẽ là bài viết đầu năm 1921 khi Người còn hoạt động ở Paris. Trong bài viết đó chứa đựng thiện cảm to lớn của Người đối với cuộc cách mạng dân tộc do Tôn Trung Sơn lãnh đạo và đặc biệt trong đó chứa đựng sự dự báo về khả năng phát triển của cuộc cách mạng này(4). Đó là hai bài đăng trên Tạp chí La Revue Commu- niste, số 14 và 15, tháng 4 và 5-1921, trong đó Người viết: “Dù đầu độc có hệ thống của bọn tư bản thực dân cũng không thể làm tê liệt sức sống, càng không thể làm tê liệt tư tưởng cách mạng của người Đông Dương. Luồng gió từ nước Nga thợ thuyền, từ Trung Quốc cách mạng hoặc từ Ấn Độ chiến đấu đang thổi đến giải độc cho người Đông Dương” và “Trung Quốc, trước kia và hiện nay vẫn là con bò sữa của tư bản Âu – Mỹ. Nhưng sự thành lập chính quyền của nhà cách mạng Tôn Dật Tiên ở phía Nam đã hứa hẹn với chúng ta một nước Trung Hoa được tổ chức lại và vô sản hoá. Có thể hy vọng một cách không quá đáng rằng, trong một tương lai gần đây, hai chị em – nước Trung Hoa mới và nước Nga công nhân sẽ nắm tay nhau trong tình hữu nghị để tiến lên vì lợi ích của nền dân chủ và nhân đạo”(5). Đó là một dự báo chính xác về sự liên minh giữa cách mạng của Tôn Trung Sơn với cách mạng Nga của Lênin trong một tương lai gần. Tiên đoán đó đã trở thành hiện thực – khi từ cuối năm 1923 Chính phủ Quảng Châu và nước Nga Xô viết xích lại gần nhau, rồi từ 1/1924, Tôn Trung Sơn cải tổ Quốc dân Đảng, giải thích mới về Chủ nghĩa tam dân, tạo cơ sở cho Quốc – Cộng hợp tác lần thứ nhất, thúc đẩy phong trào cách mạng Trung Quốc phát triển lên một bước.

Tiếp đó, Người viết nhiều bài như : Chính sách thực dân Anh ( Báo La Vie Ouvrière, ngày 9/11/1923 ) ; Tình hình ở Trung Quốc ( Báo L’Humanité, ngày 4/12/1923 ) ; Tình cảnh nông dân Trung Quốc ( Báo La Vie Ouvrière, ngày 4/1/1924 ) ; Các nước đế quốc chủ nghĩa và Trung Quốc ( Tạp san Inprekorr, số 67, ngày 24/9/1924 ) … Trong đó chứng minh và khẳng định : “ Bọn đế quốc nhằm mục đích hai mục tiêu : trước hết, giành thêm những nhượng bộ mới, sau nữa tôi cho rằng đây là điều đa phần – lật đổ Tôn Dật Tiên … Tôn Dật Tiên – người cha của cách mạng Trung Quốc, người đứng đầu cơ quan chính phủ Quảng Châu Trung Quốc thì luôn luôn trung thành với chủ với những nguyên tắc của mình, ngay cả trong những lúc khó khăn vất vả nhất. Cương lĩnh của đảng ông – Quốc dân Đảng là một cương lĩnh cải cách … gồm những lao lý chống đế quốc và chống quân phiệt một cách rõ ràng. Đảng đó lớn tiếng đoàn kết với những dân tộc bản địa bị áp bức ở những nước thuộc địa và với giai cấp vô sản quốc tế … Chính vì vậy mà thời nay người ta tìm cách giao dịch thanh toán Tôn Dật Tiên và đảng của ông cũng giống như trước đây người ta tìm cách bóp chết nước Nga cách mạng vậy ” ( 6 ) .
Theo Người, Cương lĩnh cách mạng Quốc dân Đảng của Tôn Trung Sơn là một Cương lĩnh cải cách, “ gồm có những nội dung rất là tân tiến : Một là, chống đế quốc và chống quân phiệt một cách rõ ràng ; Hai là, đoàn kết những dân tộc bản địa bị áp bức ở những nước thuộc địa và giai cấp vô sản quốc tế ; Ba là ưng ý với cách mạng Nga ” ( 7 ). Đó là niềm tin của Chủ nghĩa tam dân mới, có nhiều điểm độc lạ với Chủ nghĩa tam dân cũ. Người trong bước đầu nhận thấy trong tư tưởng của Tôn Trung Sơn có những điểm tương thích với xu thế thời đại và hoàn toàn có thể vận dụng được vào thực trạng Nước Ta, mong sớm có thời cơ tận mắt tận mắt chứng kiến sự tăng trưởng cách mạng của Tôn Trung Sơn dưới quá trình Quốc – Cộng hợp tác. Tất nhiên, Người đến Quảng Châu Trung Quốc còn có những nguyên do khác nữa như ở đây gần với Tổ quốc Việt Nam, “ một mặt quan tâm cách mạng trong nước, mặt khác có điều kiện kèm theo tham gia vào công tác làm việc của Đảng cộng sản Trung Quốc ” ( 8 ) …

  1. Hơn hai năm hoạt động ở Quảng Châu, Hồ Chí Minh có điều kiện tìm hiểu sâu hơn về Chủ nghĩa tam dân của Tôn Trung Sơn

Ngày 11/4/1924, Nguyễn Ái Quốc có thư gửi Quốc tế Cộng sản, trong đó viết : “ Chuyến đi sẽ là một chuyến đi để khảo sát và nghiên cứu và điều tra … Trước hết tôi phải đi Trung Quốc … ” ( 9 ). Ngày 11/11/1924, Người đến Quảng Châu Trung Quốc sau khi Chủ nghĩa tam dân của Tôn Trung Sơn đã chuyển sang Chủ nghĩa tam dân mới với nội dung dân tộc bản địa, dân quyền, dân số đã được lan rộng ra theo khunh hướng có lợi cho cách mạng vô sản, nên Người rất chăm sóc tìm hiểu và khám phá tư tưởng cách mạng của Tôn Trung Sơn ( 10 ). Như Trần Dân Tiên viết : “ … Lời lôi kéo của bác sĩ Tôn Dật Tiên khởi đầu truyền bá. Một trào lưu dân tộc bản địa vĩ đại khởi đầu … Ông Nguyễn tin vào cuộc hoạt động này … Ông để hết tâm lực nghiên cứu và điều tra chính trị Trung Quốc. Ba nguyên tắc của bác sĩ Tôn Dật Tiên : dân tộc bản địa độc lập, dân quyền tự do, dân số niềm hạnh phúc, ông vừa điều tra và nghiên cứu vừa thao tác để sống ” ( 11 ) .
Thực ra, lúc bấy giờ lý luận cách mạng của Tôn Trung Sơn đã lôi cuốn sự quan tâm của nhiều nhân sĩ châu Á, đặc biệt quan trọng là “ nước Nước Ta đồng mệnh ” và Quảng Châu Trung Quốc được ca tụng là “ Mátxcơva của phương Đông ”. Nên Nguyễn Ái Quốc tìm đến làm phiên dịch cho Bôrôđin cũng là một phần muốn có nhiều thời cơ được tiếp xúc với chính tác giả của Chủ nghĩa tam dân. Nhưng cho đến nay, chúng tôi chưa tìm thấy tài liệu nào ( cả tiếng Trung và tiếng Việt ) viết về việc tiếp xúc giữa Nguyễn Ái Quốc với Tôn Trung Sơn. Theo chúng tôi, nhiều năng lực Nguyễn Ái Quốc chưa một lần tiếp xúc với Tôn tiên sinh vì : ngày 11/11/1924, Người vừa đến Quảng Châu Trung Quốc thì ngày 12/11/1924 Tôn Trung Sơn bận tiếp xúc những chính giới ở Quảng Châu Trung Quốc để bày tỏ quyết tâm lên phía Bắc ; ngày 13/11/1924 Tôn Trung Sơn cùng Tống Khánh Linh rời Quảng Đông và ngày 17/11/1924 thì đến Thượng Hải, rồi ngày 23/11/1924 đến Nagasaki của Nhật Bản ; ngày 4/12/1924 quay trở lại Thiên Tân và ngày 31/12/1924 đến Bắc Kinh rồi vì lâm bệnh nặng đã qua đời ở đây ( 12 ) .
Song qua thực tiễn cách mạng, Nguyễn Ái Quốc hiểu biết sâu hơn về Chủ nghĩa tam dân mới của Tôn Trung Sơn và nhận thấy nó thích hợp với trong thực tiễn Nước Ta : “ … Trong toàn bộ những lý luận cách mạng thì chủ nghĩa Tôn Dật Tiên là tương thích nhất với thực trạng đơn cử của Nước Ta. Chủ nghĩa Tam dân của bác sĩ Tôn Dật Tiên hoàn toàn có thể tổng kết là : Chủ nghĩa Dân tộc : độc lập cho mọi dân tộc bản địa ; Chủ nghĩa Dân quyền : tự do của nhân dân ; Chủ nghĩa Dân sinh : niềm hạnh phúc và tận hưởng của nhân dân. Đây là cái mà Nước Ta cần. Đây là cái mà dân tộc bản địa Nước Ta yên cầu và là cái mà Nguyễn Ái Quốc tìm kiếm … ” ( 13 ). Nhiều nhà điều tra và nghiên cứu nhận định và đánh giá, Người đã không những chuyển hóa “ ba chủ nghĩa ” nói trên thành “ ba nguyên tắc ” – “ ba chủ trương ” rồi sử dụng tên gọi này nhiều lần mà còn phát minh sáng tạo, bổ trợ những cụm từ độc lập, tự do, niềm hạnh phúc để thành : Dân tộc độc lập ; Dân quyền tự do ; Dân sinh niềm hạnh phúc – điều mà Tôn Trung Sơn chưa khi nào viết như vậy ( 14 ) .
Trên đất Quảng Châu Trung Quốc, năm 1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Nước Ta người trẻ tuổi cách mạng, tiến hành những lớp huấn luyện và đào tạo chính trị. Không phải ngẫu nhiên mà bên cạnh treo những bức ảnh của Mác, Lênin, Xitalin, thì trong lớp đào tạo và giảng dạy này còn treo ảnh Tôn Trung Sơn và Phạm Hồng Thái ( 15 ). Người còn đưa nội dung văn minh trong Chủ nghĩa tam dân của Tôn Trung Sơn vào giảng dạy cho thanh niên học một cách có phê phán ( 16 ). Trước khi Tôn Văn qua đời, Người có bài “ Những yếu tố Châu Á Thái Bình Dương ” đăng trên Tạp san Inprekorr ( số 19 năm 1925 ), đánh giá cao chủ trương dân tộc bản địa của Tôn Trung Sơn trong việc phản đối chủ nghĩa đế quốc xâm lược, chính sự cứng rắn của Tôn tiên sinh và Quốc dân Đảng trong việc yên cầu sự bình đẳng dân tộc bản địa nên Tôn Dật Tiên đã trở thành “ một trong những nhà chính trị mà bọn đế quốc ghét nhất và gờm nhất ” ( 17 ) .
Ngày 12/3/1925 Tôn Trung Sơn qua đời, thì cuối tháng đó Nguyễn Ái Quốc có bài “ Sự kiện Tôn Dật Tiên tạ thế ” đăng Báo Người cùng khổ ở Paris, có đoạn rất xúc động : “ … Tôn Dật Tiên qua đời làm cho châu Á mất đi một người bạn tốt, cách mạng Nga mất đi một người tiếp sức. Tôn tiên sinh qua đời nhưng Di chúc của ông đang hô hào cả nước Trung Quốc liên tục đấu tranh chống quân địch chung. Cũng như thời điểm ngày hôm nay, những người Nước Ta yêu nước đang lưu vong trên đất Quảng Châu Trung Quốc, họ đã hi sinh mọi tận hưởng cũng để làm cho dân tộc bản địa mình được thoát khỏi sự nô dịch đế quốc, phong kiến. Như lúc bấy giờ đã lấy quê nhà của Tôn Dật Tiên để làm nơi tôi luyện cách mạng, từ đó mà càng giữ vững lòng tin và ý chí quyết tâm cứu nước ” ( 18 ). Tiếp đó là bài Những sự biến ở Trung Quốc được Người viết ngày 13/11/1925 tại Quảng Châu Trung Quốc đăng báo L’Annam số 118 ngày 2/12/1925 ở Nước Ta, có đoạn : “ Chúng tôi không hề không nói đến tình cảm của nhân dân Quảng Châu Trung Quốc và cả tỉnh Quảng Đông kỷ niệm ngày sinh của Tôn Dật Tiên. Sự ân cần của nhân dân chứng tỏ người Nước Trung Hoa biết ơn vị Lãnh tụ cách mạng quá cố đến nhường nào, biết ơn người đã thức tỉnh họ ý chí tự giải phóng khỏi mọi sự áp bức về ngoại giao mà không gì bào chữa nổi lúc bấy giờ ” ( 19 ). Đầu năm 1926, tham gia Đại hội Quốc dân Đảng Trung Quốc lần thứ hai, Nguyễn Ái Quốc nói : “ … Chính sách vĩ đại của Tôn Tổng lý ( tức Tôn Trung Sơn ) để cùng với những dân tộc bản địa bị áp bức phấn đấu … Lúc Tôn Trung Sơn tạ thế, toàn Trung Quốc cố nhiên đều truy điệu, mà những nước trên quốc tế cũng rầm rộ truy điệu. Nhân dân An Nam chúng tôi đương nhiên cũng muốn làm lễ truy điệu như người Trung Quốc, nhưng bọn Pháp không được cho phép làm … ” ( 20 ). Cũng từ Quảng Châu Trung Quốc, ngày 12/3/1927 Nguyễn Ái Quốc viết bài “ Kỷ niệm lần thứ hai ngày Tôn Dật Tiên qua đời ” gửi về Nước Ta đăng Báo L’Annam ( số 150 ngày 31/3/1927 ) với những lời lẽ rất xúc động : “ Ngày ngày hôm nay cả nước Trung Hoa tỏ lòng tôn kính tưởng niệm Bác sĩ Tôn Dật Tiên … Con người thao tác lột xác nước Nước Trung Hoa vĩ đại đã góp sức cả nghị lực và cuộc sống mình cho thắng lợi của sự nghiệp cả dân tộc bản địa … Bác sĩ Tôn Dật Tiên lên án sự sống sót của những Hiệp ước bất bình đẳng, nhân nhân những địa phương đều nghe thấy … Chính những người Trung Quốc tôn kính, biết ơn Bác sĩ Tôn Dật Tiên – người Phục hồi cho Tổ quốc, đã tưởng niệm ngày qua đời của người anh hùng dân tộc bản địa vĩ đại ” ( 21 ) .
Nguyễn Ái Quốc và những người yêu nước đang hoạt động giải trí ở Quảng Châu Trung Quốc tương đối thuận tiện, tổ chức triển khai huấn luyện và đào tạo được hàng trăm cán bộ cách mạng và đang chuẩn bị sẵn sàng tiến tới xây dựng một chính đảng của giai cấp công nhân Nước Ta thì đùng một cái “ khung trời chính trị Quảng Châu Trung Quốc ngày càng bị mây đen bao trùm ”. Ngày 12/4/1927, Tưởng Giới Thạch làm cuộc thay máu chính quyền ở Thượng Hải, rồi ngày 15/4 Lý Tế Thâm thay máu chính quyền ở Quảng Châu Trung Quốc. Tiếp đến, bọn phản cách mạng bắt bớ, khủng bố những người cộng sản, cánh tả trong Quốc dân Đảng và người bị hoài nghi có mối liên hệ với cộng sản. Trong tình hình đó, Nguyễn Ái Quốc cũng nằm vào tầm trấn áp của bọn Tưởng phản cách mạng, nên phải bí hiểm rời Quảng Châu Trung Quốc đi Hồng Kông, lên Thượng Hải và trở lại quốc gia Liên Xô .

  1. Giai đoạn 1927-1945, Hồ Chí Minh tiếp tục tìm hiểu và vận dụng sáng tạo tinh hoa Chủ nghĩa Tam dân mới vào thực tiễn giải phóng dân tộc ở Việt Nam

Sau khi trở lại Mátxcơva, tháng 11 năm 1927, Nguyễn Ái Quốc được cử đi Pháp, rồi sang Bỉ, Italia. Mùa thu 1928, Người từ châu Âu đến Thái Lan và cuối năm đó trở lại Trung Quốc. Tác giả Trần Dân Tiên cho biết, để chuẩn bị hợp nhất các tổ chức Cộng sản thành một chính đảng cách mạng, Nguyễn Ái Quốc bàn bạc với các đồng chí của mình: “Chúng ta phải đoàn kết giai cấp, đoàn kết nhân dân đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp. Để đạt mục đích ấy phải thống nhất tổ chức. Tổ chức ấy có thể lấy tên Thanh niên cách mạng hoặc là Đảng Cộng sản, nhưng chính cương của nó phải là: 1) Dân tộc độc lập; 2) Nhân dân tự do; 3) Dân chúng hạnh phúc; 4) Tiến tới chủ nghĩa xã hội”(22). Sau này, vấn đề dân tộc, dân quyền và dân sinh được Nguyễn Ái Quốc dùng tới đã vượt lên tầm cao so với Tôn Trung Sơn, gắn với tinh thần chủ nghĩa vô sản quốc tế và đặt cách mạng Việt Nam làm một bộ phận của cách mạng thế giới “Cương lĩnh của ông Nguyễn đã sáng tạo chủ nghĩa Tôn Dật Tiên, tức: chủ nghĩa dân tộc thành dân tộc độc lập; chủ nghĩa dân quyền thành nhân dân tự do; chủ nghĩa dân sinh thành cải thiện cuộc sống nhân dân”(23).

Trong bài Nhân dân Nước Ta với báo chí truyền thông Trung Quốc ( ngày 2/12/1941, bút danh Bình Sơn ), đăng Cứu vong nhật báo, Người viết : “ Phong trào giải phóng dân tộc bản địa của Nước Ta là đội quân Đồng minh trong kháng chiến chống Nhật của Trung Quốc … Quốc phụ Tôn Trung Sơn từng dạy tất cả chúng ta giúp sức những dân tộc bản địa nhỏ yếu cùng nhau phấn đấu giành lấy tự do độc lập. Nay thời cơ để triển khai lời di huấn đó đã đến ” ( 24 ). Đặc biệt, khi đang bị ngồi trong nhà tù của chính quyền sở tại Tưởng Giới Thạch, Người vẫn điều tra và nghiên cứu Chủ nghĩa tam dân. Theo Hầu chủ nhiệm – người đã tuân lệnh Tưởng Giới Thạch trực tiếp trả tự do cho Hồ Chí Minh cho biết : trong thời hạn quản lĩnh Hồ Chí Minh trong tù, chủ nhiệm Hầu đã Tặng Kèm Hồ Chí Minh cuốn Chủ nghĩa tam dân của Tôn Trung Sơn, sau này Hồ Chí Minh dịch ra tiếng Việt ( 25 ). Vì vậy, bài thơ Hầu chủ nhiệm ân Tặng Kèm nhất bộ thư ( ơn chủ nhiệm Hầu tặng một bộ sách ) trong tập Nhật ký trong tù có ghi lại xúc cảm khi Người đọc Chủ nghĩa tam dân và biết ơn chủ nhiệm Hầu : “ Sách ngoài chủ nhiệm mới đưa cho / Đọc đoạn ý thức chợt mở mạng / Còn vẳng bên tai lời lãnh tụ / Chân trời một tiếng sấm rền vang ” ( 26 ). Sau khi Người ra tù, Trương Phát Khuê ( Thượng tướng quân đội Nước Trung Hoa Dân Quốc ) có báo cáo giải trình tình hình rằng : “ Hồ Chí Minh đang nghiên cứu và điều tra và viết một cuốn sách mỏng mảnh về Chủ nghĩa tam dân tại Cục chính trị Đệ tứ chiến khu ” ( 27 ). Tiếp đó, trong bài chuyện trò tại buổi bế mạc lớp huấn luyện và đào tạo cán bộ Nước Ta tại Liễu Châu ( Quảng Tây ) mùa xuân năm 1944, Người căn dặn : “ Tôn tiên sinh vĩ đại có một câu danh ngôn : An nguy tha nhật chung tu trượng / Cam khổ lai thời yếu cộng thưởng. Câu danh ngôn này so với nhân dân hai nước tất cả chúng ta mà nói là lời hiệu triệu vĩ đại và có ý nghĩa lịch sử dân tộc thâm thúy. Nhân dân 2 nước Việt – Trung sẽ thực thi điều đó, mãi mãi không quên ” ( 28 ) .
Ngày 18/2/1945, trong công hàm gửi cơ quan chính phủ những nước Trung Quốc, Hoa Kỳ, Liên Xô và Anh, Hồ Chí Minh đã nói về mục tiêu làm cách mạng dân tộc bản địa là : “ Chúng tôi dựa vào và tìm thấy nguyên tắc thứ nhất trong ba nguyên tắc của Tôn Dật Tiên ” ( tức là dân tộc bản địa độc lập ) thì đến ngày 23/2/1945, khi vấn đáp phỏng vấn báo chí truyền thông, Người lại chứng minh và khẳng định : “ Nước Nước Trung Hoa giờ đây cũng như Tôn Trung Sơn ngày trước, chủ trương Tam dân chủ nghĩa là dân tộc bản địa, dân quyền và dân số. Trung Quốc phấn đấu kháng chiến tám, chín năm nay cũng vì ba chủ nghĩa ấy. Chúng ta phấn đấu trước hết cũng là vì dân tộc bản địa ” ( 29 ) .

  1. Sau năm 1945, Hồ Chí Minh viết: “Chính phủ cố gắng làm theo đúng ba chính sách: Dân sinh, Dân quyền và Dân tộc”

Ngày 12/10/1945, Hồ Chí Minh ký sắc lệnh về việc lấy Quốc hiệu Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trên những công văn, điện văn, đơn từ … thì sau đó không lâu tất cả chúng ta thấy dưới Quốc hiệu ấy lại Open ba cặp tiêu ngữ Độc lập – Tự do – Hạnh phúc. Theo tác giả Chương Thâu thì ba cặp tiêu ngữ Độc lập – Tự do – Hạnh phúc của Hồ Chí Minh hẳn là có nguồn gốc từ ba chủ nghĩa của Tôn Trung Sơn, được người tiếp thu và vận dụng phát minh sáng tạo ở Nước Ta ( 30 ). Tuy vẫn còn quan điểm chưa trọn vẹn đống ý với suy luận ấy, nhưng nếu đặt ba cặp từ Độc lập – Tự do – Hạnh phúc vào cách dùng từ Hồ Chí Minh về ba nguyên tắc của Chủ nghĩa tam dân là Dân tộc độc lập, Dân quyền tự do, Dân sinh niềm hạnh phúc thì thấy giữa chúng có mối liên hệ rất thân mật .
Tại phiên bế mạc kỳ họp thứ II Quốc hội khóa I nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 9/11/1946, Người nói : “ nhà nước cố gắng nỗ lực làm theo đúng ba chủ trương : Dân sinh, Dân quyền và Dân tộc ” ( 31 ). Điều đó cho thấy, nội dung dân tộc bản địa, dân quyền và dân số đã hóa thân vào thực tiễn, trở thành tiềm năng kiến thiết xây dựng quốc gia của chính phủ nước nhà Hồ Chí Minh quy trình tiến độ sau Cách mạng tháng 8/1945. Nếu như trước đây, Người thường viết dân tộc bản địa, dân quyền và dân số, thì lúc này lại viết dân số, dân quyền, dân tộc bản địa. Hẳn đây không phải là một sự ngẫu nhiên ! Vì rằng, Cách mạng tháng Tám thành công xuất sắc, độc lập dân tộc bản địa đã giành lại được ( tuy sau đó không lâu, giặc ngoại xâm lại kéo vào nước ta ) ; Nhà nước dân chủ nhân dân được thiết lập ; nhân dân Nước Ta mở màn được hưởng tự do, dân chủ dưới chính sách xã hội mới. Về lý luận, yếu tố dân tộc bản địa và dân quyền coi như đạt mục tiêu, nhưng nhân dân vẫn còn đói, rét, do vậy phải tập trung chuyên sâu nhiều cho việc xử lý yếu tố dân số, tạo đời sống ấm no để nhân dân phấn khởi tiến lên làm cách mạng CNXH. Nếu như Tôn Trung Sơn ý niệm : “ Trong chủ nghĩa dân số, yếu tố quan trọng thứ nhất là ăn ; yếu tố quan trọng thứ hai là mặc ” ( 32 ) thì giờ đây, Người đặc biệt quan trọng chú trọng : “ Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ ” ( 33 ) .
Trong Lời lôi kéo thi đua ái quốc viết ngày 11/6/1948, Hồ Chí Minh đã coi sự nghiệp cách mạng của Nước Ta là quyết tâm hoàn thành xong ba tiềm năng : “ … Trong cuộc thi đua ái quốc, tất cả chúng ta : Vừa kháng chiến, vừa kiến quốc. Kết quả tiên phong của thi đua ái quốc sẽ là : Toàn dân đủ ăn, đủ mặc ; Toàn dân biết đọc, biết viết ; Toàn bộ đội khá đầy đủ lương thực, khí giới để diệt giặc ngoại xâm ; Toàn quốc sẽ thống nhất độc lập trọn vẹn. Thế là tất cả chúng ta thực thi : Dân tộc độc lập ; Dân quyền tự do ; Dân sinh niềm hạnh phúc. Ba chủ nghĩa mà nhà đại cách mạng Tôn Văn đã nêu ra ” ( 34 ). Ở đây cần chú ý quan tâm rằng, Hồ Chí Minh thực thi yếu tố đó để làm cơ sở vững chãi tiến lên CNXH, chứ không như Tôn Trung Sơn triển khai Chủ nghĩa tam dân để thiết lập xã hội có đặc thù tư bản .
Nếu như Tôn Trung Sơn ý niệm, chủ nghĩa dân số chính là chủ nghĩa xã hội và là bạn tốt của chủ nghĩa cộng sản, thì Hồ Chí Minh nhấn mạnh vấn đề “ Nói một cách tóm tắt, mộc mạc, chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm mục đích làm cho nhân dân lao động thoát nạn nghèo nàn, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và sống một đời niềm hạnh phúc ” và “ Nếu dân đói là Đảng và nhà nước có lỗi ; nếu dân rét là Đảng và nhà nước có lỗi ; nếu dân dốt là Đảng và nhà nước có lỗi ; nếu dân ốm là Đảng và nhà nước có lỗi ” ( 35 ). Cho nên cán bộ đảng viên phải “ Lo trước thiên hạ, hưởng sau thiên hạ ”, “ cán bộ đi trước, làng nước theo sau ” …
Không phải ngẫu nhiên mà “ có người hỏi Nguyễn Ái Quốc : Ông là người thế nào ? Người cộng sản hay là người theo chủ nghĩa Tôn Dật Tiên ? ”. Hồ Chí Minh vấn đáp : “ Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm của nó : sự tu dưỡng đạo đức cá thể. Tôn giáo Giêsu có ưu điểm của nó : lòng nhân ái cao quý. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm của nó : chiêu thức thao tác biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm của nó : chủ trương của nó thích hợp với điều kiện kèm theo vương quốc chúng tôi. Khổng Tử, Giê su, Mác, Tôn bác sĩ, họ chẳng có điểm chung đó sao ? Họ đều muốn vì mưu cầu niềm hạnh phúc cho trái đất, mưu cầu phúc lợi cho xã hội. Nếu như thời nay họ còn sống trên đời, nếu như họ tụ tập lại một chỗ, tôi tin yêu rằng nhất định họ phải là những người bạn chung sống với nhau rất hoàn mĩ. Tôi nỗ lực làm người học trò nhỏ của những vị ấy. Tôi vẫn là tôi trước đây : một người yêu nước ” ( 36 ) .

Mặc dù nhận thấy “Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên là thích hợp nhất với hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam”(37) nhưng trước sau, Người đều khẳng định: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Lênin”(38). Điều đó càng chứng tỏ giá trị to lớn của chủ nghĩa Lênin cả về phương diện lý luận lẫn thực tiễn.

Chú thích
  • Viện Nghiên cứu Trung Quốc: Tôn Trung Sơn – cách mạng Tân Hợi và quan hệ Việt Nam – Trung Quốc, Nxb CTQG, HN, 2008, tr.84-90.
  • Phạm Văn Đồng: Hồ Chí Minh lãnh tụ của chúng ta, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1969, tr.20.
  • Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb Văn học, HN, 1970, tr.62.

( 3 ) Theo Phạm Xanh : “ Tôn Dật Ti và eci

Source: https://vh2.com.vn
Category : Đánh Giá