Networks Business Online Việt Nam & International VH2

Giáo trình tâm lý học đại cương nguyễn xuân thức – Tài liệu text

Đăng ngày 20 August, 2022 bởi admin

Giáo trình tâm lý học đại cương nguyễn xuân thức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 293 trang )

GIÁO TRÌNH TÂM LÍ HỌC ĐẠI CƯƠNG

GIÁO TRÌNH
TÂM LÍ HỌC ĐẠI CƯƠNG
(Dùng cho các trường Đại học Sư phạm)
Nguyễn Xuân Thức (Chủ biên)
LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay, kiến thức Tâm lí học cần thiết cho mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội và được giảng dạy trong các trường đại học thuộc
các nhóm ngành, nghề khác nhau. Môn Tâm lí học đại cương là
môn học chung nhất cung cấp những kiến thức cơ bản nhận dạng
khoa học tâm lí và là tri thức nền tảng để tiếp thu các kiến thức tâm
lí học chuyên sâu và tâm lí học liên ngành. Môn Tâm lí học đại
cương là môn học cơ bản trong chương trình đào tạo đại cương ở
các trường đại học và cao đẳng.
Giáo trình Tâm lí học đại cương được bộ môn Tâm lí học đại
cương – Khoa Tâm lí giáo dục biên soạn nhằm đáp ứng yêu cầu
giảng dạy, học tập của sinh viên các nhóm ngành thuộc các trường
đại học khác nhau.
Giáo trình Tâm học đại cương khi được biên soạn đã có sự
tiếp thu kế thừa và lựa chọn các tri thức của những tài liệu trước
đó và được sắp xếp lại ở một số đơn vị tri thức tâm lí học cho phù
hợp, khi giảng dạy tránh sự trùng lặp về tri thức giữa các phần.
Nội dung giáo trình Tâm học đại cương gồm sáu chương,
được phân công biên soạn như sau:

Chương thứ nhất Tâm lí học là một khoa học. GS.TS Nguyễn
Quang Uẩn và TS Nguyễn Xuân Thức.
Chương thứ hai Hoạt động. giao tiếp và sự hình thành phát
triển tâm lí. PGS.TS Trần Quốc Thành.

Chương thứ ba: Sự hình thành và phát triển tâm lí. GS.TS
Nguyễn Quang Uẩn và TS Nguyễn Xuân Thức.
Chương thứ tư Hoạt động nhận thức. TS Nguyễn Kim Quý,
TS Nguyễn Thị Huệ, ThS Nguyễn Đức Sơn.
Chương thứ 5. Tình cảm và ý chí. PGS.TS Hoàng Anh và
PGS.TS Lê Thị Bừng.
Chương thứ 6. Nhân cách và sự hình thành, phát triển nhân
cách. PGS.TS Nguyễn Thạc và TS Vũ Kim Thanh.
Bộ môn Tâm lí học đại cương đã cố gắng nhiều trong việc
biên soạn với mong muốn giáo trình sẽ là tài liệu tham khảo tốt cho
sinh viên, học viên. nghiên cứu sinh và cán bộ giảng dạy trong các
trường đại học. Khi biên soạn không tránh khỏi những khiếm
khuyết nhất định, mong nhận được các ý kiến đóng góp để giúp
cuốn giáo trình tiếp tục được hoàn thiện.
Bộ môn Tâm lí học dại cương
Chương 1: TÂM LÍ HỌC LÀ MỘT KHOA HỌC
Chương 2: HOẠT ĐỘNG, GIAO TIẾP VÀ SỰ HÌNH THÀN H, PHÁT TRIỂN
TÂM LÍ
Chương 3: SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TÂM LÍ, Ý THỨC
Chương 4: HOẠT ĐỘNG NHẬN THỨC
Chương 5: TÍN H CẢM VÀ Ý CHÍ
Chương 6: NHÂN CÁCH VÀ SỰ HÌNH THÀNH NHÂN CÁCH
Created by AM Word2CHM

Chương 1: TÂM LÍ HỌC LÀ MỘT KHOA HỌC
GIÁO TRÌNH TÂM LÍ HỌC ĐẠI CƯƠNG

Từ khi loài người sinh ra, trên Trái Đất xuất hiện một hiện
tượng hoàn toàn mới mẻ – hiện tượng tâm lí người mà nền văn

minh cổ đại gọi là linh hồn. Khoa học nghiên cứu hiện tượng này là
tâm lí học.
Từ những tư tưởng đầu tiên sơ khai về hiện tượng tâm lí, tâm
lí học đã hình thành, phát triển không ngừng và ngày càng giữ một
vị trí quan trọng trong nhóm các khoa học về con người. Đây là một
khoa học có ý nghĩa to lớn trong việc phát huy nhân tố con người
trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.

I. ĐỐI TƯỢNG, NHIỆM VỤ CỦA TÂM LÍ HỌC
II. BẢN CHẤT, CHỨC NĂNG, PHÂN LOẠI CÁC HIỆN TƯỢNG TÂM LÍ
III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU TÂM LÍ
IV. VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA TÂM LÍ HỌC TRONG CUỘC SỐNG VÀ HOẠT
ĐỘNG
CÂU HỎI ÔN TẬP
Created by AM Word2CHM

I. ĐỐI TƯỢNG, NHIỆM VỤ CỦA TÂM LÍ HỌC
GIÁO TRÌNH TÂM LÍ HỌC ĐẠI CƯƠNG à Chương 1: TÂM LÍ HỌC LÀ MỘT KHOA HỌC

1. Vài nét về lịch sử hình thành và phát triển tâm lí học
1.1. Những tư tưởng tâm lí học thời cổ đại
Loài người ra đời trên Trái Đất này mới được khoảng 10 vạn
năm – con người trí khôn có một cuộc sống có lí trí, tuy buổi đầu
còn rất sơ khai, mông muội.
Trong các di chỉ của người nguyên thuỷ, người ta thấy những
bằng cứ chứng tỏ đã có quan niệm về cuộc sống của “hồn”,
“phách” sau cái chết của thể xác. Trong các bản văn tự đầu tiên từ
thời cổ đại, trong các kinh ở ấn Độ đã có những nhận xét về tính
chất của “hồn”, đã có những ý tưởng tiền khoa học về tâm lí.

– Khổng Tử (551 – 479 TCN) nói đến chữ “tâm” của con người
là “nhân, trí, dũng”, về sau học trò của Khổng Tử nêu thành “nhân,
lễ, nghĩa, trí, tín”.
– Nhà hiền triết Hi Lạp cổ đại là Xôcrát (469 – 399 TCN) đã
tuyên bố câu châm ngôn nổi tiếng “Hãy tự biết mình”. Đây là một
định hướng có giá trị to lớn cho tâm lí học: con người có thể và cần
phải tự hiểu biết mình, tự nhận thức, tự ý thức về cái ta.
Người đầu tiên hbn về tâm hồn” là Arixtốt (384 – 322 TCN).
ông là một trong những người có quan điểm duy vật về tâm hồn
con người. Arixtốt cho rằng, tâm hồn gắn liền với thể xác tâm hồn
có ba loại:
+ Tâm hồn thực vật có chung ở người và động vật làm chức
năng dinh dưỡng (còn gọi là “tâm hồn dinh dưỡng”).

+ Tâm hồn động vật có chung ở người và động vật làm chức
năng cảm giác, vận động (còn gọi là htm hồn cảm giác”).
+ Tâm hồn trí tuệ chỉ có ở người (còn gọi là “tâm hồn suy
ngưhĩ”).
Quan điểm của Arixtốt đối lập với quan điểm của nhà triết học
duy tâm cô đại Phlatong (428 – 348 TCN). Phlatongcho rằng, tâm
hồn là cái có trước, thực tại có sau, tâm hồn do Thượng đế sinh ra.
Tâm hồn trí tuệ nằm ở trong đầu, chỉ có ở giai cấp chủ nô, tâm hồn
khát vọng nằm ở bụng và chỉ có ở tầng lớp nô lệ.
– Đối lập với quan điểm duy tâm thời cổ đại về tâm hồn là
quan điểm của các nhà triết học duy vật như: Thalet (thế kỉ thứ VII V TCN); Anaxứimn (thế kỉ V TCN), Hêrachlít (thế kỉ VI – V TCN)…
cho rằng tâm lí, tâm hồn cũng như vạn vật đều được cấu tạo từ vật
chất như: nước, lửa, không khí, đất. Còn Đêmôcrít (460 – 370 TCN)
cho rằng tâm hồn do nguyên tử cấu tạo thành, trong đó “nguyên tử
lửa” là nhân tố tạo nên tâm lí. Thuyết ngũ hành coi kim, mộc, thuỷ,

hoả, thổ tạo nên vạn vật trong đó có cả tâm hồn.
Các quan điểm duy vật và duy tâm luôn đấu tranh mãnh liệt
xung quanh mối quan hệ vật chất và tinh thần, tâm lí và vật chất.
1.2. Những tư tưởng tâm lí học từ nủa đầu thế kỉ XIX trở về
trước
– Trong suốt thời kì trung cổ, tâm lí học mang tính chất thần bí
– bản thể huyền bí. Nghiên cứu về cuộc sống tâm hồn bị quy định
bởi các nhiệm vụ thần học, do vậy mọi kết quả nghiên cứu chỉ
nhằm xem tâm hồn người sẽ phải đưa tới xứ sở của sự hưng thịnh
như thế nào?

– Thuyết nhị nguyên: R. Đềcác (1596 – 1650) đại diện cho
phái nhị nguyên luận” cho rằng vật chất và tâm hồn là hai thực thể
song song tồn tại. Đềcác coi cơ thể con người phản xạ như một
chiếc máy. Còn bản thể tinh thần, tâm lí của con người thì không
thể biết được. Song Đề các cũng đã đặt cơ sở đầu tiên cho việc
tìm ra cơ chế phản xạ trong hoạt động tâm lí.
Sang thế kỉ XVIII, tâm lí học bắt đầu có tên gọi. Nhà triết học
Đức Vôn Phơ đã chia nhân chủng học (nhân học) ra thành hai thứ
khoa học, một là khoa học về cơ thể, hai là tâm lí học. Năm 1732,
ông xuất bản cuốn “Tâm lí học kinh nghiệm”. Sau đó 2 năm (1734)
ra đời cuốn “Tâm lí học lí trí”. Thế là tâm lí học” ra đời từ đó.
– Các thế kỉ XVII – XVIII – XIX cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa
duy tâm và duy vật xung quanh mối quan hệ giữa tâm và vật.
+ Các nhà triết học duy tâm chủ quan như Béccơli (1685 1753), E. Makhơ (1838 – 1916) cho rằng thế giới không có thực,
thế giới chỉ là “phức hợp các cảm giác chủ quan” của con người.
Còn D. Hium (1711 – 1776) coi thế giới chỉ là những “kinh nghiệm
chủ quan”. Nguồn gốc của kinh nghiệm là do đâu? Hium cho rằng
con người không thể biết. Vì thế, người ta vẫn coi Hium thuộc vào

phái bất khả tri.
Học thuyết duy tâm phát triển tới mức độ cao thể hiện ở “ý
niệm tuyệt đối” của Hêghen.
+ Thế kỉ XVII – XVIII – XIX, các nhà triết học và tâm lí học
phương Tây đã phát triển chủ nghĩa duy vật lên một bước cao hơn:
Spinôda (1632 – 1667) coi tất cả các vật chất đều có tư duy,
Lametri (1709 – 1751) một trong các nhà sáng lập ra chủ nghĩa duy
vật Pháp thừa nhận chỉ có cơ thể mới có cảm giác; còn Canbanic

(1757 – 1808) cho rằng não tiết ra tư tưởng, giống như gan tiết ra
mật.
L. Phơbách (1804 – 1872) nhà duy vật lỗi lạc bậc nhất trước
khi chủ nghĩa Mác ra đời, khẳng định: Tinh thần, tâm lí không thể
tách rời khỏi não người, nó là sản vật của thứ vật chất phát triển tới
mức độ cao là bộ não.
Đến nửa đầu thế kỉ XIX có rất nhiều điều kiện để tâm lí học
trưởng thành, tự tách ra khỏi mối quan hệ phụ thuộc chặt chẽ vào
triết học với tư cách là một bộ phận, một chuyên ngành của triết
học.
1.3. Tâm lí học trở thành một khoa học độc lập
– Từ đầu thế kỉ XIX trở đi, nền sản xuất thế giới đã phát triển
mạnh, thúc đẩy sự tiến bộ không ngừng của nhiều lĩnh vực khoa
học, kĩ thuật, tạo điều kiện cho tâm lí học trở thành một khoa học
độc lập Trong đó phải kể tới thành tựu của các ngành khoa học có
liên quan như: thuyết tiến hoá của S. Đácuyn (1809 – 1882) nhà
duy vật Anh, thuyết tâm sinh lí học giác quan của Hemhôn (1821 1894) người Đức, thuyết tâm – vật lí học của Phécne (1801 – 1887)
và Vêbe (1795 – 1878) cả hai đều là người Đức, tâm lí học phát
sinh của Gantôn (1822 – 1911) người Anh, và các công trình
nghiên cứu về tâm thần học của bác sĩ Sáccô (1875 – 1893) người

Pháp…
– Thành tựu của chính khoa học tâm lí lúc bấy giờ, cùng với
thành tựu của các lĩnh vực khoa học nói trên là điều kiện cần thiết
giúp cho tâm lí học đã đến lúc trở thành khoa học độc lập. Đặc biệt
trong lịch sử tâm lí học, một sự kiện không thể không nhắc tới là
vào năm 1879, nhà tâm lí học Đức Vuntơ (1832 – 1920) đã sáng

lập ra phòng thí nghiệm tâm lí học đầu tiên trên thế giới tại thành
phố Laixic. Và một năm sau đó trở thành Viện Tâm lí học đầu tiên
của thế giới, xuất bản các tạp chí tâm lí học. Từ vương quốc của
chủ nghĩa duy tâm, coi ý thức chủ quan là đối tượng của tâm lí học
và con đường nghiên cứu ý thức là các phương pháp nội quan, tự
quan sát, Vuntơ đã bắt đầu chuyển sang nghiên cứu tâm lí, ý thức
một cách khách quan bằng quan sát, thực nghiệm, đo đạc…
– Để góp Phần tấn công vào chủ nghĩa duy tâm, đầu thế kỉ XX
các dòng phái tâm lí học khách quan ra đời, đó là: tâm lí học hành
vi, tâm lí học Gestalt, phân tâm học. Trong thế kỉ XX còn có những
dòng phái tâm lí học khác có vai trò nhất định trong lịch sử phát
triển khoa học tâm lí hiện đại như dòng phái tâm lí học nhân văn,
tâm lí học nhận thức. Và nhất là sau Cách mạng tháng Mười năm
1917 thành công ở Nga, dòng phái tâm lí học hoạt động do các nhà
tâm lí học Xô viết sáng lập đã đem lại những bước ngoặt lịch sử
đáng kể trong tâm lí học.
2. Đối tượng, nhiệm vụ của tâm lí học
2.1. Đối tượng của tâm học
Trong tác phẩm “Phép biện chứng của tự nhiên” Ph. Ăngghen
đã chỉ rõ thế giới luôn luôn vận động, mỗi một khoa học nghiên cứu
một dạng vận động của thế giới. Các khoa học phân tích các dạng
vận động của thế giới tự nhiên thuộc nhóm khoa học tự nhiên. Các

khoa học phân tích các dạng vận động của xã hội thuộc nhóm các
khoa học xã hội. Các khoa học nghiên cứu các dạng vận động
chuyển tiếp trung gian từ dạng vận động này sang dạng vận động
kia được gọi là các khoa học trung gian, chẳng hạn lí sinh học, hoá
sinh học, tâm lí học… Trong đó tâm lí học nghiên cứu dạng vận

động chuyển tiếp từ vận động sinh vật sang vận động xã hội, từ thế
giới khách quan vào mỗi con người sinh ra hiện tượng tâm lí – với
tư cách một hiện tượng tinh thần.
Trong lịch sử xa xưa của nhân loại, trong tiếng Latinh:
“Psyche” là “linh hồn”, tinh thần” và “logos” là “học thuyết”, là “khoa
học”, vì thế “tâm lí học (Psychologie) là khoa học về tâm hồn. Nói
một cách khái quát nhất: Tâm lí bao gồm tất cả những hiện tượng
tinh thần xảy ra trong đầu óc con người, gắn liền và điều hành mọi
hành động, hoạt động của con người. Các hiện tượng tâm lí đóng
vai trò quan trọng đặc biệt trong đời sống con người, trong quan hệ
giữa con người với con người và con người với cả xã hội loài
người.
Như vậy, đối tượng của tâm lí học là các hiện tượng tâm lí
với tư cách là một hiện tượng tinh thần do thế giới khách quan tác
động vào não con người sinh ra, gọi chung là các hoạt động tâm lí.
Tâm lí học nghiên cứu sự hình thành, vận hành và phát triển của
hoạt động tâm lí.
2.2. Nhiệm vụ của tâm lí học
Nhiệm vụ cơ bản của tâm lí học là nghiên cứu bản chất của
hoạt động tâm lí, các quy luật nảy sinh và phát triển tâm lí, cơ chế
diễn biến và thể hiện tâm lí, quy luật về mối quan hệ giữa các hiện
tượng tâm lí. cụ thể là nghiên cứu:
+ Những yếu tố khách quan, chủ quan nào đã tạo ra tâm lí người.

+ Cơ chế hình thành, biểu hiện của hoạt động tâm lí.
+ Tâm lí của con người hoạt động như thế nào?
+ Chức năng, vai trò của tâm lí đối với hoạt động của con

người.
– Có thể nêu lên các nhiệm vụ cụ thể của tâm lí học như sau:
+ Nghiên cứu bản chất của hoạt động tâm lí cả về mặt số
lượng và chất lượng.
+ Phát hiện các quy luật hình thành phát triển tâm lí.
+ Tìm ra cơ chế của các hiện tượng tâm lí.
Trên cơ sở các thành tựu nghiên cứu, tâm lí học đưa ra
những giải pháp hữu hiệu cho việc hình thành, phát triển tâm lí, sử
dụng tâm lí trong nhân tố con người có hiệu quả nhất. Để thực hiện
các nhiệm vụ nói trên, tâm lí học phải liên kết, phối hợp chặt chẽ
với nhiều khoa học khác.
3. Các quan điểm cơ bản trong tâm lí học hiện đại
3. 1. Tâm lí học hành vi
Chủ nghĩa hành vi do nhà tâm lí học Mĩ J. Oatsơn (1878 1958) sáng lập. J. Oatsơn cho rằng tâm lí học không mô tả, giảng
giải các trạng thái ý thức mà chỉ nghiên cứu hành vi của cơ thể ở
con người cũng như ở động vật. Hành vi được hiểu là tổng số các
cử động bên ngoài nảy sinh ở cơ thể nhằm đáp lại một kích thích
nào đó. Toàn bộ hành vi, phản ứng của con người và động vật thể
hiện bằng công thức:
S-R
(Stimulus – Reaction)
Kích thích – Phản ứng
Với Công thức trên, J. Oatsơn đã nêu lên một quan điểm tiến
bộ trong tâm lí học: coi hành vi là do ngoại cảnh quyết định, hành vi

có thể quan sát được, nghiên cứu được một cách khách quan, từ
đó có thể điều khiển hành vi theo phương pháp “thử – sai”. Nhưng
chủ nghĩa hành vi đã quan niệm một cách cơ học, máy móc về
hành vi, đánh đồng hành vi của con người với hành vi của con vật,
hành vi chỉ còn là những phản ứng máy móc nhằm đáp lại kích
thích, giúp cho cơ thể thích nghi với môi trường xung quanh. Chủ
nghĩa hành vi đồng nhất phản ứng với nội dung tâm lí bên trong
làm mất tính chủ thể, tính xã hội của tâm lí con người, đồng nhất
tâm lí con người với tâm lí động vật, con người chỉ phản ứng trong
thế giới một cách cơ học, máy móc. Đây chính là quan điểm tự
nhiên chủ nghĩa, phi lịch sử và thực dụng.
Về sau này các đại biểu của chủ nghĩa hành vi mới như:
Tonmen, Hulo, Skinơ… có đưa vào công thức S – R những “biến số
trung gian” bao hàm một số yếu tố như: nhu cầu, trạng thái chờ
đón, kinh nghiệm sống của con người, hoặc hành vi tạo tác
“operant” nhằm đáp lại những kích thích có lợi cho cơ thể, nhưng
về cơ bản chủ nghĩa hành vi mới vẫn mang tính máy móc, thực
dụng của chủ nghĩa hành vi cổ điển Oatsơn.
3.2. Tâm lí học Gestall (còn gọi là tâm lí học cấu trúc)
Dòng phái này ra đời ở Đức, gắn liền với tên tuổi các nhà tâm
lí học: Vécthaimơ (1880 – 1943), Côlơ (1887 – 1967), Côpca (1886 1947). Họ đi sâu nghiên cứu các quy luật về tính ổn định và tính
trọn vẹn của tri giác, quy luật “bừng sáng” của tư duy. Trên cơ sở
thực nghiệm, các nhà tâm lí học Gestalt khẳng định các quy luật
của tri giác, tư duy và tâm lí của con người do các cấu trúc tiền
định của não quyết định. Các nhà tâm lí học Gestalt ít chú ý đến vai
trò của vốn kinh nghiệm sống, kinh nghiệm xã hội lịch sử.

3.3. Phân tâm học

Thuyết phân tâm do S. Phrơt (1859 – 1939), bác sĩ người áo
xây dựng nên. Luận điểm cơ bản của Phrơt là tách con người
thành ba khối: cái ấy (cái vô thức), cái tôi và cái siêu tôi. Cái ấy bao
gồm các bản năng vô thức: ăn uống, tình dục, tự vệ, trong đó bản
năng tình dục giữ vai trò trung tâm quyết định toàn bộ đời sống tâm
lí và hành vi của con người, cái ấy tồn tại theo nguyên tắc thoả
mãn và đòi hỏi: Cái tôi – con người thường ngày, con người có ý
thức tồn tại theo nguyên tắc hiện thực. Cái tôi có ý thức theo Phrớt
là cái tôi giả hiệu, cái tôi bề ngoài của cái nhân lõi bên trong là “cái
ấy” Cái siêu tôi – là cái siêu phàm, “cái tôi lí tưởng” không bao giờ
vươn tới được và tồn tại theo nguyên tắc kiểm duyệt, chèn ép. Như
vậy, phân tâm học đã đề cao quá đáng cái bản năng vô thức dẫn
đến phủ nhận ý thức, phủ nhận bản chất xã hội, lịch sử của tâm lí
con người đồng nhất tâm lí của con người với tâm lí loài vật Học
thuyết Phrớt là cơ sở ban đầu của chủ nghĩa hiện sinh, thể hiện
quan điểm sinh vật hoá tâm lí con người.
Tóm lại, ba dòng phái tâm lí học nói trên ra đời ở cuối thế kỉ
XIX đầu thế kỉ XX góp phần tấn công vào dòng phái chủ quan trong
tâm lí học, đưa tâm lí học đi theo hướng khách quan. Nhưng do
những giới hạn lịch sử, ở họ có những hạn chế nhất định như thể
hiện xu thế cơ học hoá, sinh vật hoá tâm lí con người, bỏ qua bản
chất xã hội lịch sử và tính chủ thể của đời sống tâm lí con người.
3.4. Tâm lí học nhân văn
Dòng phái tâm lí học nhân văn do C. Rôgiơ (1902 – 1987) và
A. Maxlâu (1908 – 1972) sáng lập. Các nhà tâm lí học nhân văn
quan niệm rằng bản chất con người vốn tốt đẹp, con người có lòng

vị tha, có tiềm năng kì diệu.
Maxlâu đã nêu lên 5 mức độ nhu cầu cơ bản của con người

xét thứ tự từ thấp đến cao:
– Nhu cầu sinh lí cơ bản,
– Nhu cầu an toàn;
– Nhu cầu về quan hệ xã hội;
– Nhu cầu được kính nể, ngưỡng mộ…
– Nhu cầu phát huy bản ngã, thành đạt.
C. Rôgiơ cho rằng con người ta cần phải đối xử với nhau một
cách tế nhị, cởi mở, biết lắng nghe và chờ đợi, cảm thông với
nhau. Tâm lí học cần phải giúp cho con người tìm được bản ngã
đích thực của mình, để có thể sống một cách thoải mái, cởi mở,
hồn nhiên và sáng tạo. Tuy nhiên, tâm lí học nhân văn đề cao
những điều cảm nghiệm, thể nghiệm chủ quan của bản thân mỗi
người, tách con người khỏi các mối quan hệ xã hội, chú ý tới mặt
nhân văn trừu tượng trong con người, vì thế thiếu vắng con người
trong hoạt động thực tiễn.
3.5. Tâm lí học nhận thức
Hai đại biểu nổi tiếng của tâm lí học nhận thức là G. Piagiê
(1896 – 1980) (Thuỵ Sĩ) và G. Brunơ (trước ở Mĩ, sau đó ở Anh).
Tâm lí học nhận thức coi hoạt động nhận thức là đối tượng nghiên
cứu của mình. Đặc điểm tiến bộ nổi bật của dòng phái tâm lí học
này là nghiên cứu tâm lí con người, nhận thức của con người trong
mối quan hệ với môi trường, với cơ thể và với não bộ. Vì thế, họ đã
phát hiện ra nhiều sự kiện khoa học có giá trị trong các vấn đề tri
giác, trí nhớ, tư duy, ngôn ngữ… làm cho các lĩnh vực nghiên cứu

nói trên đạt tới một trình độ mới. Đồng thời họ cũng đã xây dựng
được nhiều phương pháp nghiên cứu cụ thể đóng góp cho khoa
học tâm lí ở những năm 50 – 60 của thế kỉ XX. Tuy nhiên dòng phái
này cũng có những hạn chế, họ coi nhận thức của con người như

là sự nỗ lực của ý chí để đưa đến sự thay đổi vốn kinh nghiệm, vốn
tri thức của chủ thể, nhằm thích nghi, cân bằng với thế giới, chưa
thấy hết ý nghĩa tích cực, ý nghĩa thực tiễn của hoạt động nhận
thức.
Tất cả những dòng phái tâm lí học nói trên đều có những
đóng góp nhất định cho sự hình thành và phát triển của khoa học
tâm lí. Song do những hạn chế lịch sử, họ thiếu một cơ sở phương
pháp luận khoa học biện chứng, vì vậy họ vẫn chưa có quan điểm
đầy đủ và đúng đắn về con người, về hoạt động tâm lí của con
người… Sự ra đời của tâm lí học mácxit hay còn gọi là tâm lí học
hoạt động đã góp phần đáng kể vào việc khắc phục hạn chế nói
trên và tiếp tục đưa tâm lí học lên đỉnh cao của sự phát triển.
3.6. Tâm lí học hoạt động
Dòng phái tâm lí học này do các nhà tâm lí học Xô viết sáng
lập như L.X. Vưgốtxki (1896 – 1934), X.L. Rubinstêin (1902 – 1960),
A.N. Lêônchiép (1903 – 1979), A.R. Luria (1902 – 1977)… Đây là
dòng phái tâm lí học lấy triết học Mác – Lênin làm cơ sở lí luận và
phương pháp luận, xây dựng nền tâm lí học lịch sử người: coi tâm
lí học là sự phản ánh thế giới khách quan vào não, thông qua hoạt
động.
Tâm lí người mang tính chủ thể, có bản chất xã hội, tâm lí người
được hình thành, phát triển và thể hiện trong hoạt động và trong
các mối quan hệ giao lưu của con người trong xã hội. Chính vì thế

tâm lí học mácxit được gọi là “tâm lí học hoạt động”.

Created by AM Word2CHM

II. BẢN CHẤT, CHỨC NĂNG, PHÂN LOẠI CÁC HIỆN
TƯỢNG TÂM LÍ
GIÁO TRÌNH TÂM LÍ HỌC ĐẠI CƯƠNG à Chương 1: TÂM LÍ HỌC LÀ MỘT KHOA HỌC

1. Bản chất của tâm lí người
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: Tâm lí người là sự
phản ánh hiện thực khách quan vào não người thông qua chủ thể
tâm lí người có bản chất xã hội – lịch sử.
1.1. Tâm lí người là sự phản ánh hiện thực khách quan vào
não người thông qua chủ thể
Tâm lí người không phải do thượng đế, do trời sinh ra, cũng
không phải là do não tiết ra như gan tiết ra mật. tâm lí người là sự
phản ánh hiện thực khách quan vào não con người thông qua,”ăng
kính chủ quan”.
Thế giới khách quan tồn tại bằngcác thuốộ tính không gian,
thời gian và luông vận động. Phản ánh là thuộc tính chung của mọi
sự vật, hiện tượng đang vận động. Nói một cách chung nhất, phản
ánh là quá trình tác động qua lại giữa hệ thống này và hệ thống
khác, kết quả là để lại dấu vết (hình ảnh) tác động ở cả hệ thống
tác động và hệ thống chịu sự tác động, chẳng hạn:
+ Viên phấn được dùng để viết lên bảng đen để lại vết phấn
trên bảng và ngược lại bảng đen làm mòn (để lại vết) trên viên
phấn (phản ánh cơ học).
+ Hệ thống khí hyđrô tác động qua lại với hệ thống khí ôxi, đó
là phản ánh (phản ứng) hoá học để lại một vết chung của hai hệ
thống là nước (2H2 + o2 = 2H2o).
Phản ánh diễn ra từ đơn giản đến phức tạp và có sự chuyển
hoá lẫn nhau, từ phản ánh cơ vật lí, hoá học đến phản ánh sinh vật

và phản ánh xã hội, trong đó có phản ánh tâm lí.
– Phản ánh tâm lí là một loại phản ánh đặc biệt:
+ Đó là sự tác động của hiện tượng khách quan vào con
người, vào hệ thần kinh, bộ não người – tổ chức cao nhất của vật
chất, Chỉ có hệ thần kinh và bộ não người mới có khả năng nhận
tác động của hiện thực khách quan, tạo ra trên não hình ảnh tinh
thần (tâm lí) chứa đựng trong vết vật chất, đó là các quá trình sinh
lí, sinh hoá ở trong hệ thần kinh và não bộ. C. Mác nói: Tinh thần,
tư tưởng, tâm lí… chẳng qua là vật chất được chuyển vào trong
đầu óc, biến đổi trong đó mà có.
Điều đó có nghĩa là, về mặt cơ chế hình thành và diễn biến
của tâm lí có thể coi tâm lí diễn ra theo cơ chế một phản xạ có điều
kiện với ba khâu chủ yếu sau:
Khâu thứ nhất là khâu tiếp nhận các kích thích từ thế giới bên
ngoài tạo nên hưng phấn dẫn truyền vào não theo đường hướng
tâm.
Khâu thứ hai, diễn ra ở trung ương thần kinh của bộ não, tạo nên
các hình ảnh tâm lí.
Khâu thứ ba – khâu trả lời, dẫn truyền hưng phấn từ trung
ương thần kinh theo đường li tâm gây nên các phản ứng của cơ
thể. Người ta coi tất cả các hiện tượng tâm lí đều có cơ sở sinh lí là
các phản xạ có điều kiện.
+ Phản ánh tâm lí lí tạo ra “hình ảnh tâm lí” (bản “sao chép”,
“bản chụp”) về thế giới, hình ảnh tâm lí là kết quả của quá trình
phản ánh thế giới quan vào não. Song hình ảnh tâm lí khác về chất
so với các hình ảnh cơ, vật lí, sinh vật ở chỗ:

Hình ảnh tâm lí mang tính Sinh động, sáng tao, thí dụ: hình
ảnh tâm lí về cuốn sách trong đầu một con người biết chữ, khác xa

về vật chất với hình ảnh vật lí có tính chất “chét cứng”, hình ảnh
vật chất của chính cuốn sách đó có ở trong gương.
Hình ảnh tâm lí mang tính chủ thể, mang đậm màu sắc cá
nhân (hay nhóm người) mang hình ành tâm lí đó, hay nói cách
khác hình ảnh tâm lí là hình ảnh chủ quan về hiện thực khách
quan. Tính chủ thể của hình ảnh tâm lí thể hiện ở chỗ: mỗi chủ thể
trong khi tạo ra hình ảnh tâm lí về thế giới đã đưa vốn hiểu biết,
vốn kinh nghiệm, đưa cái riêng của mình (về nhu cầu, xu hướng,
tính khí, năng lực)… vào trong hình ảnh đó, làm cho nó mang đậm
màu sắc chủ quan.
Hay nói cách khác, con người phản ánh thế giới bằng hình
ảnh tâm lí, thông qua “lăng kính chủ quang của mình.
– Tính chủ thể trong phản ánh tâm lí thể hiện ở chỗ: + Cùng
nhận sự tác động của thế giới về cùng một hiện thực khách quan
nhưng ở những chủ thể khác nhau xuất hiện những hình ảnh tâm lí
với những mức độ, sắc thái khác nhau.
+ Cũng có khi cùng một hiện thực khách quan tác động đến
một chủ thể duy nhất nhưng vào những thời điểm khác nhau, ở
những hoàn cảnh khác nhau với trạng thái cơ thể, trạng thái tinh
thần khác nhau, có thể cho ta thấy mức độ biểu hiện và các sắc
thái tâm lí khác nhau ở chủ thể ấy.
+ Chính chủ thể mang hình ảnh tâm lí là người cảm nhận,
cảm nghiệm và thể hiện nó rõ nhất.
+ Cuối cùng thông qua các mức độ và sắc thái tâm lí khác
nhau mà mỗi chủ thể tỏ thái độ, hành vi khác nhau đối với hiện

thực.
Do đâu mà tâm lí người này khác tâm lí người kia về thế giới
khách quan?

Điều đó do nhiều yếu tố chi phối. trước hết, do mỗi con người
có những đặc điểm riêng về cơ thể, giác quan, hệ thần kinh và não
bộ. Mỗi người có hoàn cảnh sống khác nhau, điều kiện giáo dục
không như nhau và đặc biệt là mỗi cá nhân thể hiện mức độ tích
cực hoạt động, tích cực giao lưu khác nhau trong cuộc sống. Vì
thế, tâm lí người này khác tâm lí người kia.
Từ luận điểm nói trên, chúng ta có thể rút ra một số kết luận
thực tiễn sau:
– Tâm lí có nguồn gốc là thế giới khách quan, vì thế khi
nghiên cứu, cũng như khi hình thành, cải tạo tâm lí người phải
nghiên cứu hoàn cảnh trong đó con người sống và hoạt động.
– Tâm lí người mang tính chủ thể, vì thế trong dạy học, giáo
dục cũng như trong quan hệ ứng xử phải chú ý nguyên tắc sát đối
tượng (chú ý đến cái riêng trong tâm lí mỗi người). – Tâm lí là sản
phẩm của hoạt động và giao tiếp, vì thế phải tổ chức hoạt động và
các quan hệ giao tiếp đế nghiên cứu, hình thành và phát triển tâm lí
con người.
1.2. Bản chất xã hội của tâm 1í người
– Tâm lí người là sự phản ánh hiện thực khách quan, là chức
năng của não, là kinh nghiệm xã hội lịch sử biến thành cái riêngcủa
mỗi người.. âm lí con người khác xa với tâm lí của một số loài
động vật cao cấp ở chỗ: tâm lí người- ó bản chất xã hội và mang
tính lịch sử.

– Bản chất xã hội và tính lịch sử ủa ltâm í người thể hiêệ như
sau:
+ Tâm lí người có nguồn gốc là thế giới khách quan (hếgiới tự
nhiên và xã hội), trong đó cuộc sống xã hội là cái quyết định (quyết
định luận xã hội). Ngay cả phần tự nhiên trong thế giới cũng được

xã hội hoá. Phần xã hội hoá thế giới quyết định tâm hlíngười thể
hiện qua: các quan hệ kinh tế – xã hội, các mối quan hệ đạo đức
pháp quyền, các mối quan hệ con người – con người từ quan hệ
gia đình, làng xóm, quê hương, khối phố cho đến các quan hệ
nhóm, các quan hệ cộng đồng… các mối quan hệ trên quyết định
bản chất tâm lí người (bản chất con người là sự tổng hoà các mối
quan hệ xã hội). Trên thực tế, con người thoát li khỏi các quan hệ
xã hội, quan hệ người – người, đều làm cho tâm lí mất bản tính
người (những trường hợp trẻ em do động vật nuôi từ bé, tâm lí của
các trẻ này không hơn hẳn tâm lí loài vật).
+ Tâm lí người là sản phẩm của hoạt động và giao tiếp của
con người trong các mối quan hệ xã hội. Con người là một thực thể
tự nhiên và điều chủ yếu là một thực thể xã hội. Phần tự nhiên ở
con người (như đặc điểm cơ thể, giác quan, thần kinh, bộ não)
được xã hội hoá ở mức cao nhất. Là một thực thể xã hội, con
người là chủ thể của nhận thức, chủ thể của hoạt động, giao tiếp
với tư cách một chủ thể tích cực, chủ động sáng tạo, tâm lí của con
người là sản phẩm của hoạt động con người với tư cách là chủ thể
xã hội, vì thế tâm lí người mang đầy đủ dấu ấn xã hội lịch sử của
con người.
+ Tâm lí của mỗi cá nhân là kết quả của quá trình lĩnh hội,
tiếp thu vốn kinh nghiệm xã hôi, nền văn hoá xã hội, thông qua
hoạt động, giao tiếp (hoạt động vui chơi, học tập, lao động, công

tác xã hội), trong đó giáo dục giữ vai trò chủ đạo hoạt động của con
người và mối quan hệ giao tiếp của con người trong xã hội giữ vai
trò quyết định.
+ Tâm lí của mỗi người hình thành, phát triển và biến đổi
cùng với sự phát triển của lịch sử dân tộc và cộng đồng. Tâm lí của

mỗi người chịu sự chế ước bởi lịch sử của cá nhân và cộng đồng.
Tóm lại, tâm lí người có bản chất xã hội, vì thế phải nghiên cứu môi
trường xã hội, nền văn hoá xã hội, các quan hệ xã hội trong đó con
người sống và hoạt động. Cần phải tổ chức có hiệu quả hoạt động
dạy học và giáo dục, cũng như các hoạt động chủ đạo ở từng giai
đoạn lứa tuổi khác nhau để hình thành, phát triển tâm lí con
người…
2. Chức năng của tâm lí
Hiện thực khách quan quyết định tâm lí con người, nhưng
chính tâm lí con người lại tác động trở lại hiện thực bằng tính năng
động, sáng tạo của nó thông qua hoạt động, hành động, hành vi.
Mỗi hoạt động, hành động của con người đều do “cái tâm lí” điều
hành. Sự điều hành ấy biểu hiện qua những mặt sau:
-Tâm lí có chức năng chung là định hướng cho hoạt động, ở
đây muốn nói tới vai trò động cơ, mục đích của hoạt động. Động
cơ có thể là một nhu cầu được nhận thức, hứng thú, lí tưởng, niềm
tin, lương tâm, danh vọng…
– Tâm lí có thể thúc đẩy, lôi cuốn con người hoạt động, khắc phục
moi khó khăn vươn tới mục đích đã đề ra hoặc kiềm hãm, hạn chế
hoạt động của con người
– Tâm lí điều khiển, kiểm tra quá trình hoạt đông bằng chương

trình, kế hoạch, phương pháp, phương thức tiến hành hoạt động,
làm cho hoạt động của con người trở nên có ý thức, đem lại hiệu
quả nhất định.
Cuối cùng, tâm lí giúp con người điều chỉnh hoạt động cho
phù hợp với mục tiêu đã xác định, đồng thời phù hợp với điều kiện
và hoàn cảnh thực tế cho phép.
Nhờ có các chức năng định hướng, điều khiển, điều chỉnh nói

trên mà tâm lí giúp con người không chỉ thích ứng với hoàn cảnh
khách quan, mà còn nhận thức, cải tạo và sáng tạo ra thế giới, và
chính trong quá trình đó con người nhận thức, cải tạo chính bản
thân mình.
Nhờ chức năng điều hành nói trên mà nhân tố tâm lí giữ vai trò cơ
bản, có tính quyết định trong hoạt động của con người.
3. Phân loại hiện tượng tâm lí
Có nhiều cách phân loại hiện tượng tâm lí:
3.1. Cách phân loại phổ biến trong các tài liệu tâm lí học
Là việc phân loại các hiện tượng tâm lí theo thời gian tồn tại
của chúng và vị trí tương đối của chúng trong nhân cách. Theo
cách phân loại này các hiện tượng tâm lí có ba loại chính:
– Các quá trình tâm lí,
– Các trạng thái tâm lí,
– Các thuộc tính tâm lí.
* Các quá trình tâm là những hiện tượng tâm lí diễn ra trong thời
gian tương đối ngắn, có mở đầu, diễn biến, kết thúc tương đối rõ
ràng. Người ta thường phân biệt thành ba quá trình tâm lí:

– Các quá trình nhận thức gồm: cảm giác, tri giác, trí nhớ,
tưởng tượng, tư duy, ngôn ngữ.
– Các quá trình cảm xúc biểu thị sự vui mừng hay tức giận, dễ
chịu hay khó chịu, nhiệt tình hay thờ ơ…
-Quá trình hành động ý chí.
Các trạng thái tâm lý là hiện tượng tâm lí diễn ra trong thời
gian tương đối dài, việc mở đầu và kết thúc không rõ ràng, như:
chú ý, tâm trạng.
* Các thuộc tính tâm lí là những hiện tượng tâm lí tương đối
ổn định, khó hình thành và khó mất đi, tạo thành những nét riêng

của nhân cách. Người ta thường nói tới bốn nhóm thuộc tính tâm lí
cá nhân như: xu hướng, tính cách, khí chất và năng lực.
Có thể biểu diễn mối quan hệ giữa các hiện tượng tâm lí bằng
sơ đồ sau:
Sơ đồ 1. Mối quan hệ giữa các hiện tượng tâm lí

3.2. Có thể
phân biệt
hiện
tượng tâm
lí thành
– Các hiện tượng tâm lí có ý thức.
– Các hiện tượng tâm lí chưa được ý thức.
Chúng ta có nhiều nhận biết về các hiện tượng tâm lí có ý

thức (được nhận thức, hay tự giác). Có những hiện tượng tâm lí
chưa được ý thức vẫn luôn diễn ra, nhưng ta không ý thức về nó,
hoặc dưới ý thức, chưa kịp ý thức. Một số tác giả nước ngoài còn
chia ý thức thành hai mức: “vô thức” và “tiềm thức”.,”Vô thức” là
những lĩnh vực nằm ngoài ý thức, “khó lọt vào lĩnh vực ý thức (một
số bản năng vô thức, một số hành động lỡ lời, lỡ chân tay, ngủ mơ,
mộng du…) và mức độ “tiềm thức” là những hiện tượng bình
thường nằm sâu trong ý thức, thỉnh thoảng trong những hoàn cảnh
nhất định có thể được ý thức “chiếu rọi” tới.
3.3. Người ta còn phân biệt hiện tượng tâm lí thành:
– Hiện tượng tâm lí sống động: thể hiện trong hành vi, hoạt
động.
– Hiện tượng tâm lí tiềm tàng: tích đọng trong sản phẩm của
hoạt động.

3.4. Có thể phân biệt hiện tượng tâm lí của cá nhân với hiện
tượng tâm lí xã hội
(phong tục, tập quán, định kiến xã hội, tin đồn, dư luận xã hội,
tâm trạng xã hội, “mốt”…).
Như vậy, thế giới tâm lí của con người vô cùng đa dạng và
phức tạp. Các hiện tượng tâm lí có nhiều mức độ, cấp độ khác
nhau, có quan hệ đan xen vào nhau, chuyển hoá cho nhau.
Created by AM Word2CHM

III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU TÂM LÍ
GIÁO TRÌNH TÂM LÍ HỌC ĐẠI CƯƠNG à Chương 1: TÂM LÍ HỌC LÀ MỘT KHOA HỌC

1. Nguyên tắc phương pháp luận của việc nghiên cứu tâm lí
1. 1. Nguyên tắc đảm bảo tính khách quan
Đảm bảo tính khách quan trong nghiên cứu tâm lí là phải lấy
chính các hiện tượng tâm lí làm đối tượng nghiên cứu. Nghiên cứu
các hiện tượng tâm lí trong trạng thái tồn tại tự nhiên của nó, đảm
bảo tính trung thực, không thêm bớt trong quá trình nghiên cứu.
1.2. Nguyên tắc quyết định luận duy vật biện chứng
Nguyên tắc này chỉ rõ khi nghiên cứu tâm lí thừa nhận tâm lí
người mang bản chất xã hội lịch sử do yếu tố xã hội quyết định
nhưng không phủ nhận vai trò điều kiện của các yếu tố sinh học (tư
chất, hoạt động thần kinh cấp cao…) đặc biệt khẳng định vai trò
quyết định trực tiếp của hoạt động chủ thể.
1.3. Nguyên tắc thống nhất tâm lí, ý thức với hoạt động
Nguyên tắc này khẳng định tâm lí, ý thức không tách rời khỏi
hoạt động, nó được hình thành, bộc lộ và phát triển trong hoạt
động, đồng thời điều khiển, điều chỉnh hoạt động. Vì vậy khi nghiên
cứu tâm lí phải thông qua hoạt động, diễn biến và các sản phẩm

của hoạt động.
1.4. Nghiên cứu các hiện tượng tâm tí trong các môi liên hệ
giũa chúng với nhau và trong môi liên hệ giữa chúng với các
hiện tượng khác
Các hiện tượng tâm lí không tồn tại biệt lập mà chúng có
quan hệ chặt chẽ với nhau và với các hiện tượng tự nhiên, xã hội

Chương thứ ba : Sự hình thành và tăng trưởng tâm lí. GS.TSNguyễn Quang Uẩn và tiến sỹ Nguyễn Xuân Thức. Chương thứ tư Hoạt động nhận thức. TS Nguyễn Kim Quý, tiến sỹ Nguyễn Thị Huệ, ThS Nguyễn Đức Sơn. Chương thứ 5. Tình cảm và ý chí. PGS.TS Hoàng Anh vàPGS. TS Lê Thị Bừng. Chương thứ 6. Nhân cách và sự hình thành, tăng trưởng nhâncách. PGS.TS Nguyễn Thạc và TS Vũ Kim Thanh. Bộ môn Tâm lí học đại cương đã cố gắng nỗ lực nhiều trong việcbiên soạn với mong ước giáo trình sẽ là tài liệu tìm hiểu thêm tốt chosinh viên, học viên. nghiên cứu sinh và cán bộ giảng dạy trong cáctrường ĐH. Khi biên soạn không tránh khỏi những khiếmkhuyết nhất định, mong nhận được những quan điểm góp phần để giúpcuốn giáo trình liên tục được hoàn thành xong. Bộ môn Tâm lí học dại cươngChương 1 : TÂM LÍ HỌC LÀ MỘT KHOA HỌCChương 2 : HOẠT ĐỘNG, GIAO TIẾP VÀ SỰ HÌNH THÀN H, PHÁT TRIỂNTÂM LÍChương 3 : SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TÂM LÍ, Ý THỨCChương 4 : HOẠT ĐỘNG NHẬN THỨCChương 5 : TÍN H CẢM VÀ Ý CHÍChương 6 : NHÂN CÁCH VÀ SỰ HÌNH THÀNH NHÂN CÁCHCreated by AM Word2CHMChương 1 : TÂM LÍ HỌC LÀ MỘT KHOA HỌCGIÁO TRÌNH TÂM LÍ HỌC ĐẠI CƯƠNGTừ khi loài người sinh ra, trên Trái Đất Open một hiệntượng trọn vẹn mới mẻ và lạ mắt – hiện tượng kỳ lạ tâm lí người mà nền vănminh cổ đại gọi là linh hồn. Khoa học điều tra và nghiên cứu hiện tượng kỳ lạ này làtâm lí học. Từ những tư tưởng tiên phong sơ khai về hiện tượng kỳ lạ tâm lí, tâmlí học đã hình thành, tăng trưởng không ngừng và ngày càng giữ mộtvị trí quan trọng trong nhóm những khoa học về con người. Đây là mộtkhoa học có ý nghĩa to lớn trong việc phát huy tác nhân con ngườitrong mọi nghành nghề dịch vụ của đời sống xã hội. I. ĐỐI TƯỢNG, NHIỆM VỤ CỦA TÂM LÍ HỌCII. BẢN CHẤT, CHỨC NĂNG, PHÂN LOẠI CÁC HIỆN TƯỢNG TÂM LÍIII. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU TÂM LÍIV. VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA TÂM LÍ HỌC TRONG CUỘC SỐNG VÀ HOẠTĐỘNGCÂU HỎI ÔN TẬPCreated by AM Word2CHMI. ĐỐI TƯỢNG, NHIỆM VỤ CỦA TÂM LÍ HỌCGIÁO TRÌNH TÂM LÍ HỌC ĐẠI CƯƠNG à Chương 1 : TÂM LÍ HỌC LÀ MỘT KHOA HỌC1. Vài nét về lịch sử vẻ vang hình thành và tăng trưởng tâm lí học1. 1. Những tư tưởng tâm lí học thời cổ đạiLoài người sinh ra trên Trái Đất này mới được khoảng chừng 10 vạnnăm – con người trí khôn có một đời sống có lí trí, tuy buổi đầucòn rất sơ khai, mông muội. Trong những di chỉ của người nguyên thuỷ, người ta thấy nhữngbằng cứ chứng tỏ đã có ý niệm về đời sống của ” hồn “, ” phách ” sau cái chết của thể xác. Trong những bản văn tự tiên phong từthời cổ đại, trong những kinh ở ấn Độ đã có những nhận xét về tínhchất của ” hồn “, đã có những ý tưởng sáng tạo tiền khoa học về tâm lí. – Khổng Tử ( 551 – 479 TCN ) nói đến chữ ” tâm ” của con ngườilà ” nhân, trí, dũng “, về sau học trò của Khổng Tử nêu thành ” nhân, lễ, nghĩa, trí, tín “. – Nhà hiền triết Hi Lạp cổ đại là Xôcrát ( 469 – 399 TCN ) đãtuyên bố câu châm ngôn nổi tiếng ” Hãy tự biết mình “. Đây là mộtđịnh hướng có giá trị to lớn cho tâm lí học : con người hoàn toàn có thể và cầnphải tự hiểu biết mình, tự nhận thức, tự ý thức về cái ta. Người tiên phong hbn về tâm hồn ” là Arixtốt ( 384 – 322 TCN ). ông là một trong những người có quan điểm duy vật về tâm hồncon người. Arixtốt cho rằng, tâm hồn gắn liền với thể xác tâm hồncó ba loại : + Tâm hồn thực vật có chung ở người và động vật hoang dã làm chứcnăng dinh dưỡng ( còn gọi là ” tâm hồn dinh dưỡng ” ). + Tâm hồn động vật hoang dã có chung ở người và động vật hoang dã làm chứcnăng cảm xúc, hoạt động ( còn gọi là htm hồn cảm xúc ” ). + Tâm hồn trí tuệ chỉ có ở người ( còn gọi là ” tâm hồn suyngưhĩ ” ). Quan điểm của Arixtốt trái chiều với quan điểm của nhà triết họcduy tâm cô đại Phlatong ( 428 – 348 TCN ). Phlatongcho rằng, tâmhồn là cái có trước, thực tại có sau, tâm hồn do Thượng đế sinh ra. Tâm hồn trí tuệ nằm ở trong đầu, chỉ có ở giai cấp chủ nô, tâm hồnkhát vọng nằm ở bụng và chỉ có ở những tầng lớp nô lệ. – Đối lập với quan điểm duy tâm thời cổ đại về tâm hồn làquan điểm của những nhà triết học duy vật như : Thalet ( thế kỉ thứ VII V TCN ) ; Anaxứimn ( thế kỉ V TCN ), Hêrachlít ( thế kỉ VI – V TCN ) … cho rằng tâm lí, tâm hồn cũng như vạn vật đều được cấu trúc từ vậtchất như : nước, lửa, không khí, đất. Còn Đêmôcrít ( 460 – 370 TCN ) cho rằng tâm hồn do nguyên tử cấu trúc thành, trong đó ” nguyên tửlửa ” là tác nhân tạo nên tâm lí. Thuyết ngũ hành coi kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ tạo nên vạn vật trong đó có cả tâm hồn. Các quan điểm duy vật và duy tâm luôn đấu tranh mãnh liệtxung quanh mối quan hệ vật chất và niềm tin, tâm lí và vật chất. 1.2. Những tư tưởng tâm lí học từ nủa đầu thế kỉ XIX trở vềtrước – Trong suốt thời kì trung cổ, tâm lí học mang đặc thù thần bí – bản thể huyền bí. Nghiên cứu về đời sống tâm hồn bị quy địnhbởi những trách nhiệm thần học, do vậy mọi hiệu quả nghiên cứu và điều tra chỉnhằm xem tâm hồn người sẽ phải đưa tới xứ sở của sự hưng thịnhnhư thế nào ? – Thuyết nhị nguyên : R. Đềcác ( 1596 – 1650 ) đại diện thay mặt chophái nhị nguyên luận ” cho rằng vật chất và tâm hồn là hai thực thểsong tuy nhiên sống sót. Đềcác coi khung hình con người phản xạ như mộtchiếc máy. Còn bản thể ý thức, tâm lí của con người thì khôngthể biết được. Song Đề những cũng đã đặt cơ sở tiên phong cho việctìm ra chính sách phản xạ trong hoạt động giải trí tâm lí. Sang thế kỉ XVIII, tâm lí học khởi đầu có tên gọi. Nhà triết họcĐức Vôn Phơ đã chia nhân chủng học ( nhân học ) ra thành hai thứkhoa học, một là khoa học về khung hình, hai là tâm lí học. Năm 1732, ông xuất bản cuốn ” Tâm lí học kinh nghiệm tay nghề “. Sau đó 2 năm ( 1734 ) sinh ra cuốn ” Tâm lí học lí trí “. Thế là tâm lí học ” sinh ra từ đó. – Các thế kỉ XVII – XVIII – XIX cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩaduy tâm và duy vật xung quanh mối quan hệ giữa tâm và vật. + Các nhà triết học duy tâm chủ quan như Béccơli ( 1685 1753 ), E. Makhơ ( 1838 – 1916 ) cho rằng quốc tế không có thực, quốc tế chỉ là ” phức tạp những cảm xúc chủ quan ” của con người. Còn D. Hium ( 1711 – 1776 ) coi quốc tế chỉ là những ” kinh nghiệmchủ quan “. Nguồn gốc của kinh nghiệm tay nghề là do đâu ? Hium cho rằngcon người không hề biết. Vì thế, người ta vẫn coi Hium thuộc vàophái bất khả tri. Học thuyết duy tâm tăng trưởng tới mức độ cao biểu lộ ở ” ýniệm tuyệt đối ” của Hêghen. + Thế kỉ XVII – XVIII – XIX, những nhà triết học và tâm lí họcphương Tây đã tăng trưởng chủ nghĩa duy vật lên một bước cao hơn : Spinôda ( 1632 – 1667 ) coi tổng thể những vật chất đều có tư duy, Lametri ( 1709 – 1751 ) một trong những nhà sáng lập ra chủ nghĩa duyvật Pháp thừa nhận chỉ có khung hình mới có cảm xúc ; còn Canbanic ( 1757 – 1808 ) cho rằng não tiết ra tư tưởng, giống như gan tiết ramật. L. Phơbách ( 1804 – 1872 ) nhà duy vật lỗi lạc bậc nhất trướckhi chủ nghĩa Mác sinh ra, chứng minh và khẳng định : Tinh thần, tâm lí không thểtách rời khỏi não người, nó là sản vật của thứ vật chất tăng trưởng tớimức độ cao là bộ não. Đến nửa đầu thế kỉ XIX có rất nhiều điều kiện kèm theo để tâm lí họctrưởng thành, tự tách ra khỏi mối quan hệ nhờ vào ngặt nghèo vàotriết học với tư cách là một bộ phận, một chuyên ngành của triếthọc. 1.3. Tâm lí học trở thành một khoa học độc lập – Từ đầu thế kỉ XIX trở đi, nền sản xuất quốc tế đã phát triểnmạnh, thôi thúc sự tân tiến không ngừng của nhiều nghành nghề dịch vụ khoahọc, kĩ thuật, tạo điều kiện kèm theo cho tâm lí học trở thành một khoa họcđộc lập Trong đó phải kể tới thành tựu của những ngành khoa học cóliên quan như : thuyết tiến hoá của S. Đácuyn ( 1809 – 1882 ) nhàduy vật Anh, thuyết tâm sinh lí học giác quan của Hemhôn ( 1821 1894 ) người Đức, thuyết tâm – vật lí học của Phécne ( 1801 – 1887 ) và Vêbe ( 1795 – 1878 ) cả hai đều là người Đức, tâm lí học phátsinh của Gantôn ( 1822 – 1911 ) người Anh, và những công trìnhnghiên cứu về tâm thần học của bác sĩ Sáccô ( 1875 – 1893 ) ngườiPháp … – Thành tựu của chính khoa học tâm lí lúc bấy giờ, cùng vớithành tựu của những nghành khoa học nói trên là điều kiện kèm theo cần thiếtgiúp cho tâm lí học đã đến lúc trở thành khoa học độc lập. Đặc biệttrong lịch sử dân tộc tâm lí học, một sự kiện không hề không nhắc tới làvào năm 1879, nhà tâm lí học Đức Vuntơ ( 1832 – 1920 ) đã sánglập ra phòng thí nghiệm tâm lí học tiên phong trên quốc tế tại thànhphố Laixic. Và một năm sau đó trở thành Viện Tâm lí học đầu tiêncủa quốc tế, xuất bản những tạp chí tâm lí học. Từ vương quốc củachủ nghĩa duy tâm, coi ý thức chủ quan là đối tượng người tiêu dùng của tâm lí họcvà con đường nghiên cứu và điều tra ý thức là những giải pháp nội quan, tựquan sát, Vuntơ đã khởi đầu chuyển sang điều tra và nghiên cứu tâm lí, ý thứcmột cách khách quan bằng quan sát, thực nghiệm, đo đạc … – Để góp Phần tiến công vào chủ nghĩa duy tâm, đầu thế kỉ XXcác dòng phái tâm lí học khách quan sinh ra, đó là : tâm lí học hànhvi, tâm lí học Gestalt, phân tâm học. Trong thế kỉ XX còn có nhữngdòng phái tâm lí học khác có vai trò nhất định trong lịch sử vẻ vang pháttriển khoa học tâm lí tân tiến như dòng phái tâm lí học nhân văn, tâm lí học nhận thức. Và nhất là sau Cách mạng tháng Mười năm1917 thành công xuất sắc ở Nga, dòng phái tâm lí học hoạt động giải trí do những nhàtâm lí học Xô viết sáng lập đã đem lại những bước ngoặt lịch sửđáng kể trong tâm lí học. 2. Đối tượng, trách nhiệm của tâm lí học2. 1. Đối tượng của tâm họcTrong tác phẩm ” Phép biện chứng của tự nhiên ” Ph. Ăngghenđã chỉ rõ quốc tế luôn luôn hoạt động, mỗi một khoa học nghiên cứumột dạng hoạt động của quốc tế. Các khoa học nghiên cứu và phân tích những dạngvận động của quốc tế tự nhiên thuộc nhóm khoa học tự nhiên. Cáckhoa học nghiên cứu và phân tích những dạng hoạt động của xã hội thuộc nhóm cáckhoa học xã hội. Các khoa học điều tra và nghiên cứu những dạng vận độngchuyển tiếp trung gian từ dạng hoạt động này sang dạng vận độngkia được gọi là những khoa học trung gian, ví dụ điển hình lí sinh học, hoásinh học, tâm lí học … Trong đó tâm lí học nghiên cứu và điều tra dạng vậnđộng chuyển tiếp từ hoạt động sinh vật sang hoạt động xã hội, từ thếgiới khách quan vào mỗi con người sinh ra hiện tượng kỳ lạ tâm lí – vớitư cách một hiện tượng kỳ lạ niềm tin. Trong lịch sử vẻ vang rất lâu rồi của trái đất, trong tiếng Latinh : ” Psyche ” là ” linh hồn “, ý thức ” và ” logos ” là ” học thuyết “, là ” khoahọc “, vì vậy ” tâm lí học ( Psychologie ) là khoa học về tâm hồn. Nóimột cách khái quát nhất : Tâm lí gồm có toàn bộ những hiện tượngtinh thần xảy ra trong đầu óc con người, gắn liền và quản lý và điều hành mọihành động, hoạt động giải trí của con người. Các hiện tượng kỳ lạ tâm lí đóngvai trò quan trọng đặc biệt quan trọng trong đời sống con người, trong quan hệgiữa con người với con người và con người với cả xã hội loàingười. Như vậy, đối tượng người tiêu dùng của tâm lí học là những hiện tượng kỳ lạ tâm lívới tư cách là một hiện tượng kỳ lạ niềm tin do quốc tế khách quan tácđộng vào não con người sinh ra, gọi chung là những hoạt động giải trí tâm lí. Tâm lí học nghiên cứu và điều tra sự hình thành, quản lý và vận hành và tăng trưởng củahoạt động tâm lí. 2.2. Nhiệm vụ của tâm lí họcNhiệm vụ cơ bản của tâm lí học là nghiên cứu và điều tra thực chất củahoạt động tâm lí, những quy luật phát sinh và tăng trưởng tâm lí, cơ chếdiễn biến và biểu lộ tâm lí, quy luật về mối quan hệ giữa những hiệntượng tâm lí. đơn cử là nghiên cứu và điều tra : + Những yếu tố khách quan, chủ quan nào đã tạo ra tâm lí người. + Cơ chế hình thành, biểu lộ của hoạt động giải trí tâm lí. + Tâm lí của con người hoạt động giải trí như thế nào ? + Chức năng, vai trò của tâm lí so với hoạt động giải trí của conngười. – Có thể nêu lên những trách nhiệm đơn cử của tâm lí học như sau : + Nghiên cứu thực chất của hoạt động giải trí tâm lí cả về mặt sốlượng và chất lượng. + Phát hiện những quy luật hình thành tăng trưởng tâm lí. + Tìm ra chính sách của những hiện tượng kỳ lạ tâm lí. Trên cơ sở những thành tựu nghiên cứu và điều tra, tâm lí học đưa ranhững giải pháp hữu hiệu cho việc hình thành, tăng trưởng tâm lí, sửdụng tâm lí trong tác nhân con người có hiệu suất cao nhất. Để thực hiệncác trách nhiệm nói trên, tâm lí học phải link, phối hợp chặt chẽvới nhiều khoa học khác. 3. Các quan điểm cơ bản trong tâm lí học hiện đại3. 1. Tâm lí học tập viChủ nghĩa hành vi do nhà tâm lí học Mĩ J. Oatsơn ( 1878 1958 ) sáng lập. J. Oatsơn cho rằng tâm lí học không miêu tả, giảnggiải những trạng thái ý thức mà chỉ điều tra và nghiên cứu hành vi của khung hình ởcon người cũng như ở động vật hoang dã. Hành vi được hiểu là tổng số cáccử động bên ngoài phát sinh ở khung hình nhằm mục đích đáp lại một kích thíchnào đó. Toàn bộ hành vi, phản ứng của con người và động vật hoang dã thểhiện bằng công thức : S-R ( Stimulus – Reaction ) Kích thích – Phản ứngVới Công thức trên, J. Oatsơn đã nêu lên một quan điểm tiếnbộ trong tâm lí học : coi hành vi là do ngoại cảnh quyết định hành động, hành vicó thể quan sát được, điều tra và nghiên cứu được một cách khách quan, từđó hoàn toàn có thể tinh chỉnh và điều khiển hành vi theo giải pháp ” thử – sai “. Nhưngchủ nghĩa hành vi đã ý niệm một cách cơ học, máy móc vềhành vi, đánh đồng hành vi của con người với hành vi của con vật, hành vi chỉ còn là những phản ứng máy móc nhằm mục đích đáp lại kíchthích, giúp cho khung hình thích nghi với môi trường tự nhiên xung quanh. Chủnghĩa hành vi như nhau phản ứng với nội dung tâm lí bên tronglàm mất tính chủ thể, tính xã hội của tâm lí con người, đồng nhấttâm lí con người với tâm lí động vật hoang dã, con người chỉ phản ứng trongthế giới một cách cơ học, máy móc. Đây chính là quan điểm tựnhiên chủ nghĩa, phi lịch sử dân tộc và thực dụng. Về sau này những đại biểu của chủ nghĩa hành vi mới như : Tonmen, Hulo, Skinơ … có đưa vào công thức S – R những ” biến sốtrung gian ” bao hàm một số ít yếu tố như : nhu yếu, trạng thái chờđón, kinh nghiệm tay nghề sống của con người, hoặc hành vi tạo tác ” operant ” nhằm mục đích đáp lại những kích thích có lợi cho khung hình, nhưngvề cơ bản chủ nghĩa hành vi mới vẫn mang tính máy móc, thựcdụng của chủ nghĩa hành vi cổ xưa Oatsơn. 3.2. Tâm lí học Gestall ( còn gọi là tâm lí học cấu trúc ) Dòng phái này sinh ra ở Đức, gắn liền với tên tuổi những nhà tâmlí học : Vécthaimơ ( 1880 – 1943 ), Côlơ ( 1887 – 1967 ), Côpca ( 1886 1947 ). Họ đi sâu nghiên cứu và điều tra những quy luật về tính không thay đổi và tínhtrọn vẹn của tri giác, quy luật ” bừng sáng ” của tư duy. Trên cơ sởthực nghiệm, những nhà tâm lí học Gestalt khẳng định chắc chắn những quy luậtcủa tri giác, tư duy và tâm lí của con người do những cấu trúc tiềnđịnh của não quyết định hành động. Các nhà tâm lí học Gestalt ít chú ý quan tâm đến vaitrò của vốn kinh nghiệm tay nghề sống, kinh nghiệm tay nghề xã hội lịch sử dân tộc. 3.3. Phân tâm họcThuyết phân tâm do S. Phrơt ( 1859 – 1939 ), bác sĩ người áoxây dựng nên. Luận điểm cơ bản của Phrơt là tách con ngườithành ba khối : cái ấy ( cái vô thức ), cái tôi và cái siêu tôi. Cái ấy baogồm những bản năng vô thức : nhà hàng siêu thị, tình dục, tự vệ, trong đó bảnnăng tình dục giữ vai trò TT quyết định hành động hàng loạt đời sống tâmlí và hành vi của con người, cái ấy sống sót theo nguyên tắc thoảmãn và yên cầu : Cái tôi – con người thường ngày, con người có ýthức sống sót theo nguyên tắc hiện thực. Cái tôi có ý thức theo Phrớtlà cái tôi giả hiệu, cái tôi vẻ bên ngoài của cái nhân lõi bên trong là ” cáiấy ” Cái siêu tôi – là cái siêu phàm, ” cái tôi lí tưởng ” không bao giờvươn tới được và sống sót theo nguyên tắc kiểm duyệt, chèn ép. Nhưvậy, phân tâm học đã tôn vinh quá đáng cái bản năng vô thức dẫnđến phủ nhận ý thức, phủ nhận thực chất xã hội, lịch sử vẻ vang của tâm lícon người như nhau tâm lí của con người với tâm lí loài vật Họcthuyết Phrớt là cơ sở bắt đầu của chủ nghĩa hiện sinh, thể hiệnquan điểm sinh vật hoá tâm lí con người. Tóm lại, ba dòng phái tâm lí học nói trên sinh ra ở cuối thế kỉXIX đầu thế kỉ XX góp thêm phần tiến công vào dòng phái chủ quan trongtâm lí học, đưa tâm lí học đi theo hướng khách quan. Nhưng donhững số lượng giới hạn lịch sử vẻ vang, ở họ có những hạn chế nhất định như thểhiện xu thế cơ học hoá, sinh vật hoá tâm lí con người, bỏ lỡ bảnchất xã hội lịch sử dân tộc và tính chủ thể của đời sống tâm lí con người. 3.4. Tâm lí học nhân vănDòng phái tâm lí học nhân văn do C. Rôgiơ ( 1902 – 1987 ) vàA. Maxlâu ( 1908 – 1972 ) sáng lập. Các nhà tâm lí học nhân vănquan niệm rằng thực chất con người vốn tốt đẹp, con người có lòngvị tha, có tiềm năng kì diệu. Maxlâu đã nêu lên 5 mức độ nhu yếu cơ bản của con ngườixét thứ tự từ thấp đến cao : – Nhu cầu sinh lí cơ bản, – Nhu cầu bảo đảm an toàn ; – Nhu cầu về quan hệ xã hội ; – Nhu cầu được kính nể, ngưỡng mộ … – Nhu cầu phát huy bản ngã, thành đạt. C. Rôgiơ cho rằng con người ta cần phải đối xử với nhau mộtcách tế nhị, cởi mở, biết lắng nghe và chờ đón, cảm thông vớinhau. Tâm lí học cần phải giúp cho con người tìm được bản ngãđích thực của mình, để hoàn toàn có thể sống một cách tự do, cởi mở, hồn nhiên và phát minh sáng tạo. Tuy nhiên, tâm lí học nhân văn đề caonhững điều cảm nghiệm, thể nghiệm chủ quan của bản thân mỗingười, tách con người khỏi những mối quan hệ xã hội, chú ý quan tâm tới mặtnhân văn trừu tượng trong con người, vì vậy thiếu vắng con ngườitrong hoạt động giải trí thực tiễn. 3.5. Tâm lí học nhận thứcHai đại biểu nổi tiếng của tâm lí học nhận thức là G. Piagiê ( 1896 – 1980 ) ( Thuỵ Sĩ ) và G. Brunơ ( trước ở Mĩ, sau đó ở Anh ). Tâm lí học nhận thức coi hoạt động giải trí nhận thức là đối tượng người dùng nghiêncứu của mình. Đặc điểm văn minh điển hình nổi bật của dòng phái tâm lí họcnày là điều tra và nghiên cứu tâm lí con người, nhận thức của con người trongmối quan hệ với môi trường tự nhiên, với khung hình và với não bộ. Vì thế, họ đãphát hiện ra nhiều sự kiện khoa học có giá trị trong những yếu tố trigiác, trí nhớ, tư duy, ngôn từ … làm cho những nghành nghiên cứunói trên đạt tới một trình độ mới. Đồng thời họ cũng đã xây dựngđược nhiều chiêu thức nghiên cứu và điều tra đơn cử góp phần cho khoahọc tâm lí ở những năm 50 – 60 của thế kỉ XX. Tuy nhiên dòng pháinày cũng có những hạn chế, họ coi nhận thức của con người nhưlà sự nỗ lực của ý chí để đưa đến sự đổi khác vốn kinh nghiệm tay nghề, vốntri thức của chủ thể, nhằm mục đích thích nghi, cân đối với quốc tế, chưathấy hết ý nghĩa tích cực, ý nghĩa thực tiễn của hoạt động giải trí nhậnthức. Tất cả những dòng phái tâm lí học nói trên đều có nhữngđóng góp nhất định cho sự hình thành và tăng trưởng của khoa họctâm lí. Song do những hạn chế lịch sử vẻ vang, họ thiếu một cơ sở phươngpháp luận khoa học biện chứng, thế cho nên họ vẫn chưa có quan điểmđầy đủ và đúng đắn về con người, về hoạt động giải trí tâm lí của conngười … Sự sinh ra của tâm lí học mácxit hay còn gọi là tâm lí họchoạt động đã góp thêm phần đáng kể vào việc khắc phục hạn chế nóitrên và liên tục đưa tâm lí học lên đỉnh điểm của sự tăng trưởng. 3.6. Tâm lí học hoạt độngDòng phái tâm lí học này do những nhà tâm lí học Xô viết sánglập như L.X. Vưgốtxki ( 1896 – 1934 ), X.L. Rubinstêin ( 1902 – 1960 ), A.N. Lêônchiép ( 1903 – 1979 ), A.R. Luria ( 1902 – 1977 ) … Đây làdòng phái tâm lí học lấy triết học Mác – Lênin làm cơ sở lí luận vàphương pháp luận, thiết kế xây dựng nền tâm lí học lịch sử dân tộc người : coi tâmlí học là sự phản ánh quốc tế khách quan vào não, trải qua hoạtđộng. Tâm lí người mang tính chủ thể, có thực chất xã hội, tâm lí ngườiđược hình thành, tăng trưởng và bộc lộ trong hoạt động giải trí và trongcác mối quan hệ giao lưu của con người trong xã hội. Chính vì thếtâm lí học mácxit được gọi là ” tâm lí học hoạt động giải trí “. Created by AM Word2CHMII. BẢN CHẤT, CHỨC NĂNG, PHÂN LOẠI CÁC HIỆNTƯỢNG TÂM LÍGIÁO TRÌNH TÂM LÍ HỌC ĐẠI CƯƠNG à Chương 1 : TÂM LÍ HỌC LÀ MỘT KHOA HỌC1. Bản chất của tâm lí ngườiChủ nghĩa duy vật biện chứng chứng minh và khẳng định : Tâm lí người là sựphản ánh hiện thực khách quan vào não người trải qua chủ thểtâm lí người có thực chất xã hội – lịch sử dân tộc. 1.1. Tâm lí người là sự phản ánh hiện thực khách quan vàonão người trải qua chủ thểTâm lí người không phải do thượng đế, do trời sinh ra, cũngkhông phải là do não tiết ra như gan tiết ra mật. tâm lí người là sựphản ánh hiện thực khách quan vào não con người trải qua, ” ăngkính chủ quan “. Thế giới khách quan sống sót bằngcác thuốộ tính khoảng trống, thời hạn và luông hoạt động. Phản ánh là thuộc tính chung của mọisự vật, hiện tượng kỳ lạ đang hoạt động. Nói một cách chung nhất, phảnánh là quy trình ảnh hưởng tác động qua lại giữa mạng lưới hệ thống này và hệ thốngkhác, tác dụng là để lại dấu vết ( hình ảnh ) ảnh hưởng tác động ở cả hệ thốngtác động và mạng lưới hệ thống chịu sự tác động ảnh hưởng, ví dụ điển hình : + Viên phấn được dùng để viết lên bảng đen để lại vết phấntrên bảng và ngược lại bảng đen làm mòn ( để lại vết ) trên viênphấn ( phản ánh cơ học ). + Hệ thống khí hyđrô tác động ảnh hưởng qua lại với mạng lưới hệ thống khí ôxi, đólà phản ánh ( phản ứng ) hoá học để lại một vết chung của hai hệthống là nước ( 2H2 + o2 = 2H2 o ). Phản ánh diễn ra từ đơn thuần đến phức tạp và có sự chuyểnhoá lẫn nhau, từ phản ánh cơ vật lí, hoá học đến phản ánh sinh vậtvà phản ánh xã hội, trong đó có phản ánh tâm lí. – Phản ánh tâm lí là một loại phản ánh đặc biệt quan trọng : + Đó là sự ảnh hưởng tác động của hiện tượng kỳ lạ khách quan vào conngười, vào hệ thần kinh, bộ não người – tổ chức triển khai cao nhất của vậtchất, Chỉ có hệ thần kinh và bộ não người mới có năng lực nhậntác động của hiện thực khách quan, tạo ra trên não hình ảnh tinhthần ( tâm lí ) tiềm ẩn trong vết vật chất, đó là những quy trình sinhlí, sinh hoá ở trong hệ thần kinh và não bộ. C. Mác nói : Tinh thần, tư tưởng, tâm lí … chẳng qua là vật chất được chuyển vào trongđầu óc, biến hóa trong đó mà có. Điều đó có nghĩa là, về mặt chính sách hình thành và diễn biếncủa tâm lí hoàn toàn có thể coi tâm lí diễn ra theo chính sách một phản xạ có điềukiện với ba khâu hầu hết sau : Khâu thứ nhất là khâu đảm nhiệm những kích thích từ quốc tế bênngoài tạo nên hưng phấn dẫn truyền vào não theo đường hướngtâm. Khâu thứ hai, diễn ra ở TW thần kinh của bộ não, tạo nêncác hình ảnh tâm lí. Khâu thứ ba – khâu vấn đáp, dẫn truyền hưng phấn từ trungương thần kinh theo đường li tâm gây nên những phản ứng của cơthể. Người ta coi tổng thể những hiện tượng kỳ lạ tâm lí đều có cơ sở sinh lí làcác phản xạ có điều kiện kèm theo. + Phản ánh tâm lí lí tạo ra ” hình ảnh tâm lí ” ( bản ” sao chép “, ” bản chụp ” ) về quốc tế, hình ảnh tâm lí là hiệu quả của quá trìnhphản ánh thế giới quan vào não. Song hình ảnh tâm lí khác về chấtso với những hình ảnh cơ, vật lí, sinh vật ở chỗ : Hình ảnh tâm lí mang tính Sinh động, sáng tao, thí dụ : hìnhảnh tâm lí về cuốn sách trong đầu một con người biết chữ, khác xavề vật chất với hình ảnh vật lí có đặc thù ” chét cứng “, hình ảnhvật chất của chính cuốn sách đó có ở trong gương. Hình ảnh tâm lí mang tính chủ thể, mang đậm sắc tố cánhân ( hay nhóm người ) mang hình ành tâm lí đó, hay nói cáchkhác hình ảnh tâm lí là hình ảnh chủ quan về hiện thực kháchquan. Tính chủ thể của hình ảnh tâm lí bộc lộ ở chỗ : mỗi chủ thểtrong khi tạo ra hình ảnh tâm lí về quốc tế đã đưa vốn hiểu biết, vốn kinh nghiệm tay nghề, đưa cái riêng của mình ( về nhu yếu, khuynh hướng, tính khí, năng lượng ) … vào trong hình ảnh đó, làm cho nó mang đậmmàu sắc chủ quan. Hay nói cách khác, con người phản ánh quốc tế bằng hìnhảnh tâm lí, trải qua ” lăng kính chủ quang của mình. – Tính chủ thể trong phản ánh tâm lí bộc lộ ở chỗ : + Cùngnhận sự tác động ảnh hưởng của quốc tế về cùng một hiện thực khách quannhưng ở những chủ thể khác nhau Open những hình ảnh tâm lívới những mức độ, sắc thái khác nhau. + Cũng có khi cùng một hiện thực khách quan tác động ảnh hưởng đếnmột chủ thể duy nhất nhưng vào những thời gian khác nhau, ởnhững thực trạng khác nhau với trạng thái khung hình, trạng thái tinhthần khác nhau, hoàn toàn có thể cho ta thấy mức độ bộc lộ và những sắcthái tâm lí khác nhau ở chủ thể ấy. + Chính chủ thể mang hình ảnh tâm lí là người cảm nhận, cảm nghiệm và bộc lộ nó rõ nhất. + Cuối cùng trải qua những mức độ và sắc thái tâm lí khácnhau mà mỗi chủ thể tỏ thái độ, hành vi khác nhau so với hiệnthực. Do đâu mà tâm lí người này khác tâm lí người kia về thế giớikhách quan ? Điều đó do nhiều yếu tố chi phối. trước hết, do mỗi con ngườicó những đặc thù riêng về khung hình, giác quan, hệ thần kinh và nãobộ. Mỗi người có thực trạng sống khác nhau, điều kiện kèm theo giáo dụckhông như nhau và đặc biệt quan trọng là mỗi cá thể bộc lộ mức độ tíchcực hoạt động giải trí, tích cực giao lưu khác nhau trong đời sống. Vìthế, tâm lí người này khác tâm lí người kia. Từ vấn đề nói trên, tất cả chúng ta hoàn toàn có thể rút ra một số ít kết luậnthực tiễn sau : – Tâm lí có nguồn gốc là quốc tế khách quan, do đó khinghiên cứu, cũng như khi hình thành, tái tạo tâm lí người phảinghiên cứu thực trạng trong đó con người sống và hoạt động giải trí. – Tâm lí người mang tính chủ thể, vì vậy trong dạy học, giáodục cũng như trong quan hệ ứng xử phải chú ý quan tâm nguyên tắc sát đốitượng ( quan tâm đến cái riêng trong tâm lí mỗi người ). – Tâm lí là sảnphẩm của hoạt động giải trí và tiếp xúc, do đó phải tổ chức triển khai hoạt động giải trí vàcác quan hệ tiếp xúc đế điều tra và nghiên cứu, hình thành và tăng trưởng tâm lícon người. 1.2. Bản chất xã hội của tâm 1 í người – Tâm lí người là sự phản ánh hiện thực khách quan, là chứcnăng của não, là kinh nghiệm tay nghề xã hội lịch sử dân tộc biến thành cái riêngcủamỗi người .. âm lí con người khác xa với tâm lí của một số ít loàiđộng vật hạng sang ở chỗ : tâm lí người – ó thực chất xã hội và mangtính lịch sử dân tộc. – Bản chất xã hội và tính lịch sử vẻ vang ủa ltâm í người thể hiêệ nhưsau : + Tâm lí người có nguồn gốc là quốc tế khách quan ( hếgiới tựnhiên và xã hội ), trong đó đời sống xã hội là cái quyết định hành động ( quyếtđịnh luận xã hội ). Ngay cả phần tự nhiên trong quốc tế cũng đượcxã hội hoá. Phần xã hội hoá quốc tế quyết định tâm hlíngười thểhiện qua : những quan hệ kinh tế tài chính – xã hội, những mối quan hệ đạo đứcpháp quyền, những mối quan hệ con người – con người từ quan hệgia đình, làng xóm, quê nhà, khối phố cho đến những quan hệnhóm, những quan hệ hội đồng … những mối quan hệ trên quyết địnhbản chất tâm lí người ( thực chất con người là sự tổng hoà những mốiquan hệ xã hội ). Trên trong thực tiễn, con người thoát li khỏi những quan hệxã hội, quan hệ người – người, đều làm cho tâm lí mất bản tínhngười ( những trường hợp trẻ nhỏ do động vật nuôi từ bé, tâm lí củacác trẻ này không hơn hẳn tâm lí loài vật ). + Tâm lí người là mẫu sản phẩm của hoạt động giải trí và tiếp xúc củacon người trong những mối quan hệ xã hội. Con người là một thực thểtự nhiên và điều hầu hết là một thực thể xã hội. Phần tự nhiên ởcon người ( như đặc thù khung hình, giác quan, thần kinh, bộ não ) được xã hội hoá ở mức cao nhất. Là một thực thể xã hội, conngười là chủ thể của nhận thức, chủ thể của hoạt động giải trí, giao tiếpvới tư cách một chủ thể tích cực, dữ thế chủ động phát minh sáng tạo, tâm lí của conngười là mẫu sản phẩm của hoạt động giải trí con người với tư cách là chủ thểxã hội, do đó tâm lí người mang khá đầy đủ dấu ấn xã hội lịch sử dân tộc củacon người. + Tâm lí của mỗi cá thể là hiệu quả của quy trình lĩnh hội, tiếp thu vốn kinh nghiệm tay nghề xã hôi, nền văn hoá xã hội, thông quahoạt động, tiếp xúc ( hoạt động giải trí đi dạo, học tập, lao động, côngtác xã hội ), trong đó giáo dục giữ vai trò chủ yếu hoạt động giải trí của conngười và mối quan hệ tiếp xúc của con người trong xã hội giữ vaitrò quyết định hành động. + Tâm lí của mỗi người hình thành, tăng trưởng và biến đổicùng với sự tăng trưởng của lịch sử dân tộc dân tộc bản địa và hội đồng. Tâm lí củamỗi người chịu sự chế ước bởi lịch sử dân tộc của cá thể và hội đồng. Tóm lại, tâm lí người có thực chất xã hội, do đó phải nghiên cứu và điều tra môitrường xã hội, nền văn hoá xã hội, những quan hệ xã hội trong đó conngười sống và hoạt động giải trí. Cần phải tổ chức triển khai có hiệu suất cao hoạt độngdạy học và giáo dục, cũng như những hoạt động giải trí chủ yếu ở từng giaiđoạn lứa tuổi khác nhau để hình thành, tăng trưởng tâm lí conngười … 2. Chức năng của tâm líHiện thực khách quan quyết định hành động tâm lí con người, nhưngchính tâm lí con người lại ảnh hưởng tác động trở lại hiện thực bằng tính năngđộng, phát minh sáng tạo của nó trải qua hoạt động giải trí, hành vi, hành vi. Mỗi hoạt động giải trí, hành vi của con người đều do ” cái tâm lí ” điềuhành. Sự điều hành quản lý ấy biểu lộ qua những mặt sau : – Tâm lí có công dụng chung là khuynh hướng cho hoạt động giải trí, ởđây muốn nói tới vai trò động cơ, mục tiêu của hoạt động giải trí. Độngcơ hoàn toàn có thể là một nhu yếu được nhận thức, hứng thú, lí tưởng, niềmtin, lương tâm, danh vọng … – Tâm lí hoàn toàn có thể thôi thúc, hấp dẫn con người hoạt động giải trí, khắc phụcmoi khó khăn vất vả vươn tới mục tiêu đã đề ra hoặc kiềm hãm, hạn chếhoạt động của con người – Tâm lí tinh chỉnh và điều khiển, kiểm tra quy trình hoạt đông bằng chươngtrình, kế hoạch, chiêu thức, phương pháp thực thi hoạt động giải trí, làm cho hoạt động giải trí của con người trở nên có ý thức, đem lại hiệuquả nhất định. Cuối cùng, tâm lí giúp con người kiểm soát và điều chỉnh hoạt động giải trí chophù hợp với tiềm năng đã xác lập, đồng thời tương thích với điều kiệnvà thực trạng trong thực tiễn được cho phép. Nhờ có những công dụng khuynh hướng, tinh chỉnh và điều khiển, kiểm soát và điều chỉnh nóitrên mà tâm lí giúp con người không chỉ thích ứng với hoàn cảnhkhách quan, mà còn nhận thức, tái tạo và phát minh sáng tạo ra quốc tế, vàchính trong quy trình đó con người nhận thức, tái tạo chính bảnthân mình. Nhờ công dụng điều hành quản lý nói trên mà tác nhân tâm lí giữ vai trò cơbản, có tính quyết định hành động trong hoạt động giải trí của con người. 3. Phân loại hiện tượng kỳ lạ tâm líCó nhiều cách phân loại hiện tượng kỳ lạ tâm lí : 3.1. Cách phân loại thông dụng trong những tài liệu tâm lí họcLà việc phân loại những hiện tượng kỳ lạ tâm lí theo thời hạn tồn tạicủa chúng và vị trí tương đối của chúng trong nhân cách. Theocách phân loại này những hiện tượng kỳ lạ tâm lí có ba loại chính : – Các quy trình tâm lí, – Các trạng thái tâm lí, – Các thuộc tính tâm lí. * Các quy trình tâm là những hiện tượng kỳ lạ tâm lí diễn ra trong thờigian tương đối ngắn, có khởi đầu, diễn biến, kết thúc tương đối rõràng. Người ta thường phân biệt thành ba quy trình tâm lí : – Các quy trình nhận thức gồm : cảm xúc, tri giác, trí nhớ, tưởng tượng, tư duy, ngôn từ. – Các quy trình xúc cảm biểu lộ sự vui mừng hay tức giận, dễchịu hay không dễ chịu, nhiệt tình hay hờ hững … – Quá trình hành vi ý chí. Các trạng thái tâm lý là hiện tượng kỳ lạ tâm lí diễn ra trong thờigian tương đối dài, việc khởi đầu và kết thúc không rõ ràng, như : quan tâm, tâm trạng. * Các thuộc tính tâm lí là những hiện tượng kỳ lạ tâm lí tương đốiổn định, khó hình thành và khó mất đi, tạo thành những nét riêngcủa nhân cách. Người ta thường nói tới bốn nhóm thuộc tính tâm lícá nhân như : xu thế, tính cách, khí chất và năng lượng. Có thể màn biểu diễn mối quan hệ giữa những hiện tượng kỳ lạ tâm lí bằngsơ đồ sau : Sơ đồ 1. Mối quan hệ giữa những hiện tượng kỳ lạ tâm lí3. 2. Có thểphân biệthiệntượng tâmlí thành – Các hiện tượng kỳ lạ tâm lí có ý thức. – Các hiện tượng kỳ lạ tâm lí chưa được ý thức. Chúng ta có nhiều nhận ra về những hiện tượng kỳ lạ tâm lí có ýthức ( được nhận thức, hay tự giác ). Có những hiện tượng kỳ lạ tâm líchưa được ý thức vẫn luôn diễn ra, nhưng ta không ý thức về nó, hoặc dưới ý thức, chưa kịp ý thức. Một số tác giả quốc tế cònchia ý thức thành hai mức : ” vô thức ” và ” tiềm thức “., ” Vô thức ” lànhững nghành nằm ngoài ý thức, ” khó lọt vào nghành nghề dịch vụ ý thức ( mộtsố bản năng vô thức, một số ít hành vi lỡ lời, lỡ chân tay, ngủ mơ, mộng du … ) và mức độ ” tiềm thức ” là những hiện tượng kỳ lạ bìnhthường nằm sâu trong ý thức, nhiều lúc trong những hoàn cảnhnhất định hoàn toàn có thể được ý thức ” chiếu rọi ” tới. 3.3. Người ta còn phân biệt hiện tượng kỳ lạ tâm lí thành : – Hiện tượng tâm lí sôi động : bộc lộ trong hành vi, hoạtđộng. – Hiện tượng tâm lí tiềm tàng : tích đọng trong loại sản phẩm củahoạt động. 3.4. Có thể phân biệt hiện tượng kỳ lạ tâm lí của cá thể với hiệntượng tâm lí xã hội ( phong tục, tập quán, định kiến xã hội, lời đồn thổi, dư luận xã hội, tâm trạng xã hội, ” mốt ” … ). Như vậy, quốc tế tâm lí của con người vô cùng phong phú vàphức tạp. Các hiện tượng kỳ lạ tâm lí có nhiều mức độ, Lever khácnhau, có quan hệ xen kẽ vào nhau, chuyển hoá cho nhau. Created by AM Word2CHMIII. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU TÂM LÍGIÁO TRÌNH TÂM LÍ HỌC ĐẠI CƯƠNG à Chương 1 : TÂM LÍ HỌC LÀ MỘT KHOA HỌC1. Nguyên tắc phương pháp luận của việc điều tra và nghiên cứu tâm lí1. 1. Nguyên tắc bảo vệ tính khách quanĐảm bảo tính khách quan trong điều tra và nghiên cứu tâm lí là phải lấychính những hiện tượng kỳ lạ tâm lí làm đối tượng người dùng nghiên cứu và điều tra. Nghiên cứucác hiện tượng kỳ lạ tâm lí trong trạng thái sống sót tự nhiên của nó, đảmbảo tính trung thực, không thêm bớt trong quy trình điều tra và nghiên cứu. 1.2. Nguyên tắc quyết định luận duy vật biện chứngNguyên tắc này chỉ rõ khi điều tra và nghiên cứu tâm lí thừa nhận tâm língười mang thực chất xã hội lịch sử vẻ vang do yếu tố xã hội quyết địnhnhưng không phủ nhận vai trò điều kiện kèm theo của những yếu tố sinh học ( tưchất, hoạt động giải trí thần kinh cấp cao … ) đặc biệt quan trọng chứng minh và khẳng định vai tròquyết định trực tiếp của hoạt động giải trí chủ thể. 1.3. Nguyên tắc thống nhất tâm lí, ý thức với hoạt độngNguyên tắc này khẳng định chắc chắn tâm lí, ý thức không tách rời khỏihoạt động, nó được hình thành, thể hiện và tăng trưởng trong hoạtđộng, đồng thời tinh chỉnh và điều khiển, kiểm soát và điều chỉnh hoạt động giải trí. Vì vậy khi nghiêncứu tâm lí phải trải qua hoạt động giải trí, diễn biến và những sản phẩmcủa hoạt động giải trí. 1.4. Nghiên cứu những hiện tượng kỳ lạ tâm tí trong những môi liên hệgiũa chúng với nhau và trong môi liên hệ giữa chúng với cáchiện tượng khácCác hiện tượng kỳ lạ tâm lí không sống sót khác biệt mà chúng cóquan hệ ngặt nghèo với nhau và với những hiện tượng kỳ lạ tự nhiên, xã hội

Source: https://vh2.com.vn
Category : Khoa Học

Liên kết:XSTD