Networks Business Online Việt Nam & International VH2

Những cơ hội và thách thức khi gia nhập AFTA – Tài liệu text

Đăng ngày 27 July, 2022 bởi admin

Những cơ hội và thách thức khi gia nhập AFTA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (384.52 KB, 34 trang )

TRệễỉNG ẹAẽI HOẽC KINH TE TP HCM
KHOA THệễNG MAẽI-DU LềCH-MARKETING

B MễN KINH T QUC T
GVHD: Ngụ Vn Phong
DANH SÁCH THÀNH VIÊN:
1) Nguyễn Thị Bích Đào
2) Đỗ Phú Hưng
3) Hà Văn Lân
4) Trần Khánh Toàn
5) Phạm Duy Tiến
2
LỜI NHẬN XÉT VÀ CHO ĐIỂM CỦA GIÁO VIÊN

3
4
MỤC LỤC:
A.Sơ lược về AFTA
1.Hoàn cảnh ra đời
2.Mục tiêu của AFTA
3.Quan hệ giữa VN và AFTA
B.Những thách thức và cơ hội của VN khi gia nhập AFTA
1.Tác động của VN đối với AFTA
2.Cơ hội của VN khi gia nhập AFTA
3.Thách thức của VN khi gia nhập AFTA
C.Phương thức hội nhập của VN
D.Những mặt tieu cực khi VIỆT NAM gia nhập AFTA
E.Những văn bản thực thi AFTA của VN
5
A. SÔ LÖÔÏC VEÀ AFTA
Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN:
Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN (viết tắt là AFTA từ các chữ cái đầu của
ASEAN Free Trade Area) là một hiệp định thương mại tự do (FTA) đa
phương giữa các nước trong khối ASEAN. Theo đó, sẽ thực hiện tiến trình
giảm dần thuế quan xuống 0-5%, loại bỏ dần các hàng rào phi thuế quan đối
với đa phần các nhóm hàng và hài hòa hóa thủ tục hải quan giữa các nước.
Sáng kiến về AFTA vốn là của Thái Lan. Sau đó hiệp định về AFTA
đượcđược ký kết vào năm 1992 tại Singapore. Ban đầu chỉ có sáu nước là

Brunei, Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore và Thái Lan (gọi chung là
ASEAN-6). Các nước Campuchia, Lào, Myanma và Việt Nam (gọi chung là
CLMV) được yêu cầu tham gia AFTA khi được kết nạp vào khối này.
I.Hoàn cảnh ra đời
Vào đầu những năm 90, khi chiến tranh lạnh kết thúc, những thay đổi trong
môi trường chính trị, kinh tế quốc tế và khu vực đã đặt kinh tế các nước
ASEAN đứng trước những thách thức lớn không dễ vượt qua nếu không có sự
liên kết chặt chẽ hơn và những nỗ lực chung của toàn Hiệp hội, những thách
thức đó là :
i). Quá trình toàn cầu hoá kinh tế thế giới diễn ra nhanh chóng và mạnh mẽ,
đặc biệt trong lĩnh vực thương mại, chủ nghĩa bảo hộ truyền thống trong
ASEAN ngày càng mất đi sự ủng hộ của các nhà hoạch định chính sách trong
nước cũng như quốc tế.
ii). Sự hình thành và phát triển các tổ chức hợp tác khu vực mới đặc biệt như
EU, NAFTA sẽ trở thành các khối thương mại khép kín, gây trở ngại cho hàng
hoá ASEAN khi thâm nhập vào những thị trường này.
iii). Những thay đổi về chính sách như mở cửa, khuyến khích và dành ưu đãi
rộng rãi cho các nhà đầu tư nước ngoài, cùng với những lợi thế so sánh về tài
nguyên thiên nhiên và nguồn nhân lực của các nước Trung Quốc, Việt Nam,
Nga và các nước Đông Âu đã trở thành những thị trường đầu tư hấp dẫn hơn
ASEAN, đòi hỏi ASEAN vừa phải mở rộng về thành viên, vừa phải nâng cao
hơn nữa tầm hợp tác khu vực.
Để đối phó với những thách thức trên, năm 1992, theo sáng kiến của Thái lan,
Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN họp tại Xingapo đã quyết định thành lập một
Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN ( gọi tắt là AFTA).
6
Đây thực sự là bước ngoặt trong hợp tác kinh tế ASEAN ở một tầm mức mới.
II.Mục tiêu của AFTA:
Mục đích của AFTA là nâng cao năng lực cạnh tranh của ASEAN với tư cách
là một cơ sở sản xuất trên thế giới, đồng thời tăng cường tính hấp dẫn đối với

đầu tư trực tiếp nước
ngoài
AFTA đưa ra nhằm đạt được những mục tiêu kinh tế sau:
i) Tự do hoá thương mại trong khu vực bằng việc loại bỏ các hàng rào thuế
quan trong nội bộ khu vực và cuối cùng là các rào cản phi quan thuế. Điều này
sẽ khiến cho các Doanh nghiệp sản xuất của ASEAN càng phải có hiệu quả và
khả năng cạnh tranh hơn trên thị trường thế giới. Đồng thời, người tiêu dùng
sẽ mua được những hàng hoá từ những nhà sản suất có hiệu quả và chất lượng
trong ASEAN, dẫn đến sự tăng lên trong thương mại nội khối.
ii) Thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào khu vực bằng việc tạo ra một khối
thị trường thống nhất, rộng lớn hơn.
iii) Làm cho ASEAN thích nghi với những điều kiện kinh tế quốc tế đang thay
đổi, đặc biệt là với sự phát triển của các thỏa thuận thương mại khu vực
(RTA) trên thế giới.
III.Việt Nam và AFTA
Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 7 của Hiệp hội
các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) vào ngày 28/7/1995. Đó là một cột mốc
quan trọng trong lịch sử quan hệ giữa Việt Nam và các quốc gia trong khu
vực.
Song song với các hoạt động hợp tác đa dạng trên nhiều lĩnh vực kinh tế – văn
hóa – xã hội, 7 năm qua, Việt Nam đã cùng các thành viên ASEAN nỗ lực
chuẩn bị cho sự ra đời Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA).
Từ năm 1977, trong khối ASEAN đã có thoả thuận về tự do hóa và đẩy mạnh
thương mại giữa các quốc gia thành viên, được quy định bởi Thỏa thuận Ưu
đãi thương mại của ASEAN (PTA). Một thập kỷ sau, thỏa thuận này lại được
mở rộng hơn với việc ký kết Nghị định thư về tăng cường mở rộng ưu đãi
thuế quan theo Thỏa thuận Ưu đãi thương mại của ASEAN (15/12/1987).
Để cải thiện và phát triển thêm một bước quan hệ thương mại của ASEAN,
đồng thời tăng cường sức cạnh tranh của khối, tại Hội nghị thượng đỉnh lần
thứ 4 của ASEAN tại Singapore (tháng 1/1992), các nước thành viên đã quyết

7
định thành lập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA). Mục tiêu của AFTA
là tự do
hóa thương mại trong khối thông qua việc cắt giảm thuế xuống mức 0-5%,
đồng thời dỡ bỏ các hàng rào phi thuế quan. Việc thực hiện AFTA cũng nhằm
thúc đẩy sản xuất tại các quốc gia trong khu vực, tăng cường sức cạnh tranh
của hàng hóa, thu hút đầu tư của thế giới vào ASEAN.
Có thể nói, phương tiện để tiến tới Khu vực mậu dịch tự do ASEAN chính là
Hiệp định ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT). Theo kế hoạch ban
đầu, lộ trình cắt giảm thuế của CEPT được thực hiện trong vòng 15 năm để
AFTA trở thành hiện thực vào năm 2008. Tuy nhiên, do sự phát triển và cạnh
tranh mạnhmẽ của các liên kết kinh tế toàn cầu khác, cũng như do sự tiến bộ
của chính các quốc gia ASEAN, khối này đã quyết định đẩy nhanh thời hạn
đến năm 2003.
Những mặt hàng thuộc diện cắt giảm thuế theo CEPT là các sản phẩm công
nghiệp chế biến, tư liệu sản xuất, nông sản đã chế biến và nông sản chưa chế
biến. CEPT chỉ loại trừ những sản phẩm mà các nước cho là có thể ảnh hưởng
đến an ninh quốc gia, đạo đức xã hội, sức khoẻ và cuộc sống của con người;
các tác phẩm có giá trị nghệ thuật, lịch sử hay khảo cổ Các sản phẩm trong
biểu thuế được phân chia thành bốn danh mục:
– Danh mục loại trừ hoàn toàn GEL (General Exception List): gồm những
mặthàng không phải cắt giảm thuế
– Danh mục loại trừ tạm thời TEL (Temporing Exception List) gồm những
mặthàng chưa sẵn sàng giảm thuế.
– Danh mục cắt giảm ngay IL (Inclusion List): gồm những mặt hàng đã sẵn
sàng giảm thuế, việc giảm thuế được tiến hành theo hai lộ trình: lộ trình cắt
giảm bình thường (giảm thuế xuống còn 0%.5% trong vòng 10 năm) và lộ
trình cắt giảm nhanh (giảm thuế xuống còn 0%.5% trong vòng 7 năm).
– Danh mục hàng nhạy cảm: gồm những nông sản chế biến mà từng nước cho
là nhạy cảm với nền kinh tế của mình nên không đưa vào diện cắt giảm thuế

ngay.
Các nhóm mặt hàng mà Việt Nam sẽ cắt giảm thuế từ ngày 1/1/2003 bao gồm:
1. Sữa và các sản phẩm từ sữa
2. Dầu thực vật đã tinh chế
3. Sản phẩm chế biến từ thuỷ, hải sản
4. Rau, quả chế biến, gồm cả nước quả ép
8
5. Càphê tinh chế
6. Bia, đồ uống có men và cồn etylic (trừ rượu nặng)
7. Clinker và xi măng
8. Khí đốt từ dầu mỏ và các loại khí hydrocarbon hoá lỏng
9. Amoniac dạng khan hoặc dung dịch
10. Phân bón hoá học
11. Một số sản phẩm bằng plastic (thí dụ: thiết bị vệ sinh)
12. Săm, lốp xe máy và xe đạp
13. Gỗ ván, gỗ dán, ép
14. Các loại giấy chưa đưa vào thực hiện cắt giảm thuế theo CEPT
15. Vải các loại
16. Giày dép da, da thuộc
17. Gạch ốp lát bằng gốm, sứ, sứ vệ sinh, kính xây dựng (trừ những loại đã
thực hiện CEPT từ 2001)
18. Ruột phích và ruột bình chân không khác
19. Một số dạng động cơ đốt trong dùng cho xe máy và ô tô
20. Quạt điện gia dụng hoặc công nghiệp có công suất trên 125 KW
21. Máy điều hoà
22. Động cơ điện xoay chiều, đa pha, có công suất không quá 750W
23. Máy thu dùng cho điện thoại vô tuyến, điện báo
24. Máy thu hình
25. Một số phương tiện vận tải như: máy kéo, xe chở khách từ 16 chỗ ngồi trở
lên, xe đạp, xe máy trên 250cc phân khối, phụ tùng và các bộ phận phụ trợ

26. Phương tiện bay, tàu vũ trụ và các bộ phận phụ trợ
27. Tàu, thuyền và các kết cấu nổi
28. Máy photocopy và máy sao chụp khác
Việt Nam thực hiện cam kết tham gia AFTA
Theo ông Lương Văn Tự, Thứ trưởng Bộ Thương mại, Tổng thư ký Ủy
ban Quốc gia về Hợp tác kinh tế Quốc tế, năm 2003, Việt Nam sẽ đưa
760 mặt hàng trong biểu thuế xuất nhập khẩu vào Danh mục giảm
thuế và phải giảm thuế suất các mặt hàng này xuống dưới 20% để
thực hiện cam kết tham gia Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA).
9
Trả lời phỏng vấn TTXVN ngày 27/12, ông Tự cho biết, Việt Nam bắt
đầu tham gia Chương trình Thuế quan ưu đãi có Hiệu lực chung
(CEPT) từ năm 1996 nhằm tiến tới tham gia đầy đủ vào AFTA vào năm
2006. Cho đến nay Việt Nam đã qua hơn 6 năm thực hiện CEPT. Gần
đây nhất, Chính phủ đã ban hành Nghị định về Danh mục Hàng hóa và
Thuế suất của Việt Nam để thực hiện Chương trình CEPT/AFTA. Theo
Nghị định này, năm 2002, Việt Nam đưa 481 mặt hàng vào diện cắt
giảm thuế nhập khẩu từ các ASEAN. Như vậy, đến nay tổng cộng đã
có khoảng 5.500 mặt hàng đã hoặc đang được cắt giảm thuế quan.
Từ nay đến 2006, Việt Nam sẽ đưa các mặt hàng còn lại vào diện cắt
giảm và đưa thuế suất các mặt hàng này xuống bằng hoặc dưới 5%,
trừ 139 mặt hàng nằm trong danh mục loại trừ hoàn toàn không có
nghĩa vụ phải giảm thuế và 51 mặt hàng nhạy cảm có lộ trình giảm
thuế chậm hơn.
Về quan hệ thương mại giữa Việt Nam và ASEAN, ông Tự cho biết,
ASEAN hiện là một đối tác thương mại quan trọng của Việt Nam,
thường xuyên chiếm khoảng 25% kim ngạch trao đổi giữa Việt Nam
với thế giới. Năm 2000, ASEAN chiếm 18% kim ngạch xuất khẩu và
28% kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam. Việt Nam chủ yếu nhập các
sản phẩm xăng dầu từ Singapore. Năm 2001, Việt Nam đã nhập 1,18

tỷ USD các sản phẩm xăng dầu từ Singapore.
Theo lộ trình thực hiện AFTA, từ 1/1/2003, 6 nước thành viên cũ của
ASEAN là Singapore, Indonesia, Thái Lan, Brunei, Malaysia, Philippines
sẽ hạ thuế nhập khẩu xuống 0-5%, riêng Singapore thuế suất 0%.
Riêng Việt Nam còn có 3 năm nữa trước khi tham gia hoàn toàn vào
AFTA nên một số mặt hàng như dầu thực vật, bánh kẹo, rau quả, cà
phê hòa tan, bia, rượu, xi măng, lốp xe, giấy, gốm sứ vệ sinh, còn
được bảo hộ ở mức tối đa có thể được. Do đó, cán cân thương mại
Việt Nam- ASEAN trong tương lai gần chưa có biến động nhiều.
Về cơ hội và thách thức khi tham gia vào AFTA, ông Tự nói: “Sau vài
năm nữa, khi các biện pháp bảo hộ không còn, hàng hóa ASEAN có
nhiều khả năng xâm nhập thị trường Việt Nam. Tất nhiên, hàng hóa
của Việt Nam cũng có những cơ hội tương đương. Vấn đề là bên nào
10
có thể tận dụng tốt cơ hội đem lại, lấy cơ hội để hạn chế thách thức.
Cơ hội lớn nhất trước mắt là 6 nước thành viên cũ hạ thuế suất xuống
0-5% từ 1/1/2003. Các doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội đẩy mạnh
xuất khẩu vào các nước này trong 3 năm tới. Cơ hội thứ hai là các
nước phát triển cao của ASEAN như Singapore, Malaysia đều thiếu lao
động phổ thông. Malaysia mỗi năm phải nhập khẩu 2 triệu lao động,
Singapore phải nhập gần 1 triệu lao động là cơ hội tốt cho Việt Nam
đẩy mạnh xuất khẩu lao động. Thứ ba, Việt Nam là nước ổn định và
an toàn nhất trong khu vực, giá nhân công của Việt Nam cạnh tranh,
thị trường lớn có hơn 80 triệu dân và còn nhiều lĩnh vực chưa phát
triển sẽ là những thế mạnh thu hút các nhà đầu tư, nhất là các nhà
đầu tư đến từ các nước ASEAN.
Thách thức lớn nhất đối với Việt Nam là nâng cao năng lực cạnh tranh
bằng cách đổi mới công nghệ, đổi mới quản lý, tiết kiệm hạ giá thành,
tăng tiếp thị. Mỗi sản phẩm mới ra đời hoặc định sản xuất phải nghĩ
rằng sẽ bán cả trong nước và xuất khẩu, coi là sản phẩm của ASEAN.”

Đánh giá về việc chuẩn bị cho việc hội nhập AFTA, ông Tự cho biết: ”
Để đương đầu với cuộc cạnh tranh mới, Chính Phủ đã có nhiều biện
pháp như hỗ trợ xuất khẩu, thành lập quỹ hỗ trợ xuất khẩu, chuyển
dịch cơ cấu sản xuất, v.v đặc biệt mở rộng quyền kinh doanh. Trước
kia chỉ có 6.500 doanh nghiệp nhà nước, đến nay tất cả các thành
phần kinh tế đã có 90.000 doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp đã chủ
động nâng cao sức cạnh tranh, xây dựng đội ngũ nhân lực và thương
hiệu, có kế hoạch vươn ra thị trường nước ngoài, điển hình như dệt
Thành Công, bánh kẹo Kinh Đô, cà phê Trung Nguyên, bóng đèn Điện
Quang, các xí nghiệp chế biến thủy sản, các nhà máy xi măng
Tuy nhiên, vẫn còn một số các doanh nghiệp chưa nhận thức được
những thách thức đang chờ đợi họ khi thị trường trong nước mở cửa.
Họ vẫn trông chờ vào các biện pháp bảo hộ của Nhà nước như cấp
thêm vốn, khoanh nợ hoặc xóa nợ, nâng cao thuế nhập khẩu, dành
độc quyền nhập và cung cấp một số mặt hàng Thương trường là
chiến trường, sẽ có sự đào thải tự nhiên trong quá trình cạnh tranh
này.
Các doanh nghiệp trước hết cần nắm vững chủ trương của Chính phủ
11
về chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, coi đó là một tiến trình tất yếu
nên phải bỏ dần tư trưởng trồng chờ vào bảo hộ của Nhà nước. Các
doanh nghiệp cũng cần tìm hiểu để nắm rõ các cam kết mà Nhà nước
đã đưa vào thực hiện để có đánh giá đúng đắn về thời cơ và thách
thức đối với ngành hàng, dịch vụ mà mình kinh doanh sản xuất”./.

B. NhỮNG THÁCH THỨC VÀ CƠ HỘI CỦA VIÊÏT NAM KHI GIA
NH ẬP AFTA
Việc tham gia ASEAN và AFTA là bước đi tất yếu đầu tiên của Việt Nam
trên con đường hội nhập với khu vực và thế giới. Sự kiện này mở ra cho Việt
Nam nhiều cơ hội mới cũng như nhiều thách thức to lớn. Cơ hội và thách thức

đan xen lẫn nhau, đòi hỏi sự nỗ lực cả tầm vĩ mơ và vi mơ để khai thác triệt để
các cơ hội và hạn chế đến mức thấp nhất ảnh hưởng tiêu cực do các thách thức
đưa đến.
I.TÁC ĐỘNG CỦA AFTA ĐỐI VỚI VIỆT NAM:
Đối chiếu nội dung của AFTA cũng như những tác động có thể có của nó đối
với các nước thành viên nói chung, đối chiếu với tình hình cụ thể và tiến trình
thực hiện AFTA của Việt Nam, AFTA có thể có những tác động trên các mặt
chính sau:
1. Nhập khẩu:
Trong những năm gần đây, hàng hóa từ ASEAN vào Việt Nam chiếm khoảng
25% kim ngạch nhập khẩu (NK), trong đó ngun vật liệu dùng cho sản xuất
và hàng cơng nghiệp chiếm tỷ trọng lớn. Các mặt hàng này đã có thuế suất
dưới 5% trước khi thực hiện CEPT. Vì vậy, AFTA khơng có tác động trực
tiếp tới việc NK những mặt hàng này. Ngồi ra, một số hàng NK có kim
ngạch đáng kể ở Việt Nam như xăng dầu, xe máy chưa được đưa vào danh
sách giảm thuế ngay nên trước mắt sẽ nằm ngồi phạm vi tác động của AFTA.
Về lâu dài, Việt Nam chắc chắn phải đưa thêm những mặt hàng từ danh mục
loại trừ tạm thời có thuế suất trên 20% vào diện cắt giảm ngay, và loại trừ dần
các hàng rào phi thuế quan (nhất là những hạn chế về số lượng nhập khẩu).
Khi đó, nhập khẩu, nhất là những mặt hàng tiêu dùng từ các nước ASEAN
vào Việt Nam, sẽ tăng lên nếu những mặt hàng cùng loại sản xuất trong nước
khơng cạnh tranh lại được.
12
2. Xuất khẩu:
(a) Xuất khẩu sang các nước khác thuộc ASEAN :
Về mặt lý thuyết và cũng như trong dài hạn, AFTA có tác động làm tăng sức
cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên thị trường ASEAN nhờ giảm thuế
quan và loại bỏ các hàng rào phi thuế quan. Tuy nhiên trong vài năm tới, khả
năng AFTA làm tăng kim ngạch xuất khẩu (XK) của Việt Nam sang các nước
này không lớn do các nguyên nhân sau:

 Xét về cơ cấu hàng xuất khẩu (XK):
Những năm gần đây, ASEAN thường chiếm khoảng 20-23% kim ngạch xuất
khẩu (XK) của Việt Nam và đây là một con số đáng kể. Tuy nhiên, những mặt
hàng được hưởng thuế suất CEPT lại chỉ chiếm gần 20% kim ngạch XK sang
ASEAN, tương đương với dưới 4% tổng kim ngạch XK của Việt Nam năm
2001. Ngoài ra, mức tăng XK của những mặt hàng này sang các nước ASEAN
khác cũng không lớn. Hơn nữa, cơ cấu hàng hóa của Việt Nam và ASEAN
khá tương đồng. Với trình độ thua kém hơn, Việt Nam chỉ có thể cạnh tranh
trên thị trường ASEAN nhờ tính độc đáo của chủng loại, mẫu mã và do đó,
chỉ mang tính bổ sung cho cơ cấu hàng hóa nước đối tác
 Xét về bạn hàng:
2/3 doanh số buôn bán của Việt Nam với ASEAN được thực hiện với
Singapore. Phần lớn hàng Việt Nam xuất sang Singapore sẽ được tái xuất sang
các nước khác. Nhưng ở nước này, hệ thống thuế xuất nhập khẩu trước AFTA
vốn đã thấp, gần như bằng 0%. Do vậy, khi thực hiện CEPT trên toàn khối
ASEAN, 1/3 kim ngạch xuất nhập khẩu còn lại của Việt Nam với các nước
ASEAN khác sẽ chưa làm thay đổi nhiều XK Việt Nam nếu xét theo khía
cạnh được hưởng ưu đãi thuế NK thấp.
Do vậy, có thể kết luận rằng: Chỉ khi nào Việt Nam tạo được sự dịch chuyển
cơ cấu sản xuất và XK theo hướng tạo ra được nhiều chủng loại hàng hóa có
sức cạnh tranh và nằm trong danh mục cắt giảm của CEPT, các doanh nghiệp
Việt Nam mới có thêm thuận lợi về yếu tố giá cả khi muốn XK sang ASEAN.
(b) XK sang các nước ngoài ASEAN:
Về dài hạn, AFTA có tác động gián tiếp làm tăng kim ngạch XK của Việt
Nam sang các thị trường ngoài ASEAN do nhập được đầu vào cho sản xuất
13
XK với giá rẻ hơn từ các nước ASEAN. Mặt khác, với tư cách một thành viên
của AFTA, Việt Nam có điều kiện để khai thác những lợi thế mới trong quan
hệ thương mại với nước lớn. Ví dụ, Việt Nam sẽ được hưởng hệ thống ưu đãi
thuế quan phổ cập của Mỹ (General System of Preference – GSP). Bởi GSP

quy định “giá trị một sản phẩm được sản xuất tại một nước thành viên của một
hiệp hội kinh tế, khu vực thương mại tự do (như AFTA) thì được coi là sản
phẩm của một nước” và một sản phẩm NK vào Mỹ được hưởng GSP nếu “giá
trị nguyên liệu NK để sản xuất ra nó chiếm dưới 65% giá trị sản phẩm sau khi
hoàn thành thủ tục hải quan vào Mỹ”. Điều đó có nghĩa là các nước ASEAN
có thể nhập nguyên liệu từ các nước thành viên khác để sản xuất hàng XK
sang Mỹ, và hàng XK sẽ được hưởng GSP nếu giá trị nguyên liệu dưới 65%
giá trị sản phẩm. Và do đó, AFTA giúp Việt Nam tăng cường tiếp cận và thâm
nhập thị trường Mỹ – đất nước có kim ngạch NK vượt 1000 tỷ USD mỗi năm.
Tuy vậy, như trên đã nói, cơ cấu sản phẩm của các nước ASEAN xuất ra thị
trường thế giới lại khá tương đồng với Việt Nam, do đó họ cũng được hưởng
những lợi ích tương tự. Vì vậy, khi tham gia AFTA, Việt Nam vẫn phải tiếp
tục chấp nhận cạnh tranh rất quyết liệt với các thành viên khác trong ASEAN
không chỉ trên thị trường khu vực.
II.CÔ HOÄI CUÛA VIEÄT NAM KHI THAM GIA AFTA
-Khi gia nhập AFTA, hàng hoá của Việt nam sẽ được hưởng thúê suất ưu
đãi thấp hơn cả thuế suất tối huệ quốc mà các nước ASEAN dành cho các
nước thành viên WTO, từ đó có điều kiện thuận lợi hơn để hàng hoá Việt
nam có thể thâm nhập thị trường của tất cả các nước thành viên ASEAN.
-Bên cạnh những thuận lợi thu được từ hoạt động thương mại trong nội bộ
khối, khi gia nhập AFTA, VN sẽ có thế hơn trong đàm phán thương mại
song phương và đa biên với các cường quốc kinh tế, cũng như các tổ chức
thương mại quốc tế lớn như Mỹ, nhật, EU hay WTO
– Tuy có những trùng lặp giữa VN và các nước ASEAN, nhưng có nhiều
lĩnh vực mà VN có thể khai thác từ thị trường các nước ASEAN như VN
có thế mạnh trong xuất khẩu nông sản, hàng dệt và may mặc, và ta cũng có
nhu cầu nhập nhiều mặt hàng từ các nước ASEAN với giá thấp hơn từ các
khu vực khác trên thế giới.
– Một mặt Doanh nghiệp được lợi do tăng được khả năng cạnh tranh so với
các nước ngoài ASEAN về giá cả, mặt khác người tiêu dùng được hưởng

lợi do giá cả rẻ hơn và chủng loại hàng hoá phong phú hơn.
– Thu hút vốn đầu tư, tiếp thu công nghệ, tận dụng nhân công,sử dụng vốn
và kỹ thuật cao trong khu vực
14
-Các ngành nông nghiệp Việt Nam có nhiều cơ hội trong việc tiếp cận đến
thị trường các nươc ASEAN
III. Khó khăn của Việt Nam khi tham gia AFTA:
– Thách thức khi tham gia vào AFTA là Việt Nam phải đưa ra lộ trình cắt
giảm thuế quan của các mặt hàng thương mại chế tạo đối với các quốc gia
thành viên ASEAN trong bối cảnh nội lực còn chưa đủ mạnh. Những khó
khăn này là một phần nhỏ của những khó khăn trong tiến trình đàm phán
gia nhập WTO và sau đó là thực hiện các cam kết đối với WTO.
– Lợi ích trực tiếp của nhà nước là nguồn thu ngân sách về thuế xuất nhập
khẩu giảm
– Việc tham gia dẫn tới sự xoá bỏ các hàng rào thuế quan và phi quan thuế,
nghĩa là xoá bỏ sự bảo hộ của chính phủ đối với các doanh nghiệp, buộc
các doanh nghiệp phải tham gia thật sự vào cuộc chới cạnh tranh khốc liệt
trên thị trường khu vực : cạnh tranh thúc đẩy sản cuất phát triển, nhưng
đồng thời có thể làm điêu đứng và phá sản hàng loạt các doanh nghiệp,
thậm chí hàng loạt ngành. Dẫn tới việc thay đổi cơ cấu kinh tế.Đây là vấn
đề nan giải đối với các doanh nghiệp Việt nam.
Tóm lại gia nhập AFTA là bước tập duyệt đầu tiên cho nền kinh tế và các
doanh nghiệp VN để chuẩn bị cho sự gia nhập thị trường thế giới rộng lớn và
đầy sự cạnh tranh hơn.
C. PHƯƠNG THỨC HỘI NHẬP CỦA VIỆT NAM
Quá trình tham gia và lịch trình giảm thuế của Việt nam :
1. Những yêu cầu của CEPT -AFTA đối với Việt nam:
Căn cứ theo quy định của Hiệp định CEPT và thoả thuận giữa Việt nam và
các nước thành viên khác của ASEAN, chương trình giảm thuế nhập khẩu
theo CEPT của Việt Nam bắt đầu được thực hiện từ 1/1/1996 và hoàn thành

vào 1/1/2006 để đạt được mức thuế suất cuối cùng là 0-5%, chậm hơn các
nước thành viên khác 3 năm.
Các bước cụ thể để thực hiện mục tiêu này bao gồm:
• Xác định danh mục các mặt hàng thực hiện giảm thuế theo CEPT gồm: danh
mục giảm thuế ngay (IL), danh mục loại trừ tạm thời (TEL), danh mục hàng
nông sản chưa chế biến nhạy cảm (SL), danh mục loại trừ hoàn toàn (GEL).
• Các mặt hàng thuộc danh mục IL sẽ bắt đầu giảm thuế từ 1/1/1996 và kết
15
thúc với thuế suất 0-5% vào 1/1/2006. Các mặt hàng có thuế suất trên 20%
phải giảm xuống 20% vào 1/1/2001. Các mặt hàng có thuế suất nhỏ hơn hoặc
bằng 20% sẽ giảm xuống 0-5% vào 1/1/2003.
• Các mặt hàng thuộc danh mục TEL sẽ được chuyển sang danh mục IL trong
vòng 5 năm, từ 1/1/1999 đến 1/1/2003, mỗi năm chuyển 20%, để thực hiện
giảm thuế với thuế suất cuối cùng là 0-5% vào năm 2006. Đồng thời, các bước
giảm sau khi đưa vào IL phải được thực hiện chậm nhất là 2-3 năm một lần và
mỗi lần giảm không ít hơn 5%.
• Các mặt hàng thuộc danh mục SL sẽ bắt đầu giảm thuế từ 1/1/2004 và kết
thúc vào 1/1/2013 với thuế suất cuối cùng là 0-5%. Riêng mặt hàng đường
vào năm 2010 :0-5%.
• Các mặt hàng đã đưa vào chương trình giảm thuế và được hưởng nhượng bộ
thì phải bỏ ngay các quy định về hạn chế số lượng (QRs) và bỏ dần các biện
pháp hạn chế phi quan thuế khác (NTBs) 5 năm sau đó.
2. Tình hình thực hiện của ta cho đến nay :
a). Năm 1996 Việt nam đã công bố cho ASEAN các loại Danh mục: Danh
mục cắt giảm thuế IL; Danh mục loại trừ tạm thời TEL; Danh mục hàng nông
sản chưa chế biến nhậy cảm SL và Danh mục loại trừ hoàn toàn GEL;
Nguyên tắc xây dựng phương án tham gia của Việt nam :
– Không gây ảnh hưởng lớn đến nguồn thu ngân sách
– Bảo hộ hợp lý cho nền sản xuất trong nước
– Tạo điều kiện khuyến khích việc chuyển giao kỹ thuật, đổi mới công nghệ

cho nền sản xuất trong nước
– Hợp tác với các nước ASEAN trên cơ sở các qui định của Hiệp định CEPT
để tranh thủ ưu đãi, mở rộng thị trường cho xuất khẩu và thu hút đầu tư nước
ngoài.
Thách thức AFTA và công nghiệp Việt Nam
Việt Nam tiến hành công nghiệp hóa trong bối cảnh mà trào lưu toàn cầu hoá
kinh tế ngày càng mạnh mẽ. Nói cụ thể hơn, thị trường thế giới đang rộng mở
cho hàng công nghiệp Việt Nam, nhưng ngược lại, Việt Nam cũng phải mở
cửa thị trường trong nước, tiến hành tự do thương mại. Nếu năng lực cạnh
tranh của Việt Nam mạnh thì cơ hội của toàn cầu hoá sẽ lớn và thách thức sẽ
nhỏ.
Theo ông Lương Văn Tự, Thứ trưởng Bộ Thương mại, Tổng thư ký Ủy ban
Quốc gia về Hợp tác kinh tế Quốc tế, năm 2003, Việt Nam sẽ đưa 760 mặt
hàng trong biểu thuế xuất nhập khẩu vào Danh mục giảm thuế và phải giảm
thuế suất các mặt hàng này xuống dưới 20% để thực hiện cam kết tham gia
16
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA).
Trả lời phỏng vấn TTXVN ngày 27/12, ông Tự cho biết, Việt Nam bắt đầu
tham gia Chương trình Thuế quan ưu đãi có Hiệu lực chung (CEPT) từ năm
1996 nhằm tiến tới tham gia đầy đủ vào AFTA vào năm 2006. Cho đến nay
Việt Nam đã qua hơn 6 năm thực hiện CEPT. Gần đây nhất, Chính phủ đã ban
hành Nghị định về Danh mục Hàng hóa và Thuế suất của Việt Nam để thực
hiện Chương trình CEPT/AFTA. Theo Nghị định này, năm 2002, Việt Nam
đưa 481 mặt hàng vào diện cắt giảm thuế nhập khẩu từ các ASEAN. Như vậy,
đến nay tổng cộng đã có khoảng 5.500 mặt hàng đã hoặc đang được cắt giảm
thuế quan.
Từ nay đến 2006, Việt Nam sẽ đưa các mặt hàng còn lại vào diện cắt giảm và
đưa thuế suất các mặt hàng này xuống bằng hoặc dưới 5%, trừ 139 mặt hàng
nằm trong danh mục loại trừ hoàn toàn không có nghĩa vụ phải giảm thuế và
51 mặt hàng nhạy cảm có lộ trình giảm thuế chậm hơn.

Về quan hệ thương mại giữa Việt Nam và ASEAN, ông Tự cho biết, ASEAN
hiện là một đối tác thương mại quan trọng của Việt Nam, thường xuyên chiếm
khoảng 25% kim ngạch trao đổi giữa Việt Nam với thế giới. Năm 2000,
ASEAN chiếm 18% kim ngạch xuất khẩu và 28% kim ngạch nhập khẩu của
Việt Nam. Việt Nam chủ yếu nhập các sản phẩm xăng dầu từ Singapore. Năm
2001, Việt Nam đã nhập 1,18 tỷ USD các sản phẩm xăng dầu từ Singapore.
Theo lộ trình thực hiện AFTA, từ 1/1/2003, 6 nước thành viên cũ của ASEAN
là Singapore, Indonesia, Thái Lan, Brunei, Malaysia, Philippines sẽ hạ thuế
nhập khẩu xuống 0-5%, riêng Singapore thuế suất 0%. Riêng Việt Nam còn
có 3 năm nữa trước khi tham gia hoàn toàn vào AFTA nên một số mặt hàng
như dầu thực vật, bánh kẹo, rau quả, cà phê hòa tan, bia, rượu, xi măng, lốp
xe, giấy, gốm sứ vệ sinh, còn được bảo hộ ở mức tối đa có thể được. Do đó,
cán cân thương mại Việt Nam- ASEAN trong tương lai gần chưa có biến động
nhiều.
Về cơ hội và thách thức khi tham gia vào AFTA, ông Tự nói: “Sau vài năm
nữa, khi các biện pháp bảo hộ không còn, hàng hóa ASEAN có nhiều khả
năng xâm nhập thị trường Việt Nam. Tất nhiên, hàng hóa của Việt Nam cũng
có những cơ hội tương đương. Vấn đề là bên nào có thể tận dụng tốt cơ hội
đem lại, lấy cơ hội để hạn chế thách thức. Cơ hội lớn nhất trước mắt là 6 nước
thành viên cũ hạ thuế suất xuống 0-5% từ 1/1/2003. Các doanh nghiệp Việt
Nam có cơ hội đẩy mạnh xuất khẩu vào các nước này trong 3 năm tới. Cơ hội
thứ hai là các nước phát triển cao của ASEAN như Singapore, Malaysia đều
17
thiếu lao động phổ thông. Malaysia mỗi năm phải nhập khẩu 2 triệu lao động,
Singapore phải nhập gần 1 triệu lao động là cơ hội tốt cho Việt Nam đẩy
mạnh xuất khẩu lao động. Thứ ba, Việt Nam là nước ổn định và an toàn nhất
trong khu vực, giá nhân công của Việt Nam cạnh tranh, thị trường lớn có hơn
80 triệu dân và còn nhiều lĩnh vực chưa phát triển sẽ là những thế mạnh thu
hút các nhà đầu tư, nhất là các nhà đầu tư đến từ các nước ASEAN.
Thách thức lớn nhất đối với Việt Nam là nâng cao năng lực cạnh tranh bằng

cách đổi mới công nghệ, đổi mới quản lý, tiết kiệm hạ giá thành, tăng tiếp thị.
Mỗi sản phẩm mới ra đời hoặc định sản xuất phải nghĩ rằng sẽ bán cả trong
nước và xuất khẩu, coi là sản phẩm của ASEAN.”
Đánh giá về việc chuẩn bị cho việc hội nhập AFTA, ông Tự cho biết: ” Để
đương đầu với cuộc cạnh tranh mới, Chính Phủ đã có nhiều biện pháp như hỗ
trợ xuất khẩu, thành lập quỹ hỗ trợ xuất khẩu, chuyển dịch cơ cấu sản xuất,
v.v đặc biệt mở rộng quyền kinh doanh. Trước kia chỉ có 6.500 doanh
nghiệp nhà nước, đến nay tất cả các thành phần kinh tế đã có 90.000 doanh
nghiệp. Nhiều doanh nghiệp đã chủ động nâng cao sức cạnh tranh, xây dựng
đội ngũ nhân lực và thương hiệu, có kế hoạch vươn ra thị trường nước ngoài,
điển hình như dệt Thành Công, bánh kẹo Kinh Đô, cà phê Trung Nguyên,
bóng đèn Điện Quang, các xí nghiệp chế biến thủy sản, các nhà máy xi
măng
Tuy nhiên, vẫn còn một số các doanh nghiệp chưa nhận thức được những
thách thức đang chờ đợi họ khi thị trường trong nước mở cửa. Họ vẫn trông
chờ vào các biện pháp bảo hộ của Nhà nước như cấp thêm vốn, khoanh nợ
hoặc xóa nợ, nâng cao thuế nhập khẩu, dành độc quyền nhập và cung cấp một
số mặt hàng Thương trường là chiến trường, sẽ có sự đào thải tự nhiên trong
quá trình cạnh tranh này.
Các doanh nghiệp trước hết cần nắm vững chủ trương của Chính phủ về chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế, coi đó là một tiến trình tất yếu nên phải bỏ dần
tư trưởng trồng chờ vào bảo hộ của Nhà nước. Các doanh nghiệp cũng cần tìm
hiểu để nắm rõ các cam kết mà Nhà nước đã đưa vào thực hiện để có đánh giá
đúng đắn về thời cơ và thách thức đối với ngành hàng, dịch vụ mà mình kinh
doanh sản xuất”./.
Hàng giả núp bóng AFTA
18
Nếu người tiêu dùng nóng lòng chờ mua những mặt hàng giá rẻ nhờ
chính sách thuế CEPT/AFTA, thì doanh nghiệp sản xuất lại lo hàng giả
xuất xứ ASEAN nhân cơ hội này tràn sang Việt Nam.

Cục quản lý thị trường (Bộ Thương mại), Vụ giám sát quản lý của Tổng cục
hải quan, Cục cảnh sát điều tra tội phạm kinh tế và chức vụ (C15), vừa nhận
được công văn từ Công ty Sony Việt Nam, đề nghị mở cuộc điều tra tình trạng
sử dụng giấy chứng nhận xuất xứ Asean (C/O form D) giả để trốn thuế nhập
khẩu.
Đề nghị của Sony dựa trên kết quả kiểm tra liên ngành thương mại, hải quan
và quản lý thị trường tại cửa khẩu Cầu Treo, Hà Tĩnh hồi cuối tháng 10/2005.
Theo đó, đoàn kiểm tra phát hiện có 23 lô hàng nhập khẩu Cầu Treo đã sử
dụng C/O form D với chứng nhận 100% giá trị sản phẩm Thái Lan. Hàng hóa
gồm nhiều chủng loại như TV, tủ lạnh, nồi cơm điện, lò vi sóng mang nhãn
hiệu Sony, Hitachi, Panasonic, Sharp. Trong đó chỉ tính riêng sản phẩm TV đã
lên đến tổng trị giá 729.230 USD. Hãng Sony bị thiệt nhiều nhất khi tivi nhãn
hiệu này chiếm đa số trong các lô hàng trên, ước tính tổng giá trị khoảng gần
555.000 USD.
Theo đánh giá của các nhà sản xuất điện tử Việt Nam và những chuyên gia
thương mại, có khả năng 23 bộ hồ sơ nhập khẩu bằng C/O Form D đã được cơ
quan chức năng Việt Nam kiểm tra tại cửa khẩu Cầu Treo là C/O giả hoặc bị
sai sót nghiêm trọng. Lý do, theo chuyên gia, sản phẩm điện tử không thể đạt
mức tỷ lệ 100% xuất xứ Thái Lan, mà đây chỉ là một cách lách để được hưởng
thuế suất ưu đãi của AFTA 20% năm 2005 và 5% cho năm 2006, thay vì phải
chịu mức thuế nhập khẩu thông thường là 50%.
Đây cũng là lần đầu tiên doanh nghiệp phát hiện hàng loạt C/O form D có
nghi vấn và yêu cầu cơ quan chức năng mở cuộc điều tra để bảo vệ quyền lợi
thương mại.
Thương hiệu cãi với nồi cơm
Hàng gian, giả, nhái sẽ theo đuôi AFTA để tràn vào Việt Nam trong thời gian
tới, và “bệnh” ngày càng nặng hơn. Đó là khẳng định của nhiều doanh nghiệp.
Song, có công bố tình trạng sản phẩm bị nhái, giả hay không lại là cuộc đấu
tranh tư tưởng rất dữ của doanh nghiệp. “Người tiêu dùng sẽ bỏ đi khi biết
nhãn hiệu này thường bị nhái, giả vì sợ mua nhầm”, Trưởng phòng đối ngoại

Công ty Sony Vũ Quốc Tuấn băn khoăn.
19
Sau khi hợp nhất 2 nhãn hiệu National và Panasonic, Công ty điện tử
Panasonic cầm cự National một thời gian rồi ngậm ngùi quyết định chia tay
thương hiệu lâu đời và nổi tiếng này. “Một nguyên nhân là hàng gia dụng
National bị làm giả, nhái tràn lan đến nỗi không thể quản lý được chất lượng,
ảnh hưởng đến uy tín thương hiệu”, Giám đốc kỹ thuật Công ty Panasonic Lê
Quang Hải giải thích. Cũng theo ông Hải, các mặt hàng giả, nhái Panasonic
thông dụng nhất là máy sấy tóc, nồi cơm điện, máy xay sinh tố, ổ cắm đèn,
từ Trung Quốc, Thái Lan tràn sang, ảnh hưởng đến thị phần hàng thật trên cả
nước. “Biết, nhưng không có sức để bắt”, ông Hải thốt lên.
Đối với việc C/O form D bị làm giả, ông Hải nêu giả thuyết, có thể do phía
Thái Lan có sơ sót trong thủ tục cấp C/O. “Phía Thái mới giải quyết được vấn
đề này, còn doanh nghiệp Việt Nam chỉ đánh động cơ quan chức năng trong
nước để lưu ý mà thôi”, ông Hải nói.
Trưởng phòng kế hoạch Công ty LG Việt Nam Vũ Minh Tuấn chia sẻ mối lo
ngại: “AFTA là cơ hội, nhưng rất thiệt thòi cho doanh nghiệp trong nước nếu
còn tồn tại những hành vi gian lận thương mại”.
Doanh nghiệp phải tự lo cho mình
Để hạn chế hàng giả, nhái, Panasonic hy vọng nhiều vào giấy phép nhập khẩu
của Công ty Panasonic Holding. Thay vì nhập hàng từ nhiều nguồn, Panasonic
quy về 1 cổng để kiểm soát và dán tem, cập nhật serie Theo ông Hải, hiện
nay Panasonic nhập hàng qua nhiều công ty con và chỉ quản lý bằng cách căn
cứ hồ sơ hải quan để cấp phiếu bảo hành, không thể kiểm soát tại kho nên dễ
dàng bị hàng giả qua mặt.
Công ty Sony cũng phải mất gần 1 năm trời để đi đến quyết định nói thật với
người tiêu dùng về chuyện hàng của công ty mình bị làm giả nhiều. Các nhà
sản xuất Việt Nam cũng đề nghị cơ quan chức năng tiến hành những biện
pháp chống gian lận thương mại để bảo vệ môi trường cạnh tranh trong sạch,
lành mạnh như một cách ngăn chặn hàng giả.

Mới đây, Thứ trưởng Bộ Thương mại Phan Thế Ruệ đã yêu cầu Tổng cục Hải
quan tăng cường kiểm tra tình hình nhập khẩu hàng điện tử, điện lạnh xuất xứ
ASEAN hoặc nhập từ Thái Lan vào Việt Nam qua cửa khẩu giáp ranh Lào
như Lao Bảo, Cầu Treo có sử dụng C/O form D, và xử lý nghiêm những
trường hợp gian lận thương mại để trốn thuế. Tổng cục Hải quan cũng chỉ đạo
các chi cục hải quan địa phương xiết chặt giám sát.
20
Từ chuyện đường lậu tới hội nhập AFTA
Ngành mía đường đang kêu cứu vì bị đường nhập lậu đánh cho “thất
điên, bát đảo”. Theo các chuyên gia về thị trường, riêng trong tháng 3
vừa qua, mỗi ngày có khoảng 300 tấn đường nhập lậu đổ vào
TPHCM. Do giá đường nhập lậu thấp, chưa tới 5.000 đồng/kg, trong
khi giá đường trong nước từ 7.000 – 7.200 đồng/kg nên các nhà máy
đường khốn đốn vì sản phẩm ứ đọng, không tiêu thụ được.
Có nơi như Công ty Mía Đường Cần Thơ, trước đây bán từ 300 – 400
tấn/ngày, nay lượng đường tiêu thụ giảm xuống chỉ còn khoảng 60 – 70
tấn/ngày. Nơi khác như Công ty Thực phẩm Công nghệ TPHCM, theo giám
đốc cho biết thì: “Trong cả tháng 3 gần như không bán được ký đường nào!”.
Bộ Nông nghiệp – Phát triển nông thôn ước tính, đến đầu tháng 5-2002, tổng
lượng đường tồn kho khoảng 335.910 tấn
Các doanh nghiệp sản xuất đường khẳng định nguyên nhân khiến hoạt động
sản xuất – kinh doanh của ngành đình đốn là do buôn lậu.
Ông Trần Oanh Liệt – Giám đốc Sở Thương mại Cần Thơ -phân trần: Một
trong những nguyên nhân khiến các ngành chức năng chống buôn lậu chưa
hiệu quả là vì dân buôn lậu buôn hàng lậu nhưng có hóa đơn. Thông
thường, sau khi bắt được một lô hàng lậu thì người ta tổ chức bán đấu giá lô
hàng ấy và các trùm buôn lậu tìm đủ cách để mua cho bằng được. Cuối cùng,
những tờ hóa đơn cấp cho lô hàng lậu đã qua đấu giá được dùng làm chứng
từ để hợp pháp hóa cho các lô hàng nhập lậu sau đó. Lực lượng kiểm tra –
kiểm soát bó tay vì không thể phân biệt được lô nào là “đường mua hợp pháp

qua đấu giá” lô nào là “đường nhập lậu ”.
Thủ pháp này cũng đã và đang được dùng để buôn lậu cả vải, thuốc lá Lạ là
ai cũng biết nhưng sau khi tịch thu, hàng lậu vẫn cứ được bán đấu giá cho các
trùm buôn lậu. Thế thì khác gì “bán dây để trói mình”?
Thấy rõ sự bất lực trong chống buôn lậu, nhiều người góp ý thôi thì dùng biện
pháp kinh tế: Hạ giá bán đường trong nước cho thấp hơn hoặc bằng giá đường
Thái Lan. Không lời người ta sẽ thôi buôn lậu. Thoạt nghe thì quan điểm này
có vẻ có lý, thế nhưng nghĩ kỹ sẽ thấy chưa ổn vì hình như các doanh nghiệp
đường chưa đủ sức đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước? Hầu hết các nhà
máy đường đều mới được xây dựng, áp lực hoàn trả nợ đầu tư lớn khiến chi
21
phí khấu hao phải phân bổ trên một đơn vị sản phẩm rất cao (khoảng 1.000
đồng/kg). Bên cạnh đó, việc xây dựng vùng nguyên liệu để ổn định đầu vào
chưa được các doanh nghiệp chú trọng đúng mức nên sản lượng mía trồi sụt,
giá mía thiếu ổn định. Nếu hạ giá bán để triệt tiêu buôn lậu, liệu các doanh
nghiệp đường đủ sức cầm cự trong bao lâu (?), còn xuất ngân sách để trợ giá
thì phải bù lỗ tới lúc nào?
Trong tiến trình hội nhập AFTA, Việt Nam đang từng bước cắt giảm thuế
quan, tuy nông sản được xác định là lĩnh vực nhạy cảm nên được bảo hộ đến
2013 mới giảm thuế nhập khẩu xuống còn 0 – 5% nhưng một thập niên chẳng
là bao trong việc củng cố, phát triển nội lực. Cần lưu ý là riêng mặt hàng
đường thì chỉ được bảo hộ bằng thuế cho tới năm 2010. Nói cách khác, việc
bảo hộ chỉ còn không đầy chục năm nhưng đến lúc này, các doanh nghiệp
đường vẫn đang loay hoay về đủ thứ chuyện. Tăng trưởng nhanh để có tư thế
chững chạc khi hội nhập xem ra còn xa vời lắm và đó hình như không phải là
vấn nạn của riêng ngành mía đường
22
23
NGH NH TH V VI C N C C NG HÒA XÃ H I CH NGH A VI T NAM GIA NH P Ị ĐỊ Ư Ề Ệ ƯỚ Ộ Ộ Ủ Ĩ Ệ Ậ
HI P NH V CH NG TRÌNH U ÃI THU QUAN CÓ HI U L C CHUNG CHO KHU Ệ ĐỊ Ề ƯƠ Ư Đ Ế Ệ Ự

V C TH NG M I T DO ASEANỰ ƯƠ Ạ Ự
CĂN CỨ vào Hiệp định về Chương trình Ưu đãi Thuế quan có Hiệu lực Chung
(CEPT) cho Khu vực Thương mại Tự do ASEAN (AFTA) (“Hiệp định”) được
ký kết bởi Chính phủ các nước Brunei Darussalam, Nước Cộng hòa Indonesia,
Malaysia, Nước Cộng hòa Philippines, Nước Cộng hòa Singapore và Vương
Quốc Thái Lan ngày 28 tháng 1 năm 1992 tại Hội nghị Thượng đỉnh IV tổ chức
tại Singapore, và đã được sửa đổi bằng Nghị định thư Sửa đổi Hiệp định về
Chương trình Ưu đãi Thuế quan có Hiệu lực Chung (CEPT) cho Khu vực
Thương mại Tự do ASEAN (AFTA) (“Nghị định thư”) ký kết ngày 15 tháng 12
năm 1995 tại Hội nghị Thượng đỉnh V tại Băng Kok;

CĂN CỨ vào Điều 4 của Nghị định thư, trong đó quy định rằng các thành viên
mới của ASEAN được gia nhập vào Hiệp định theo các điều khoản phù hợp với
Hiệp định khung về Tăng cường Hợp tác Kinh tế ASEAN và Hiệp định đã được
các nước thành viên mới và các nước thành viên hiện có của ASEAN nhất trí;
VÀ CĂN CỨ vào việc nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt nam đã trở thành thành
viên thứ 7 của ASEAN vào ngày 28 tháng 7 năm 1995, và đã thỏa thuận tham gia vào
tất cả các Tuyên bố, Hiệp định, Hiệp ước trong ASEAN;
XÉT TỚI kết quả các vòng đàm phán về việc gia nhập Hiệp định của nước Cộng hòa
Xã hội Chủ nghĩa Việt nam;
VÀ NHẬN THẤY Hiệp định phù hợp với các nguyên tắc, khái niệm, ý tưởng của
Hiệp định khung về Tăng cường Hợp tác Kinh tế ASEAN ký kết tại Singapore ngày
28 tháng 1 năm 1992 và các Hiệp định sửa đổi;
GHI NHẬN những cam kết của Việt nam tại thư của Ngài Nguyễn Mạnh Cầm, Bộ
trưởng Ngoại Giao nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ngày 28 tháng 7 năm
1995 và thư sau đó của Ngài Lê Văn Triết, Bộ trưởng Thương mại nước Cộng hòa Xã
hội Chủ nghĩa Việt Nam ngày 7 tháng 9 năm 1995;
GHI NHẬN HƠN NỮA rằng Việt Nam sẽ dành quy chế Đối xử Tối huệ quốc và Đối
xử quốc gia (đối với các lĩnh vực thuế doanh thu, thuế tiêu thụ đặc biệt, tỷ giá hối
đoái, kiểm sóat ngoại hối và các biện pháp khác) cho các Nước Thành viên của

ASEAN trên cơ sở có đi có lại, và cung cấp các thông tin liên quan khi được yêu cầu;
NHẬT THẤY rằng Việt Nam sẽ chuẩn bị một danh mục cắt giảm thuế và sẽ bắt đầu
cắt giảm thuế từ ngày 1 tháng 1 năm 1996 và giảm xuống mức 0 – 5% vào ngày 1
Có nơi như Công ty Mía Đường Cần Thơ, trước đây bán từ 300 – 400
tấn/ngày, nay lượng đường tiêu thụ giảm xuống chỉ còn khoảng 60 – 70
tấn/ngày. Nơi khác như Công ty Thực phẩm Công nghệ TPHCM, theo giám
đốc cho biết thì: “Trong cả tháng 3 gần như không bán được ký đường nào!”.
Bộ Nông nghiệp – Phát triển nông thôn ước tính, đến đầu tháng 5-2002, tổng
lượng đường tồn kho khoảng 335.910 tấn
Các doanh nghiệp sản xuất đường khẳng định nguyên nhân khiến hoạt động
sản xuất – kinh doanh của ngành đình đốn là do buôn lậu.
Ông Trần Oanh Liệt – Giám đốc Sở Thương mại Cần Thơ -phân trần: Một
trong những nguyên nhân khiến các ngành chức năng chống buôn lậu chưa
hiệu quả là vì dân buôn lậu buôn hàng lậu nhưng có hóa đơn. Thông
thường, sau khi bắt được một lô hàng lậu thì người ta tổ chức bán đấu giá lô
hàng ấy và các trùm buôn lậu tìm đủ cách để mua cho bằng được. Cuối cùng,
những tờ hóa đơn cấp cho lô hàng lậu đã qua đấu giá được dùng làm chứng
từ để hợp pháp hóa cho các lô hàng nhập lậu sau đó. Lực lượng kiểm tra –
kiểm soát bó tay vì không thể phân biệt được lô nào là “đường mua hợp pháp
qua đấu giá” lô nào là “đường nhập lậu ”.
Thủ pháp này cũng đã và đang được dùng để buôn lậu cả vải, thuốc lá Lạ là
ai cũng biết nhưng sau khi tịch thu, hàng lậu vẫn cứ được bán đấu giá cho các
trùm buôn lậu. Thế thì khác gì “bán dây để trói mình”?
Thấy rõ sự bất lực trong chống buôn lậu, nhiều người góp ý thôi thì dùng biện
pháp kinh tế: Hạ giá bán đường trong nước cho thấp hơn hoặc bằng giá đường
Thái Lan. Không lời người ta sẽ thôi buôn lậu. Thoạt nghe thì quan điểm này
có vẻ có lý, thế nhưng nghĩ kỹ sẽ thấy chưa ổn vì hình như các doanh nghiệp
đường chưa đủ sức đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước? Hầu hết các nhà
máy đường đều mới được xây dựng, áp lực hoàn trả nợ đầu tư lớn khiến chi
phí khấu hao phải phân bổ trên một đơn vị sản phẩm rất cao (khoảng 1.000

đồng/kg). Bên cạnh đó, việc xây dựng vùng nguyên liệu để ổn định đầu vào
chưa được các doanh nghiệp chú trọng đúng mức nên sản lượng mía trồi sụt,
giá mía thiếu ổn định. Nếu hạ giá bán để triệt tiêu buôn lậu, liệu các doanh
nghiệp đường đủ sức cầm cự trong bao lâu (?), còn xuất ngân sách để trợ giá
thì phải bù lỗ tới lúc nào?
Trong tiến trình hội nhập AFTA, Việt Nam đang từng bước cắt giảm thuế
quan, tuy nông sản được xác định là lĩnh vực nhạy cảm nên được bảo hộ đến
24
2013 mới giảm thuế nhập khẩu xuống còn 0 – 5% nhưng một thập niên chẳng
là bao trong việc củng cố, phát triển nội lực. Cần lưu ý là riêng mặt hàng
đường thì chỉ được bảo hộ bằng thuế cho tới năm 2010. Nói cách khác, việc
bảo hộ chỉ còn không đầy chục năm nhưng đến lúc này, các doanh nghiệp
đường vẫn đang loay hoay về đủ thứ chuyện. Tăng trưởng nhanh để có tư thế
chững chạc khi hội nhập xem ra còn xa vời lắm và đó hình như không phải là
vấn nạn của riêng ngành mía đường
NGH NH 151 V VI C S A I THU SU T THU NH P KH U TH C HI N Ị ĐỊ Ề Ệ Ử ĐỔ Ế Ấ Ế Ậ Ẩ Ự Ệ
CEPT 2003-2006
NGHỊ ĐỊNH CỦA CHÍNH PHỦ SỐ 151/2004/NĐ-CP NGÀY 05
THÁNG 8 NĂM 2004 VỀ VIỆC SỬA ĐỔI THUẾ SUẤT THUẾ NHẬP
KHẨU MỘT SỐ MẶT HÀNG THUỘC DANH MỤC HÀNG HOÁ VÀ
THUẾ SUẤT CỦA VIỆT NAM
THỰC HIỆN HIỆP ĐỊNH ƯU ĐÃI THUẾ QUAN CÓ HIỆU LỰC
CHUNG (CEPT) CỦA CÁC NƯỚC ASEAN CHO CÁC NĂM 2003 –
2006 ĐÃ BAN HÀNH KÈM THEO NGHỊ ĐỊNH SỐ 78/2003/NĐ-CP
NGÀY 01 THÁNG 7 NĂM 2003 CỦA CHÍNH PHỦ
CHÍNH PHỦ
Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001;
Căn cứ Luật Thuế xuất khẩu, Thuế nhập khẩu ngày 26 tháng 12 năm 1991 đã
được sửa đổi, bổ sung theo luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế
xuất khẩu, Thuế nhập khẩu ngày 05 tháng 7 năm 1993 và luật sửa đổi, bổ

sung một số điều của Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu ngày 20 tháng 5
năm 1998;
Căn cứ Nghị quyết số 292/NQ-UBTVQH9 ngày 08 tháng 11 năm 1995 của ủy
ban Thường vụ Quốc hội về Chương trình giảm thuế nhập khẩu của Việt
Nam để thực hiện Hiệp định Ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) của
các nước ASEAN;
Theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tài chính, Bộ trưởng Bộ Công nghiệp và Bộ
trưởng Bộ Xây dựng,
NGHỊ ĐỊNH:
Điều 1. Sửa đổi thuế suất thuế nhập khẩu một số mặt hàng thuộc Danh mục
hàng hoá và thuế suất các mặt hàng của Việt Nam thực hiện Hiệp định Ưu đãi
25
MỤC LỤC : A.Sơ lược về AFTA1. Hoàn cảnh ra đời2. Mục tiêu của AFTA3. Quan hệ giữa việt nam và AFTAB.Những thách thức và cơ hội của việt nam khi gia nhập AFTA1. Tác động của việt nam so với AFTA2. Cơ hội của việt nam khi gia nhập AFTA3. Thách thức của việt nam khi gia nhập AFTAC.Phương thức hội nhập của VND.Những mặt tieu cực khi VIỆT NAM gia nhập AFTAE.Những văn bản thực thi AFTA của VNA. SÔ LÖÔÏC VEÀ AFTAKhu vực Mậu dịch Tự do ASEAN : Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN ( viết tắt là AFTA từ những vần âm đầu củaASEAN Free Trade Area ) là một hiệp định thương mại tự do ( FTA ) đaphương giữa những nước trong khối ASEAN. Theo đó, sẽ triển khai tiến trìnhgiảm dần thuế quan xuống 0-5 %, vô hiệu dần những hàng rào phi thuế quan đốivới đa số những nhóm hàng và hài hòa hóa thủ tục hải quan giữa những nước. Sáng kiến về AFTA vốn là của Đất nước xinh đẹp Thái Lan. Sau đó hiệp định về AFTAđượcđược ký kết vào năm 1992 tại Nước Singapore. Ban đầu chỉ có sáu nước làBrunei, Indonesia, Malaysia, Philippines, Nước Singapore và Vương Quốc của nụ cười ( gọi chung làASEAN-6 ). Các nước Campuchia, Lào, Myanma và Việt Nam ( gọi chung làCLMV ) được nhu yếu tham gia AFTA khi được kết nạp vào khối này. I.Hoàn cảnh ra đờiVào đầu những năm 90, khi cuộc chiến tranh lạnh kết thúc, những biến hóa trongmôi trường chính trị, kinh tế tài chính quốc tế và khu vực đã đặt kinh tế tài chính những nướcASEAN đứng trước những thách thức lớn không dễ vượt qua nếu không có sựliên kết ngặt nghèo hơn và những nỗ lực chung của toàn Thương Hội, những tháchthức đó là : i ). Quá trình toàn cầu hoá kinh tế tài chính quốc tế diễn ra nhanh gọn và can đảm và mạnh mẽ, đặc biệt quan trọng trong nghành nghề dịch vụ thương mại, chủ nghĩa bảo lãnh truyền thống cuội nguồn trongASEAN ngày càng mất đi sự ủng hộ của những nhà hoạch định chủ trương trongnước cũng như quốc tế. ii ). Sự hình thành và tăng trưởng những tổ chức triển khai hợp tác khu vực mới đặc biệt quan trọng nhưEU, NAFTA sẽ trở thành những khối thương mại khép kín, gây trở ngại cho hànghoá ASEAN khi xâm nhập vào những thị trường này. iii ). Những biến hóa về chủ trương như Open, khuyến khích và dành ưu đãirộng rãi cho những nhà đầu tư quốc tế, cùng với những lợi thế so sánh về tàinguyên vạn vật thiên nhiên và nguồn nhân lực của những nước Trung Quốc, Việt Nam, Nga và những nước Đông Âu đã trở thành những thị trường góp vốn đầu tư mê hoặc hơnASEAN, yên cầu ASEAN vừa phải lan rộng ra về thành viên, vừa phải nâng caohơn nữa tầm hợp tác khu vực. Để đối phó với những thách thức trên, năm 1992, theo sáng tạo độc đáo của Thái lan, Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN họp tại Xingapo đã quyết định hành động xây dựng mộtKhu vực Mậu dịch Tự do ASEAN ( gọi tắt là AFTA ). Đây thực sự là bước ngoặt trong hợp tác kinh tế tài chính ASEAN ở một tầm mức mới. II.Mục tiêu của AFTA : Mục đích của AFTA là nâng cao năng lượng cạnh tranh đối đầu của ASEAN với tư cáchlà một cơ sở sản xuất trên quốc tế, đồng thời tăng cường tính mê hoặc đối vớiđầu tư trực tiếp nướcngoàiAFTA đưa ra nhằm mục đích đạt được những tiềm năng kinh tế tài chính sau : i ) Tự do hoá thương mại trong khu vực bằng việc vô hiệu những hàng rào thuếquan trong nội bộ khu vực và sau cuối là những rào cản phi quan thuế. Điều nàysẽ khiến cho những Doanh nghiệp sản xuất của ASEAN càng phải có hiệu suất cao vàkhả năng cạnh tranh đối đầu hơn trên thị trường quốc tế. Đồng thời, người tiêu dùngsẽ mua được những hàng hoá từ những nhà sản suất có hiệu suất cao và chất lượngtrong ASEAN, dẫn đến sự tăng lên trong thương mại nội khối. ii ) Thu hút những nhà đầu tư quốc tế vào khu vực bằng việc tạo ra một khốithị trường thống nhất, to lớn hơn. iii ) Làm cho ASEAN thích nghi với những điều kiện kèm theo kinh tế tài chính quốc tế đang thayđổi, đặc biệt quan trọng là với sự tăng trưởng của những thỏa thuận hợp tác thương mại khu vực ( RTA ) trên quốc tế. III.Việt Nam và AFTAViệt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 7 của Hiệp hộicác vương quốc Khu vực Đông Nam Á ( ASEAN ) vào ngày 28/7/1995. Đó là một cột mốcquan trọng trong lịch sử vẻ vang quan hệ giữa Việt Nam và những vương quốc trong khuvực. Song song với những hoạt động giải trí hợp tác phong phú trên nhiều nghành kinh tế tài chính – vănhóa – xã hội, 7 năm qua, Việt Nam đã cùng những thành viên ASEAN nỗ lựcchuẩn bị cho sự sinh ra Khu vực mậu dịch tự do ASEAN ( AFTA ). Từ năm 1977, trong khối ASEAN đã có thoả thuận về tự do hóa và đẩy mạnhthương mại giữa những vương quốc thành viên, được lao lý bởi Thỏa thuận Ưuđãi thương mại của ASEAN ( PTA ). Một thập kỷ sau, thỏa thuận hợp tác này lại đượcmở rộng hơn với việc ký kết Nghị định thư về tăng cường lan rộng ra ưu đãithuế quan theo Thỏa thuận Ưu đãi thương mại của ASEAN ( 15/12/1987 ). Để cải tổ và tăng trưởng thêm một bước quan hệ thương mại của ASEAN, đồng thời tăng cường sức cạnh tranh đối đầu của khối, tại Hội nghị thượng đỉnh lầnthứ 4 của ASEAN tại Nước Singapore ( tháng 1/1992 ), những nước thành viên đã quyếtđịnh xây dựng Khu vực mậu dịch tự do ASEAN ( AFTA ). Mục tiêu của AFTAlà tự dohóa thương mại trong khối trải qua việc cắt giảm thuế xuống mức 0-5 %, đồng thời dỡ bỏ những hàng rào phi thuế quan. Việc triển khai AFTA cũng nhằmthúc đẩy sản xuất tại những vương quốc trong khu vực, tăng cường sức cạnh tranhcủa sản phẩm & hàng hóa, lôi cuốn góp vốn đầu tư của quốc tế vào ASEAN.Có thể nói, phương tiện đi lại để tiến tới Khu vực mậu dịch tự do ASEAN chính làHiệp định tặng thêm thuế quan có hiệu lực thực thi hiện hành chung ( CEPT ). Theo kế hoạch banđầu, lộ trình cắt giảm thuế của CEPT được thực thi trong vòng 15 năm đểAFTA trở thành hiện thực vào năm 2008. Tuy nhiên, do sự tăng trưởng và cạnhtranh mạnhmẽ của những link kinh tế tài chính toàn thế giới khác, cũng như do sự tiến bộcủa chính những vương quốc ASEAN, khối này đã quyết định hành động đẩy nhanh thời hạnđến năm 2003. Những mẫu sản phẩm thuộc diện cắt giảm thuế theo CEPT là những loại sản phẩm côngnghiệp chế biến, tư liệu sản xuất, nông sản đã chế biến và nông sản chưa chếbiến. CEPT chỉ loại trừ những loại sản phẩm mà những nước cho là hoàn toàn có thể ảnh hưởngđến bảo mật an ninh vương quốc, đạo đức xã hội, sức khoẻ và đời sống của con người ; những tác phẩm có giá trị nghệ thuật và thẩm mỹ, lịch sử dân tộc hay khảo cổ Các loại sản phẩm trongbiểu thuế được phân loại thành bốn hạng mục : – Danh mục loại trừ trọn vẹn GEL ( General Exception List ) : gồm nhữngmặthàng không phải cắt giảm thuế – Danh mục loại trừ trong thời điểm tạm thời TEL ( Temporing Exception List ) gồm nhữngmặthàng chưa sẵn sàng chuẩn bị giảm thuế. – Danh mục cắt giảm ngay IL ( Inclusion List ) : gồm những loại sản phẩm đã sẵnsàng giảm thuế, việc giảm thuế được triển khai theo hai lộ trình : lộ trình cắtgiảm thông thường ( giảm thuế xuống còn 0 %. 5 % trong vòng 10 năm ) và lộtrình cắt giảm nhanh ( giảm thuế xuống còn 0 %. 5 % trong vòng 7 năm ). – Danh mục hàng nhạy cảm : gồm những nông sản chế biến mà từng nước cholà nhạy cảm với nền kinh tế tài chính của mình nên không đưa vào diện cắt giảm thuếngay. Các nhóm mẫu sản phẩm mà Việt Nam sẽ cắt giảm thuế từ ngày 1/1/2003 gồm có : 1. Sữa và những loại sản phẩm từ sữa2. Dầu thực vật đã tinh chế3. Sản phẩm chế biến từ thuỷ, hải sản4. Rau, quả chế biến, gồm cả nước quả ép5. Càphê tinh chế6. Bia, đồ uống có men và cồn etylic ( trừ rượu nặng ) 7. Clinker và xi măng8. Khí đốt từ dầu mỏ và những loại khí hydrocarbon hoá lỏng9. Amoniac dạng khan hoặc dung dịch10. Phân bón hoá học11. Một số loại sản phẩm bằng plastic ( thí dụ : thiết bị vệ sinh ) 12. Săm, lốp xe máy và xe đạp13. Gỗ ván, gỗ dán, ép14. Các loại giấy chưa đưa vào triển khai cắt giảm thuế theo CEPT15. Vải những loại16. Giày dép da, da thuộc17. Gạch ốp lát bằng gốm, sứ, sứ vệ sinh, kính kiến thiết xây dựng ( trừ những loại đãthực hiện CEPT từ 2001 ) 18. Ruột phích và ruột bình chân không khác19. Một số dạng động cơ đốt trong dùng cho xe máy và ô tô20. Quạt điện gia dụng hoặc công nghiệp có hiệu suất trên 125 KW21. Máy điều hoà22. Động cơ điện xoay chiều, đa pha, có hiệu suất không quá 750W23. Máy thu dùng cho điện thoại cảm ứng vô tuyến, điện báo24. Máy thu hình25. Một số phương tiện đi lại vận tải đường bộ như : máy kéo, xe chở khách từ 16 chỗ ngồi trởlên, xe đạp điện, xe máy trên 250 cc phân khối, phụ tùng và những bộ phận phụ trợ26. Phương tiện bay, tàu ngoài hành tinh và những bộ phận phụ trợ27. Tàu, thuyền và những cấu trúc nổi28. Máy photocopy và máy sao chụp khácViệt Nam triển khai cam kết tham gia AFTATheo ông Lương Văn Tự, Thứ trưởng Bộ Thương mại, Tổng thư ký Ủyban Quốc gia về Hợp tác kinh tế tài chính Quốc tế, năm 2003, Việt Nam sẽ đưa760 loại sản phẩm trong biểu thuế xuất nhập khẩu vào Danh mục giảmthuế và phải giảm thuế suất những loại sản phẩm này xuống dưới 20 % đểthực hiện cam kết tham gia Khu vực mậu dịch tự do ASEAN ( AFTA ). Trả lời phỏng vấn TTXVN ngày 27/12, ông Tự cho biết thêm, Việt Nam bắtđầu tham gia Chương trình Thuế quan khuyễn mãi thêm có Hiệu lực chung ( CEPT ) từ năm 1996 nhằm mục đích tiến tới tham gia vừa đủ vào AFTA vào năm2006. Cho đến nay Việt Nam đã qua hơn 6 năm triển khai CEPT. Gầnđây nhất, nhà nước đã phát hành Nghị định về Danh mục Hàng hóa vàThuế suất của Việt Nam để thực thi Chương trình CEPT / AFTA. TheoNghị định này, năm 2002, Việt Nam đưa 481 loại sản phẩm vào diện cắtgiảm thuế nhập khẩu từ những ASEAN. Như vậy, đến nay tổng số đãcó khoảng chừng 5.500 mẫu sản phẩm đã hoặc đang được cắt giảm thuế quan. Từ nay đến 2006, Việt Nam sẽ đưa những mẫu sản phẩm còn lại vào diện cắtgiảm và đưa thuế suất những mẫu sản phẩm này xuống bằng hoặc dưới 5 %, trừ 139 mẫu sản phẩm nằm trong hạng mục loại trừ trọn vẹn không cónghĩa vụ phải giảm thuế và 51 loại sản phẩm nhạy cảm có lộ trình giảmthuế chậm hơn. Về quan hệ thương mại giữa Việt Nam và ASEAN, ông Tự cho biết, ASEAN hiện là một đối tác chiến lược thương mại quan trọng của Việt Nam, liên tục chiếm khoảng chừng 25 % kim ngạch trao đổi giữa Việt Namvới quốc tế. Năm 2000, ASEAN chiếm 18 % kim ngạch xuất khẩu và28 % kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam. Việt Nam đa phần nhập cácsản phẩm xăng dầu từ Nước Singapore. Năm 2001, Việt Nam đã nhập 1,18 tỷ USD những loại sản phẩm xăng dầu từ Nước Singapore. Theo lộ trình triển khai AFTA, từ 1/1/2003, 6 nước thành viên cũ củaASEAN là Nước Singapore, Indonesia, Vương Quốc của nụ cười, Brunei, Malaysia, Philippinessẽ hạ thuế nhập khẩu xuống 0-5 %, riêng Nước Singapore thuế suất 0 %. Riêng Việt Nam còn có 3 năm nữa trước khi tham gia trọn vẹn vàoAFTA nên 1 số ít loại sản phẩm như dầu thực vật, bánh kẹo, rau quả, càphê hòa tan, bia, rượu, xi-măng, lốp xe, giấy, gốm sứ vệ sinh, cònđược bảo lãnh ở mức tối đa hoàn toàn có thể được. Do đó, cán cân thương mạiViệt Nam – ASEAN trong tương lai gần chưa có dịch chuyển nhiều. Về cơ hội và thách thức khi tham gia vào AFTA, ông Tự nói : ” Sau vàinăm nữa, khi những giải pháp bảo lãnh không còn, hàng hóa ASEAN cónhiều năng lực xâm nhập thị trường Việt Nam. Tất nhiên, hàng hóacủa Việt Nam cũng có những cơ hội tương tự. Vấn đề là bên nào10có thể tận dụng tốt cơ hội đem lại, lấy cơ hội để hạn chế thách thức. Cơ hội lớn nhất trước mắt là 6 nước thành viên cũ hạ thuế suất xuống0-5 % từ 1/1/2003. Các doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội đẩy mạnhxuất khẩu vào những nước này trong 3 năm tới. Cơ hội thứ hai là cácnước tăng trưởng cao của ASEAN như Nước Singapore, Malaysia đều thiếu laođộng đại trà phổ thông. Malaysia mỗi năm phải nhập khẩu 2 triệu lao động, Nước Singapore phải nhập gần 1 triệu lao động là cơ hội tốt cho Việt Namđẩy mạnh xuất khẩu lao động. Thứ ba, Việt Nam là nước không thay đổi vàan toàn nhất trong khu vực, giá nhân công của Việt Nam cạnh tranh đối đầu, thị trường lớn có hơn 80 triệu dân và còn nhiều nghành nghề dịch vụ chưa pháttriển sẽ là những thế mạnh lôi cuốn những nhà đầu tư, nhất là những nhàđầu tư đến từ những nước ASEAN.Thách thức lớn nhất so với Việt Nam là nâng cao năng lượng cạnh tranhbằng cách thay đổi công nghệ tiên tiến, thay đổi quản trị, tiết kiệm chi phí hạ giá tiền, tăng tiếp thị. Mỗi loại sản phẩm mới sinh ra hoặc định sản xuất phải nghĩrằng sẽ bán cả trong nước và xuất khẩu, coi là mẫu sản phẩm của ASEAN. ” Đánh giá về việc chuẩn bị sẵn sàng cho việc hội nhập AFTA, ông Tự cho biết : ” Để đương đầu với cuộc cạnh tranh đối đầu mới, Chính Phủ đã có nhiều biệnpháp như tương hỗ xuất khẩu, xây dựng quỹ tương hỗ xuất khẩu, chuyểndịch cơ cấu tổ chức sản xuất, v.v đặc biệt quan trọng lan rộng ra quyền kinh doanh thương mại. Trướckia chỉ có 6.500 doanh nghiệp nhà nước, đến nay tổng thể những thànhphần kinh tế tài chính đã có 90.000 doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp đã chủđộng nâng cao sức cạnh tranh đối đầu, kiến thiết xây dựng đội ngũ nhân lực và thươnghiệu, có kế hoạch vươn ra thị trường quốc tế, điển hình như dệtThành Công, bánh kẹo Kinh Đô, cafe Tập Đoàn Cafe Trung Nguyên, bóng đèn ĐiệnQuang, những nhà máy sản xuất chế biến thủy hải sản, những nhà máy sản xuất xi măngTuy nhiên, vẫn còn 1 số ít những doanh nghiệp chưa nhận thức đượcnhững thách thức đang chờ đón họ khi thị trường trong nước Open. Họ vẫn trông chờ vào những giải pháp bảo lãnh của Nhà nước như cấpthêm vốn, khoanh nợ hoặc xóa nợ, nâng cao thuế nhập khẩu, dànhđộc quyền nhập và cung ứng một số ít loại sản phẩm Thương trường làchiến trường, sẽ có sự đào thải tự nhiên trong quy trình cạnh tranhnày. Các doanh nghiệp trước hết cần nắm vững chủ trương của Chính phủ11về dữ thế chủ động hội nhập kinh tế tài chính quốc tế, coi đó là một tiến trình tất yếunên phải bỏ dần tư trưởng trồng chờ vào bảo lãnh của Nhà nước. Cácdoanh nghiệp cũng cần tìm hiểu và khám phá để nắm rõ những cam kết mà Nhà nướcđã đưa vào triển khai để có nhìn nhận đúng đắn về thời cơ và tháchthức so với ngành hàng, dịch vụ mà mình kinh doanh thương mại sản xuất “. /. B. NhỮNG THÁCH THỨC VÀ CƠ HỘI CỦA VIÊÏT NAM KHI GIANH ẬP AFTAViệc tham gia ASEAN và AFTA là bước tiến tất yếu tiên phong của Việt Namtrên con đường hội nhập với khu vực và quốc tế. Sự kiện này mở ra cho ViệtNam nhiều cơ hội mới cũng như nhiều thách thức to lớn. Cơ hội và thách thứcđan xen lẫn nhau, yên cầu sự nỗ lực cả tầm vĩ mơ và vi mơ để khai thác triệt đểcác cơ hội và hạn chế đến mức thấp nhất ảnh hưởng tác động xấu đi do những thách thứcđưa đến. I.TÁC ĐỘNG CỦA AFTA ĐỐI VỚI VIỆT NAM : Đối chiếu nội dung của AFTA cũng như những tác động ảnh hưởng hoàn toàn có thể có của nó đốivới những nước thành viên nói chung, so sánh với tình hình đơn cử và tiến trìnhthực hiện AFTA của Việt Nam, AFTA hoàn toàn có thể có những ảnh hưởng tác động trên những mặtchính sau : 1. Nhập khẩu : Trong những năm gần đây, sản phẩm & hàng hóa từ ASEAN vào Việt Nam chiếm khoảng25 % kim ngạch nhập khẩu ( NK ), trong đó ngun vật tư dùng cho sản xuấtvà hàng cơng nghiệp chiếm tỷ trọng lớn. Các loại sản phẩm này đã có thuế suấtdưới 5 % trước khi triển khai CEPT. Vì vậy, AFTA khơng có ảnh hưởng tác động trựctiếp tới việc NK những loại sản phẩm này. Ngồi ra, 1 số ít hàng NK có kimngạch đáng kể ở Việt Nam như xăng dầu, xe máy chưa được đưa vào danhsách giảm thuế ngay nên trước mắt sẽ nằm ngồi khoanh vùng phạm vi tác động ảnh hưởng của AFTA.Về vĩnh viễn, Việt Nam chắc như đinh phải đưa thêm những loại sản phẩm từ danh mụcloại trừ trong thời điểm tạm thời có thuế suất trên 20 % vào diện cắt giảm ngay, và loại trừ dầncác hàng rào phi thuế quan ( nhất là những hạn chế về số lượng nhập khẩu ). Khi đó, nhập khẩu, nhất là những mẫu sản phẩm tiêu dùng từ những nước ASEANvào Việt Nam, sẽ tăng lên nếu những loại sản phẩm cùng loại sản xuất trong nướckhơng cạnh tranh đối đầu lại được. 122. Xuất khẩu : ( a ) Xuất khẩu sang những nước khác thuộc ASEAN : Về mặt kim chỉ nan và cũng như trong dài hạn, AFTA có ảnh hưởng tác động làm tăng sứccạnh tranh của sản phẩm & hàng hóa Việt Nam trên thị trường ASEAN nhờ giảm thuếquan và vô hiệu những hàng rào phi thuế quan. Tuy nhiên trong vài năm tới, khảnăng AFTA làm tăng kim ngạch xuất khẩu ( XK ) của Việt Nam sang những nướcnày không lớn do những nguyên do sau :  Xét về cơ cấu tổ chức hàng xuất khẩu ( XK ) : Những năm gần đây, ASEAN thường chiếm khoảng chừng 20-23 % kim ngạch xuấtkhẩu ( XK ) của Việt Nam và đây là một số lượng đáng kể. Tuy nhiên, những mặthàng được hưởng thuế suất CEPT lại chỉ chiếm gần 20 % kim ngạch XK sangASEAN, tương tự với dưới 4 % tổng kim ngạch XK của Việt Nam năm2001. Ngoài ra, mức tăng XK của những mẫu sản phẩm này sang những nước ASEANkhác cũng không lớn. Hơn nữa, cơ cấu tổ chức sản phẩm & hàng hóa của Việt Nam và ASEANkhá tương đương. Với trình độ thua kém hơn, Việt Nam chỉ hoàn toàn có thể cạnh tranhtrên thị trường ASEAN nhờ tính độc lạ của chủng loại, mẫu mã và do đó, chỉ mang tính bổ trợ cho cơ cấu tổ chức sản phẩm & hàng hóa nước đối tác chiến lược  Xét về bạn hàng : 2/3 doanh thu kinh doanh của Việt Nam với ASEAN được triển khai vớiSingapore. Phần lớn hàng Việt Nam xuất sang Nước Singapore sẽ được tái xuất sangcác nước khác. Nhưng ở nước này, mạng lưới hệ thống thuế xuất nhập khẩu trước AFTAvốn đã thấp, gần như bằng 0 %. Do vậy, khi thực thi CEPT trên toàn khốiASEAN, 1/3 kim ngạch xuất nhập khẩu còn lại của Việt Nam với những nướcASEAN khác sẽ chưa làm đổi khác nhiều XK Việt Nam nếu xét theo khíacạnh được hưởng khuyễn mãi thêm thuế NK thấp. Do vậy, hoàn toàn có thể Tóm lại rằng : Chỉ khi nào Việt Nam tạo được sự dịch chuyểncơ cấu sản xuất và XK theo hướng tạo ra được nhiều chủng loại sản phẩm & hàng hóa cósức cạnh tranh đối đầu và nằm trong hạng mục cắt giảm của CEPT, những doanh nghiệpViệt Nam mới có thêm thuận tiện về yếu tố Ngân sách chi tiêu khi muốn XK sang ASEAN. ( b ) XK sang những quốc tế ASEAN : Về dài hạn, AFTA có tác động ảnh hưởng gián tiếp làm tăng kim ngạch XK của ViệtNam sang những thị trường ngoài ASEAN do nhập được nguồn vào cho sản xuất13XK với giá rẻ hơn từ những nước ASEAN. Mặt khác, với tư cách một thành viêncủa AFTA, Việt Nam có điều kiện kèm theo để khai thác những lợi thế mới trong quanhệ thương mại với nước lớn. Ví dụ, Việt Nam sẽ được hưởng mạng lưới hệ thống ưu đãithuế quan phổ cập của Mỹ ( General System of Preference – GSP ). Bởi GSPquy định ” giá trị một mẫu sản phẩm được sản xuất tại một nước thành viên của mộthiệp hội kinh tế tài chính, khu vực thương mại tự do ( như AFTA ) thì được coi là sảnphẩm của một nước ” và một loại sản phẩm NK vào Mỹ được hưởng GSP nếu ” giátrị nguyên vật liệu NK để sản xuất ra nó chiếm dưới 65 % giá trị loại sản phẩm sau khihoàn thành thủ tục hải quan vào Mỹ “. Điều đó có nghĩa là những nước ASEANcó thể nhập nguyên vật liệu từ những nước thành viên khác để sản xuất hàng XKsang Mỹ, và hàng XK sẽ được hưởng GSP nếu giá trị nguyên vật liệu dưới 65 % giá trị loại sản phẩm. Và do đó, AFTA giúp Việt Nam tăng cường tiếp cận và thâmnhập thị trường Mỹ – quốc gia có kim ngạch NK vượt 1000 tỷ USD mỗi năm. Tuy vậy, như trên đã nói, cơ cấu tổ chức loại sản phẩm của những nước ASEAN xuất ra thịtrường quốc tế lại khá tương đương với Việt Nam, do đó họ cũng được hưởngnhững quyền lợi tựa như. Vì vậy, khi tham gia AFTA, Việt Nam vẫn phải tiếptục gật đầu cạnh tranh đối đầu rất kinh khủng với những thành viên khác trong ASEANkhông chỉ trên thị trường khu vực. II.CÔ HOÄI CUÛA VIEÄT NAM KHI THAM GIA AFTA-Khi gia nhập AFTA, hàng hoá của Việt nam sẽ được hưởng thúê suất ưuđãi thấp hơn cả thuế suất tối huệ quốc mà những nước ASEAN dành cho cácnước thành viên WTO, từ đó có điều kiện kèm theo thuận tiện hơn để hàng hoá Việtnam hoàn toàn có thể xâm nhập thị trường của tổng thể những nước thành viên ASEAN. – Bên cạnh những thuận tiện thu được từ hoạt động giải trí thương mại trong nội bộkhối, khi gia nhập AFTA, việt nam sẽ có thế hơn trong đàm phán thương mạisong phương và đa biên với những cường quốc kinh tế tài chính, cũng như những tổ chứcthương mại quốc tế lớn như Mỹ, nhật, EU hay WTO – Tuy có những trùng lặp giữa việt nam và những nước ASEAN, nhưng có nhiềulĩnh vực mà việt nam hoàn toàn có thể khai thác từ thị trường những nước ASEAN như VNcó thế mạnh trong xuất khẩu nông sản, hàng dệt và may mặc, và ta cũng cónhu cầu nhập nhiều loại sản phẩm từ những nước ASEAN với giá thấp hơn từ cáckhu vực khác trên quốc tế. – Một mặt Doanh nghiệp được lợi do tăng được năng lực cạnh tranh đối đầu so vớicác quốc tế ASEAN về Chi tiêu, mặt khác người tiêu dùng được hưởnglợi do giá thành rẻ hơn và chủng loại hàng hoá đa dạng chủng loại hơn. – Thu hút vốn góp vốn đầu tư, tiếp thu công nghệ tiên tiến, tận dụng nhân công, sử dụng vốnvà kỹ thuật cao trong khu vực14-Các ngành nông nghiệp Việt Nam có nhiều cơ hội trong việc tiếp cận đếnthị trường những nươc ASEANIII. Khó khăn của Việt Nam khi tham gia AFTA : – Thách thức khi tham gia vào AFTA là Việt Nam phải đưa ra lộ trình cắtgiảm thuế quan của những mẫu sản phẩm thương mại sản xuất so với những quốc giathành viên ASEAN trong toàn cảnh nội lực còn chưa đủ mạnh. Những khókhăn này là một phần nhỏ của những khó khăn vất vả trong tiến trình đàm phángia nhập WTO và sau đó là triển khai những cam kết so với WTO. – Lợi ích trực tiếp của nhà nước là nguồn thu ngân sách về thuế xuất nhậpkhẩu giảm – Việc tham gia dẫn tới sự xoá bỏ những hàng rào thuế quan và phi quan thuế, nghĩa là xoá bỏ sự bảo lãnh của chính phủ nước nhà so với những doanh nghiệp, buộccác doanh nghiệp phải tham gia thật sự vào cuộc chới cạnh tranh đối đầu khốc liệttrên thị trường khu vực : cạnh tranh đối đầu thôi thúc sản cuất tăng trưởng, nhưngđồng thời hoàn toàn có thể làm trớ trêu và phá sản hàng loạt những doanh nghiệp, thậm chí còn hàng loạt ngành. Dẫn tới việc biến hóa cơ cấu tổ chức kinh tế tài chính. Đây là vấnđề nan giải so với những doanh nghiệp Việt nam. Tóm lại gia nhập AFTA là bước tập duyệt tiên phong cho nền kinh tế tài chính và cácdoanh nghiệp việt nam để sẵn sàng chuẩn bị cho sự gia nhập thị trường quốc tế to lớn vàđầy sự cạnh tranh đối đầu hơn. C. PHƯƠNG THỨC HỘI NHẬP CỦA VIỆT NAMQuá trình tham gia và lịch trình giảm thuế của Việt nam : 1. Những nhu yếu của CEPT – AFTA so với Việt nam : Căn cứ theo pháp luật của Hiệp định CEPT và thoả thuận giữa Việt nam vàcác nước thành viên khác của ASEAN, chương trình giảm thuế nhập khẩutheo CEPT của Việt Nam khởi đầu được triển khai từ 1/1/1996 và hoàn thànhvào 1/1/2006 để đạt được mức thuế suất ở đầu cuối là 0-5 %, chậm hơn cácnước thành viên khác 3 năm. Các bước đơn cử để triển khai tiềm năng này gồm có : • Xác định hạng mục những loại sản phẩm triển khai giảm thuế theo CEPT gồm : danhmục giảm thuế ngay ( IL ), hạng mục loại trừ trong thời điểm tạm thời ( TEL ), hạng mục hàngnông sản chưa chế biến nhạy cảm ( SL ), hạng mục loại trừ trọn vẹn ( GEL ). • Các mẫu sản phẩm thuộc hạng mục IL sẽ khởi đầu giảm thuế từ 1/1/1996 và kết15thúc với thuế suất 0-5 % vào 1/1/2006. Các loại sản phẩm có thuế suất trên 20 % phải giảm xuống 20 % vào 1/1/2001. Các mẫu sản phẩm có thuế suất nhỏ hơn hoặcbằng 20 % sẽ giảm xuống 0-5 % vào 1/1/2003. • Các loại sản phẩm thuộc hạng mục TEL sẽ được chuyển sang hạng mục IL trongvòng 5 năm, từ 1/1/1999 đến 1/1/2003, mỗi năm chuyển 20 %, để thực hiệngiảm thuế với thuế suất sau cuối là 0-5 % vào năm 2006. Đồng thời, những bướcgiảm sau khi đưa vào IL phải được thực thi chậm nhất là 2-3 năm một lần vàmỗi lần giảm không ít hơn 5 %. • Các mẫu sản phẩm thuộc hạng mục SL sẽ khởi đầu giảm thuế từ 1/1/2004 và kếtthúc vào 1/1/2013 với thuế suất sau cuối là 0-5 %. Riêng loại sản phẩm đườngvào năm 2010 : 0-5 %. • Các loại sản phẩm đã đưa vào chương trình giảm thuế và được hưởng nhượng bộthì phải bỏ ngay những lao lý về hạn chế số lượng ( QRs ) và bỏ dần những biệnpháp hạn chế phi quan thuế khác ( NTBs ) 5 năm sau đó. 2. Tình hình thực thi của ta cho đến nay : a ). Năm 1996 Việt nam đã công bố cho ASEAN những loại Danh mục : Danhmục cắt giảm thuế IL ; Danh mục loại trừ trong thời điểm tạm thời TEL ; Danh mục hàng nôngsản chưa chế biến nhậy cảm SL và Danh mục loại trừ trọn vẹn GEL ; Nguyên tắc kiến thiết xây dựng giải pháp tham gia của Việt nam : – Không gây tác động ảnh hưởng lớn đến nguồn thu ngân sách – Bảo hộ hài hòa và hợp lý cho nền sản xuất trong nước – Tạo điều kiện kèm theo khuyến khích việc chuyển giao kỹ thuật, thay đổi công nghệcho nền sản xuất trong nước – Hợp tác với những nước ASEAN trên cơ sở những qui định của Hiệp định CEPTđể tranh thủ khuyễn mãi thêm, lan rộng ra thị trường cho xuất khẩu và lôi cuốn góp vốn đầu tư nướcngoài. Thách thức AFTA và công nghiệp Việt NamViệt Nam tiến hành công nghiệp hóa trong toàn cảnh mà trào lưu toàn thế giới hoákinh tế ngày càng can đảm và mạnh mẽ. Nói đơn cử hơn, thị trường quốc tế đang rộng mởcho hàng công nghiệp Việt Nam, nhưng ngược lại, Việt Nam cũng phải mởcửa thị trường trong nước, thực thi tự do thương mại. Nếu năng lượng cạnhtranh của Việt Nam mạnh thì cơ hội của toàn cầu hoá sẽ lớn và thách thức sẽnhỏ. Theo ông Lương Văn Tự, Thứ trưởng Bộ Thương mại, Tổng thư ký Ủy banQuốc gia về Hợp tác kinh tế tài chính Quốc tế, năm 2003, Việt Nam sẽ đưa 760 mặthàng trong biểu thuế xuất nhập khẩu vào Danh mục giảm thuế và phải giảmthuế suất những mẫu sản phẩm này xuống dưới 20 % để thực thi cam kết tham gia16Khu vực mậu dịch tự do ASEAN ( AFTA ). Trả lời phỏng vấn TTXVN ngày 27/12, ông Tự cho biết thêm, Việt Nam bắt đầutham gia Chương trình Thuế quan tặng thêm có Hiệu lực chung ( CEPT ) từ năm1996 nhằm mục đích tiến tới tham gia vừa đủ vào AFTA vào năm 2006. Cho đến nayViệt Nam đã qua hơn 6 năm thực thi CEPT. Gần đây nhất, nhà nước đã banhành Nghị định về Danh mục Hàng hóa và Thuế suất của Việt Nam để thựchiện Chương trình CEPT / AFTA. Theo Nghị định này, năm 2002, Việt Namđưa 481 loại sản phẩm vào diện cắt giảm thuế nhập khẩu từ những ASEAN. Như vậy, đến nay tổng số đã có khoảng chừng 5.500 loại sản phẩm đã hoặc đang được cắt giảmthuế quan. Từ nay đến 2006, Việt Nam sẽ đưa những loại sản phẩm còn lại vào diện cắt giảm vàđưa thuế suất những mẫu sản phẩm này xuống bằng hoặc dưới 5 %, trừ 139 mặt hàngnằm trong hạng mục loại trừ trọn vẹn không có nghĩa vụ và trách nhiệm phải giảm thuế và51 loại sản phẩm nhạy cảm có lộ trình giảm thuế chậm hơn. Về quan hệ thương mại giữa Việt Nam và ASEAN, ông Tự cho biết, ASEANhiện là một đối tác chiến lược thương mại quan trọng của Việt Nam, tiếp tục chiếmkhoảng 25 % kim ngạch trao đổi giữa Việt Nam với quốc tế. Năm 2000, ASEAN chiếm 18 % kim ngạch xuất khẩu và 28 % kim ngạch nhập khẩu củaViệt Nam. Việt Nam đa phần nhập những loại sản phẩm xăng dầu từ Nước Singapore. Năm2001, Việt Nam đã nhập 1,18 tỷ USD những mẫu sản phẩm xăng dầu từ Nước Singapore. Theo lộ trình triển khai AFTA, từ 1/1/2003, 6 nước thành viên cũ của ASEANlà Nước Singapore, Indonesia, Thailand, Brunei, Malaysia, Philippines sẽ hạ thuếnhập khẩu xuống 0-5 %, riêng Nước Singapore thuế suất 0 %. Riêng Việt Nam còncó 3 năm nữa trước khi tham gia trọn vẹn vào AFTA nên một số ít mặt hàngnhư dầu thực vật, bánh kẹo, rau quả, cafe hòa tan, bia, rượu, xi-măng, lốpxe, giấy, gốm sứ vệ sinh, còn được bảo lãnh ở mức tối đa hoàn toàn có thể được. Do đó, cán cân thương mại Việt Nam – ASEAN trong tương lai gần chưa có biến độngnhiều. Về cơ hội và thách thức khi tham gia vào AFTA, ông Tự nói : ” Sau vài nămnữa, khi những giải pháp bảo lãnh không còn, hàng hóa ASEAN có nhiều khảnăng xâm nhập thị trường Việt Nam. Tất nhiên, sản phẩm & hàng hóa của Việt Nam cũngcó những cơ hội tương tự. Vấn đề là bên nào hoàn toàn có thể tận dụng tốt cơ hộiđem lại, lấy cơ hội để hạn chế thách thức. Cơ hội lớn nhất trước mắt là 6 nướcthành viên cũ hạ thuế suất xuống 0-5 % từ 1/1/2003. Các doanh nghiệp ViệtNam có cơ hội tăng cường xuất khẩu vào những nước này trong 3 năm tới. Cơ hộithứ hai là những nước tăng trưởng cao của ASEAN như Nước Singapore, Malaysia đều17thiếu lao động đại trà phổ thông. Malaysia mỗi năm phải nhập khẩu 2 triệu lao động, Nước Singapore phải nhập gần 1 triệu lao động là cơ hội tốt cho Việt Nam đẩymạnh xuất khẩu lao động. Thứ ba, Việt Nam là nước không thay đổi và bảo đảm an toàn nhấttrong khu vực, giá nhân công của Việt Nam cạnh tranh đối đầu, thị trường lớn có hơn80 triệu dân và còn nhiều nghành chưa tăng trưởng sẽ là những thế mạnh thuhút những nhà đầu tư, nhất là những nhà đầu tư đến từ những nước ASEAN.Thách thức lớn nhất so với Việt Nam là nâng cao năng lượng cạnh tranh đối đầu bằngcách thay đổi công nghệ tiên tiến, thay đổi quản trị, tiết kiệm ngân sách và chi phí hạ giá tiền, tăng tiếp thị. Mỗi loại sản phẩm mới sinh ra hoặc định sản xuất phải nghĩ rằng sẽ bán cả trongnước và xuất khẩu, coi là mẫu sản phẩm của ASEAN. ” Đánh giá về việc sẵn sàng chuẩn bị cho việc hội nhập AFTA, ông Tự cho biết : ” Đểđương đầu với cuộc cạnh tranh đối đầu mới, Chính Phủ đã có nhiều giải pháp như hỗtrợ xuất khẩu, xây dựng quỹ tương hỗ xuất khẩu, vận động và di chuyển cơ cấu tổ chức sản xuất, v.v đặc biệt quan trọng lan rộng ra quyền kinh doanh thương mại. Trước kia chỉ có 6.500 doanhnghiệp nhà nước, đến nay toàn bộ những thành phần kinh tế tài chính đã có 90.000 doanhnghiệp. Nhiều doanh nghiệp đã dữ thế chủ động nâng cao sức cạnh tranh đối đầu, xây dựngđội ngũ nhân lực và tên thương hiệu, có kế hoạch vươn ra thị trường quốc tế, điển hình như dệt Thành Công, bánh kẹo Kinh Đô, cafe Tập Đoàn Cafe Trung Nguyên, bóng đèn Điện Quang, những nhà máy sản xuất chế biến thủy hải sản, những nhà máy sản xuất ximăngTuy nhiên, vẫn còn 1 số ít những doanh nghiệp chưa nhận thức được nhữngthách thức đang chờ đón họ khi thị trường trong nước Open. Họ vẫn trôngchờ vào những giải pháp bảo lãnh của Nhà nước như cấp thêm vốn, khoanh nợhoặc xóa nợ, nâng cao thuế nhập khẩu, dành độc quyền nhập và phân phối mộtsố mẫu sản phẩm Thương trường là mặt trận, sẽ có sự đào thải tự nhiên trongquá trình cạnh tranh đối đầu này. Các doanh nghiệp trước hết cần nắm vững chủ trương của nhà nước về chủđộng hội nhập kinh tế tài chính quốc tế, coi đó là một tiến trình tất yếu nên phải bỏ dầntư trưởng trồng chờ vào bảo lãnh của Nhà nước. Các doanh nghiệp cũng cần tìmhiểu để nắm rõ những cam kết mà Nhà nước đã đưa vào triển khai để có đánh giáđúng đắn về thời cơ và thách thức so với ngành hàng, dịch vụ mà mình kinhdoanh sản xuất “. /. Hàng giả núp bóng AFTA18Nếu người tiêu dùng nóng lòng chờ mua những loại sản phẩm giá rẻ nhờchính sách thuế CEPT / AFTA, thì doanh nghiệp sản xuất lại lo hàng giảxuất xứ ASEAN nhân cơ hội này tràn sang Việt Nam. Cục quản trị thị trường ( Bộ Thương mại ), Vụ giám sát quản trị của Tổng cụchải quan, Cục công an tìm hiểu tội phạm kinh tế tài chính và chức vụ ( C15 ), vừa nhậnđược công văn từ Công ty Sony Việt Nam, đề xuất mở cuộc tìm hiểu tình trạngsử dụng giấy ghi nhận nguồn gốc Asean ( C / O form D ) giả để trốn thuế nhậpkhẩu. Đề nghị của Sony dựa trên hiệu quả kiểm tra liên ngành thương mại, hải quanvà quản trị thị trường tại cửa khẩu Cầu Treo, TP Hà Tĩnh hồi cuối tháng 10/2005. Theo đó, đoàn kiểm tra phát hiện có 23 lô hàng nhập khẩu Cầu Treo đã sửdụng C / O form D với ghi nhận 100 % giá trị loại sản phẩm xứ sở của những nụ cười thân thiện. Hàng hóagồm nhiều chủng loại như TV, tủ lạnh, nồi cơm điện, lò vi sóng mang nhãnhiệu Sony, Hitachi, Panasonic, Sharp. Trong đó chỉ tính riêng mẫu sản phẩm TV đãlên đến tổng trị giá 729.230 USD. Hãng Sony bị thiệt nhiều nhất khi tivi nhãnhiệu này chiếm đa phần trong những lô hàng trên, ước tính tổng giá trị khoảng chừng gần555. 000 USD.Theo nhìn nhận của những đơn vị sản xuất điện tử Việt Nam và những chuyên giathương mại, có năng lực 23 bộ hồ sơ nhập khẩu bằng C / O Form D đã được cơquan công dụng Việt Nam kiểm tra tại cửa khẩu Cầu Treo là C / O giả hoặc bịsai sót nghiêm trọng. Lý do, theo chuyên viên, loại sản phẩm điện tử không hề đạtmức tỷ suất 100 % nguồn gốc Xứ sở nụ cười Thái Lan, mà đây chỉ là một cách lách để được hưởngthuế suất khuyễn mãi thêm của AFTA 20 % năm 2005 và 5 % cho năm 2006, thay vì phảichịu mức thuế nhập khẩu thường thì là 50 %. Đây cũng là lần tiên phong doanh nghiệp phát hiện hàng loạt C / O form D cónghi vấn và nhu yếu cơ quan chức năng mở cuộc tìm hiểu để bảo vệ quyền lợithương mại. Thương hiệu cãi với nồi cơmHàng gian, giả, nhái sẽ theo đuôi AFTA để tràn vào Việt Nam trong thời giantới, và ” bệnh ” ngày càng nặng hơn. Đó là chứng minh và khẳng định của nhiều doanh nghiệp. Song, có công bố thực trạng mẫu sản phẩm bị nhái, giả hay không lại là cuộc đấutranh tư tưởng rất dữ của doanh nghiệp. ” Người tiêu dùng sẽ bỏ đi khi biếtnhãn hiệu này thường bị nhái, giả vì sợ mua nhầm “, Trưởng phòng đối ngoạiCông ty Sony Vũ Quốc Tuấn do dự. 19S au khi hợp nhất 2 thương hiệu National và Panasonic, Công ty điện tửPanasonic cầm cự National một thời hạn rồi ngậm ngùi quyết định hành động chia taythương hiệu truyền kiếp và nổi tiếng này. ” Một nguyên do là hàng gia dụngNational bị làm giả, nhái tràn ngập đến nỗi không hề quản trị được chất lượng, ảnh hưởng tác động đến uy tín tên thương hiệu “, Giám đốc kỹ thuật Công ty Panasonic LêQuang Hải lý giải. Cũng theo ông Hải, những loại sản phẩm giả, nhái Panasonicthông dụng nhất là máy sấy tóc, nồi cơm điện, máy xay sinh tố, ổ cắm đèn, từ Trung Quốc, Thái Lan tràn sang, tác động ảnh hưởng đến thị trường hàng thật trên cảnước. ” Biết, nhưng không có sức để bắt “, ông Hải thốt lên. Đối với việc C / O form D bị làm giả, ông Hải nêu giả thuyết, hoàn toàn có thể do phíaThái Lan có sơ sót trong thủ tục cấp C / O. ” Phía Thái mới xử lý được vấnđề này, còn doanh nghiệp Việt Nam chỉ đánh động cơ quan chức năng trongnước để chú ý quan tâm mà thôi “, ông Hải nói. Trưởng phòng kế hoạch Công ty LG Việt Nam Vũ Minh Tuấn san sẻ mối longại : ” AFTA là cơ hội, nhưng rất thiệt thòi cho doanh nghiệp trong nước nếucòn sống sót những hành vi gian lận thương mại “. Doanh nghiệp phải tự lo cho mìnhĐể hạn chế hàng giả, nhái, Panasonic kỳ vọng nhiều vào giấy phép nhập khẩucủa Công ty Panasonic Holding. Thay vì nhập hàng từ nhiều nguồn, Panasonicquy về 1 cổng để trấn áp và dán tem, update serie Theo ông Hải, hiệnnay Panasonic nhập hàng qua nhiều công ty con và chỉ quản trị bằng cách căncứ hồ sơ hải quan để cấp phiếu bh, không hề trấn áp tại kho nên dễdàng bị hàng giả qua mặt. Công ty Sony cũng phải mất gần 1 năm trời để đi đến quyết định hành động nói thật vớingười tiêu dùng về chuyện hàng của công ty mình bị làm giả nhiều. Các nhàsản xuất Việt Nam cũng đề xuất cơ quan chức năng triển khai những biệnpháp chống gian lận thương mại để bảo vệ thiên nhiên và môi trường cạnh tranh đối đầu trong sáng, lành mạnh như một cách ngăn ngừa hàng giả. Mới đây, Thứ trưởng Bộ Thương mại Phan Thế Ruệ đã nhu yếu Tổng cục Hảiquan tăng cường kiểm tra tình hình nhập khẩu hàng điện tử, điện lạnh xuất xứASEAN hoặc nhập từ Thailand vào Việt Nam qua cửa khẩu giáp ranh Làonhư Lao Bảo, Cầu Treo có sử dụng C / O form D, và giải quyết và xử lý nghiêm nhữngtrường hợp gian lận thương mại để trốn thuế. Tổng cục Hải quan cũng chỉ đạocác chi cục hải quan địa phương xiết chặt giám sát. 20T ừ chuyện đường lậu tới hội nhập AFTANgành mía đường đang kêu cứu vì bị đường nhập lậu đánh cho “ thấtđiên, bát hòn đảo ”. Theo những chuyên viên về thị trường, riêng trong tháng 3 vừa mới qua, mỗi ngày có khoảng chừng 300 tấn đường nhập lậu đổ vàoTPHCM. Do giá đường nhập lậu thấp, chưa tới 5.000 đồng / kg, trongkhi giá đường trong nước từ 7.000 – 7.200 đồng / kg nên những nhà máyđường khốn đốn vì mẫu sản phẩm ứ đọng, không tiêu thụ được. Có nơi như Công ty Mía Đường Cần Thơ, trước đây bán từ 300 – 400 tấn / ngày, nay lượng đường tiêu thụ giảm xuống chỉ còn khoảng chừng 60 – 70 tấn / ngày. Nơi khác như Công ty Thực phẩm Công nghệ TPHCM, theo giámđốc cho biết thì : “ Trong cả tháng 3 gần như không bán được ký đường nào ! ”. Bộ Nông nghiệp – Phát triển nông thôn ước tính, đến đầu tháng 5-2002, tổnglượng đường tồn dư khoảng chừng 335.910 tấnCác doanh nghiệp sản xuất đường khẳng định chắc chắn nguyên do khiến hoạt độngsản xuất – kinh doanh thương mại của ngành đình đốn là do buôn lậu. Ông Trần Oanh Liệt – Giám đốc Sở Thương mại Cần Thơ – phân trần : Mộttrong những nguyên do khiến những ngành công dụng chống buôn lậu chưahiệu quả là vì dân buôn lậu buôn hàng lậu nhưng có hóa đơn. Thôngthường, sau khi bắt được một lô hàng lậu thì người ta tổ chức triển khai bán đấu giá lôhàng ấy và những trùm buôn lậu tìm đủ cách để mua cho bằng được. Cuối cùng, những tờ hóa đơn cấp cho lô hàng lậu đã qua đấu giá được dùng làm chứngtừ để hợp pháp hóa cho những lô hàng nhập lậu sau đó. Lực lượng kiểm tra – trấn áp bó tay vì không hề phân biệt được lô nào là “ đường mua hợp phápqua đấu giá ” lô nào là “ đường nhập lậu ”. Thủ pháp này cũng đã và đang được dùng để buôn lậu cả vải, thuốc lá Lạ làai cũng biết nhưng sau khi tịch thu, hàng lậu vẫn cứ được bán đấu giá cho cáctrùm buôn lậu. Thế thì khác gì “ bán dây để trói mình ” ? Thấy rõ sự bất lực trong chống buôn lậu, nhiều người góp ý thôi thì dùng biệnpháp kinh tế tài chính : Hạ giá bán đường trong nước cho thấp hơn hoặc bằng giá đườngThái Lan. Không lời người ta sẽ thôi buôn lậu. Thoạt nghe thì quan điểm nàycó vẻ có lý, thế nhưng nghĩ kỹ sẽ thấy chưa ổn vì hình như những doanh nghiệpđường chưa đủ sức cung ứng nhu yếu tiêu dùng trong nước ? Hầu hết những nhàmáy đường đều mới được kiến thiết xây dựng, áp lực đè nén hoàn trả nợ góp vốn đầu tư lớn khiến chi21phí khấu hao phải phân chia trên một đơn vị chức năng mẫu sản phẩm rất cao ( khoảng chừng 1.000 đồng / kg ). Bên cạnh đó, việc thiết kế xây dựng vùng nguyên vật liệu để không thay đổi đầu vàochưa được những doanh nghiệp chú trọng đúng mức nên sản lượng mía trồi sụt, giá mía thiếu không thay đổi. Nếu hạ giá bán để triệt tiêu buôn lậu, liệu những doanhnghiệp đường đủ sức cầm cự trong bao lâu ( ? ), còn xuất ngân sách để trợ giáthì phải bù lỗ tới khi nào ? Trong tiến trình hội nhập AFTA, Việt Nam đang từng bước cắt giảm thuếquan, tuy nông sản được xác lập là nghành nhạy cảm nên được bảo lãnh đến2013 mới giảm thuế nhập khẩu xuống còn 0 – 5 % nhưng một thập niên chẳnglà bao trong việc củng cố, tăng trưởng nội lực. Cần chú ý quan tâm là riêng mặt hàngđường thì chỉ được bảo lãnh bằng thuế cho tới năm 2010. Nói cách khác, việcbảo hộ chỉ còn không đầy chục năm nhưng đến lúc này, những doanh nghiệpđường vẫn đang loay hoay về đủ thứ chuyện. Tăng trưởng nhanh để có tư thếchững chạc khi hội nhập xem ra còn xa vời lắm và đó hình như không phải làvấn nạn của riêng ngành mía đường2223NGH NH TH V VI C N C C NG HÒA XÃ H I CH NGH A VI T NAM GIA NH P Ị ĐỊ Ư Ề Ệ ƯỚ Ộ Ộ Ủ Ĩ Ệ ẬHI P NH V CH NG TRÌNH U ÃI THU QUAN CÓ HI U L C CHUNG CHO KHU Ệ ĐỊ Ề ƯƠ Ư Đ Ế Ệ ỰV C TH NG M I T DO ASEANỰ ƯƠ Ạ ỰCĂN CỨ vào Hiệp định về Chương trình Ưu đãi Thuế quan có Hiệu lực Chung ( CEPT ) cho Khu vực Thương mại Tự do ASEAN ( AFTA ) ( “ Hiệp định ” ) đượcký kết bởi nhà nước những nước Brunei Darussalam, Nước Cộng hòa Indonesia, Malaysia, Nước Cộng hòa Philippines, Nước Cộng hòa Singapore và VươngQuốc Thailand ngày 28 tháng 1 năm 1992 tại Hội nghị Thượng đỉnh IV tổ chứctại Nước Singapore, và đã được sửa đổi bằng Nghị định thư Sửa đổi Hiệp định vềChương trình Ưu đãi Thuế quan có Hiệu lực Chung ( CEPT ) cho Khu vựcThương mại Tự do ASEAN ( AFTA ) ( “ Nghị định thư ” ) ký kết ngày 15 tháng 12 năm 1995 tại Hội nghị Thượng đỉnh V tại Băng Kok ; CĂN CỨ vào Điều 4 của Nghị định thư, trong đó lao lý rằng những thành viênmới của ASEAN được gia nhập vào Hiệp định theo những lao lý tương thích vớiHiệp định khung về Tăng cường Hợp tác Kinh tế ASEAN và Hiệp định đã đượccác nước thành viên mới và những nước thành viên hiện có của ASEAN nhất trí ; VÀ CĂN CỨ vào việc nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt nam đã trở thành thànhviên thứ 7 của ASEAN vào ngày 28 tháng 7 năm 1995, và đã thỏa thuận hợp tác tham gia vàotất cả những Tuyên bố, Hiệp định, Hiệp ước trong ASEAN ; XÉT TỚI hiệu quả những vòng đàm phán về việc gia nhập Hiệp định của nước Cộng hòaXã hội Chủ nghĩa Việt nam ; VÀ NHẬN THẤY Hiệp định tương thích với những nguyên tắc, khái niệm, sáng tạo độc đáo củaHiệp định khung về Tăng cường Hợp tác Kinh tế ASEAN ký kết tại Nước Singapore ngày28 tháng 1 năm 1992 và những Hiệp định sửa đổi ; GHI NHẬN những cam kết của Việt nam tại thư của Ngài Nguyễn Mạnh Cầm, Bộtrưởng Ngoại Giao nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ngày 28 tháng 7 năm1995 và thư sau đó của Ngài Lê Văn Triết, Bộ trưởng Thương mại nước Cộng hòa Xãhội Chủ nghĩa Việt Nam ngày 7 tháng 9 năm 1995 ; GHI NHẬN HƠN NỮA rằng Việt Nam sẽ dành quy định Đối xử Tối huệ quốc và Đốixử vương quốc ( so với những nghành thuế doanh thu, thuế tiêu thụ đặc biệt quan trọng, tỷ giá hốiđoái, kiểm sóat ngoại hối và những giải pháp khác ) cho những Nước Thành viên củaASEAN trên cơ sở có đi có lại, và phân phối những thông tin tương quan khi được nhu yếu ; NHẬT THẤY rằng Việt Nam sẽ chuẩn bị sẵn sàng một hạng mục cắt giảm thuế và sẽ bắt đầucắt giảm thuế từ ngày 1 tháng 1 năm 1996 và giảm xuống mức 0 – 5 % vào ngày 1C ó nơi như Công ty Mía Đường Cần Thơ, trước đây bán từ 300 – 400 tấn / ngày, nay lượng đường tiêu thụ giảm xuống chỉ còn khoảng chừng 60 – 70 tấn / ngày. Nơi khác như Công ty Thực phẩm Công nghệ TPHCM, theo giámđốc cho biết thì : “ Trong cả tháng 3 gần như không bán được ký đường nào ! ”. Bộ Nông nghiệp – Phát triển nông thôn ước tính, đến đầu tháng 5-2002, tổnglượng đường tồn dư khoảng chừng 335.910 tấnCác doanh nghiệp sản xuất đường chứng minh và khẳng định nguyên do khiến hoạt độngsản xuất – kinh doanh thương mại của ngành đình đốn là do buôn lậu. Ông Trần Oanh Liệt – Giám đốc Sở Thương mại Cần Thơ – phân trần : Mộttrong những nguyên do khiến những ngành tính năng chống buôn lậu chưahiệu quả là vì dân buôn lậu buôn hàng lậu nhưng có hóa đơn. Thôngthường, sau khi bắt được một lô hàng lậu thì người ta tổ chức triển khai bán đấu giá lôhàng ấy và những trùm buôn lậu tìm đủ cách để mua cho bằng được. Cuối cùng, những tờ hóa đơn cấp cho lô hàng lậu đã qua đấu giá được dùng làm chứngtừ để hợp pháp hóa cho những lô hàng nhập lậu sau đó. Lực lượng kiểm tra – trấn áp bó tay vì không hề phân biệt được lô nào là “ đường mua hợp phápqua đấu giá ” lô nào là “ đường nhập lậu ”. Thủ pháp này cũng đã và đang được dùng để buôn lậu cả vải, thuốc lá Lạ làai cũng biết nhưng sau khi tịch thu, hàng lậu vẫn cứ được bán đấu giá cho cáctrùm buôn lậu. Thế thì khác gì “ bán dây để trói mình ” ? Thấy rõ sự bất lực trong chống buôn lậu, nhiều người góp ý thôi thì dùng biệnpháp kinh tế tài chính : Hạ giá bán đường trong nước cho thấp hơn hoặc bằng giá đườngThái Lan. Không lời người ta sẽ thôi buôn lậu. Thoạt nghe thì quan điểm nàycó vẻ có lý, thế nhưng nghĩ kỹ sẽ thấy chưa ổn vì hình như những doanh nghiệpđường chưa đủ sức phân phối nhu yếu tiêu dùng trong nước ? Hầu hết những nhàmáy đường đều mới được kiến thiết xây dựng, áp lực đè nén hoàn trả nợ góp vốn đầu tư lớn khiến chiphí khấu hao phải phân chia trên một đơn vị chức năng mẫu sản phẩm rất cao ( khoảng chừng 1.000 đồng / kg ). Bên cạnh đó, việc thiết kế xây dựng vùng nguyên vật liệu để không thay đổi đầu vàochưa được những doanh nghiệp chú trọng đúng mức nên sản lượng mía trồi sụt, giá mía thiếu không thay đổi. Nếu hạ giá bán để triệt tiêu buôn lậu, liệu những doanhnghiệp đường đủ sức cầm cự trong bao lâu ( ? ), còn xuất ngân sách để trợ giáthì phải bù lỗ tới khi nào ? Trong tiến trình hội nhập AFTA, Việt Nam đang từng bước cắt giảm thuếquan, tuy nông sản được xác lập là nghành nghề dịch vụ nhạy cảm nên được bảo lãnh đến242013 mới giảm thuế nhập khẩu xuống còn 0 – 5 % nhưng một thập niên chẳnglà bao trong việc củng cố, tăng trưởng nội lực. Cần quan tâm là riêng mặt hàngđường thì chỉ được bảo lãnh bằng thuế cho tới năm 2010. Nói cách khác, việcbảo hộ chỉ còn không đầy chục năm nhưng đến lúc này, những doanh nghiệpđường vẫn đang loay hoay về đủ thứ chuyện. Tăng trưởng nhanh để có tư thếchững chạc khi hội nhập xem ra còn xa vời lắm và đó hình như không phải làvấn nạn của riêng ngành mía đườngNGH NH 151 V VI C S A I THU SU T THU NH P KH U TH C HI N Ị ĐỊ Ề Ệ Ử ĐỔ Ế Ấ Ế Ậ Ẩ Ự ỆCEPT 2003 – 2006NGH Ị ĐỊNH CỦA CHÍNH PHỦ SỐ 151 / 2004 / NĐ-CP NGÀY 05TH ÁNG 8 NĂM 2004 VỀ VIỆC SỬA ĐỔI THUẾ SUẤT THUẾ NHẬPKHẨU MỘT SỐ MẶT HÀNG THUỘC DANH MỤC HÀNG HOÁ VÀTHUẾ SUẤT CỦA VIỆT NAMTHỰC HIỆN HIỆP ĐỊNH ƯU ĐÃI THUẾ QUAN CÓ HIỆU LỰCCHUNG ( CEPT ) CỦA CÁC NƯỚC ASEAN CHO CÁC NĂM 2003 – 2006 ĐÃ BAN HÀNH KÈM THEO NGHỊ ĐỊNH SỐ 78/2003 / NĐ-CP NGÀY 01 THÁNG 7 NĂM 2003 CỦA CHÍNH PHỦCHÍNH PHỦCăn cứ Luật Tổ chức nhà nước ngày 25 tháng 12 năm 2001 ; Căn cứ Luật Thuế xuất khẩu, Thuế nhập khẩu ngày 26 tháng 12 năm 1991 đãđược sửa đổi, bổ trợ theo luật sửa đổi, bổ trợ một số ít điều của Luật Thuếxuất khẩu, Thuế nhập khẩu ngày 05 tháng 7 năm 1993 và luật sửa đổi, bổsung 1 số ít điều của Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu ngày 20 tháng 5 năm 1998 ; Căn cứ Nghị quyết số 292 / NQ-UBTVQH9 ngày 08 tháng 11 năm 1995 của ủyban Thường vụ Quốc hội về Chương trình giảm thuế nhập khẩu của ViệtNam để triển khai Hiệp định Ưu đãi thuế quan có hiệu lực hiện hành chung ( CEPT ) củacác nước ASEAN ; Theo ý kiến đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tài chính, Bộ trưởng Bộ Công nghiệp và Bộtrưởng Bộ Xây dựng, NGHỊ ĐỊNH : Điều 1. Sửa đổi thuế suất thuế nhập khẩu một số ít mẫu sản phẩm thuộc Danh mụchàng hoá và thuế suất những loại sản phẩm của Việt Nam thực thi Hiệp định Ưu đãi25

Source: https://vh2.com.vn
Category : Cơ Hội