Networks Business Online Việt Nam & International VH2

Chuyên đề: Hoạt động trải nghiệm sáng tạo

Đăng ngày 20 February, 2023 bởi admin

2021 – 07-18 T23 : 12 : 49-04 : 00

https://vh2.com.vn/index.php/trai-nghiem-sang-tao/chuyen-de-hoat-dong-trai-nghiem-sang-tao-71.htmlhttps://vh2.com.vn/uploads/news/2020_12/b3b_jxgr.jpg

https://vh2.com.vn/uploads/logo.gif

1. Hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong chương trình giáo dục phổ thông mới của Việt Nam

Hoạt động giáo dục (theo nghĩa rộng) là những hoạt động có chủ đích, có kế hoạch hoặc có sự định hướng của nhà giáo dục, được thực hiện thông qua những cách thức phù hợp để chuyển tải nội dung giáo dục tới người học nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục.
a) Trong chương trình giáo dục phổ thông hiện hành của Việt Nam, kế hoạch giáo dục bao gồm các môn học và hoạt động giáo dục (theo nghĩa hẹp). Khái niệm hoạt động giáo dục (theo nghĩa hẹp) dùng để chỉ các hoạt động giáo dục được tổ chức ngoài giờ dạy học các môn học và được sử dụng cùng với khái niệm hoạt động dạy học các môn học. Như vậy, hoạt động giáo dục (theo nghĩa rộng) bao gồm hoạt động dạy học và hoạt động giáo dục (theo nghĩa hẹp).
Các hoạt động giáo dục (theo nghĩa hẹp) gồm:
– Hoạt động tập thể (sinh hoạt lớp, sinh hoạt trường, sinh hoạt Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh, sinh hoạt Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh).
– Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp được tổ chức theo các chủ đề giáo dục.
– Hoạt động giáo dục hướng nghiệp (cấp Trung học cơ sở và cấp Trung học phổ thông) giúp học sinh tìm hiểu để định hướng tiếp tục học tập và định hướng nghề nghiệp.

Một buổi tư vấn hướng nghiệp cho học sinh lớp 12Một buổi tư vấn hướng nghiệp cho học sinh lớp 12
– Hoạt động giáo dục nghề phổ thông (cấp Trung học phổ thông) giúp học sinh hiểu được một số kiến thức cơ bản về công cụ, kĩ thuật, quy trình công nghệ, an toàn lao động, vệ sinh môi trường đối với một số nghề phổ thông đã học; hình thành và phát triển kĩ năng vận dụng những kiến thức vào thực tiễn; có một số kĩ năng sử dụng công cụ, thực hành kĩ thuật theo quy trình công nghệ để lảm ra sản phẩm đơn giản.
b) Trong chương trình giáo dục phổ thông mới, kế hoạch giáo dục bao gồm các môn học, chuyên đề học tập (gọi chung là môn học) và hoạt động trải nghiệm sáng tạo; hoạt động giáo dục (theo nghĩa rộng) bao gồm hoạt động dạy học và hoạt động trải nghiệm sáng tạo.
So sánh môn học và hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong chương trình mới được thể hiện trong bảng sau:
So sánh môn học và hoạt động trải nghiệm sáng tạo So sánh môn học và hoạt động trải nghiệm sáng tạo

2. Trải nghiệm sáng tạo: môn độc lập được không?

Hoạt động trải nghiệm sáng tạo xuất hiện trong một số văn bản chỉ đạo của Bộ GD-ĐT khoảng vài ba năm gần đây. Cùng với việc “dạy học tích hợp liên môn”, “dạy học gắn với sản xuất kinh doanh”, “dạy học với di sản”, “trải nghiệm sáng tạo” là việc được nhiều nhà trường thực hiện.
Nhưng những nơi thực hiện đúng tinh thần, có hiệu quả thì không nhiều, “trải nghiệm sáng tạo” trở thành phong trào, thành các cuộc thi mang tính hình thức ở nơi này, nơi kia do không được các cấp quản lý hiểu đúng, chỉ đạo thực hiện đúng.
Trong dự thảo chương trình giáo dục phổ thông tổng thể, hoạt động trải nghiệm sáng tạo được xếp vào nhóm môn học bắt buộc có phân hóa, trải từ tiểu học đến THPT. Trong kế hoạch giáo dục mà ban soạn thảo chương trình xác định, ngoại trừ lớp 10 trải nghiệm sáng tạo dự kiến 70 tiết/năm học, còn các lớp khác từ 1 đến 12 đều được phân bổ 105 tiết/năm học.
Trong tọa đàm phản biện dự thảo chương trình giáo dục phổ thông tổng thể, TS Phạm Đỗ Nhật Tiến (nguyên chuyên gia giáo dục của Bộ GD-ĐT) cho rằng hoạt động trải nghiệm sáng tạo đưa vào chương trình với mục đích chính là chuyển hóa kiến thức, kỹ năng, thái độ thành năng lực. Vì vậy đó không thể là môn học riêng biệt mà phải gắn liền với từng môn học, là một phần của giáo dục môn học.
Vì thế để tách hoạt động này riêng biệt trong hệ thống môn học của các bậc học là không hợp lý, mà nên đưa vào môn học với phân bổ thời lượng hợp lý làm cơ sở để thiết kế chương trình từng môn học theo yêu cầu riêng của từng môn.
Khá nhiều ý kiến băn khoăn của giáo viên phổ thông cũng liên quan tới hoạt động trải nghiệm sáng tạo khi hiểu hoạt động trải nghiệm sáng tạo được ban soạn thảo chương trình thiết kế như một môn học độc lập, với các yêu cầu đánh giá học sinh như các môn học khác. Đặc biệt là đề xuất của ban soạn thảo trong việc lấy kết quả hoạt động trải nghiệm sáng tạo là căn cứ để tuyển chọn, xét tuyển vào các trường sau khi hoàn thành chương trình THPT.
Giải thích về điều này, PGS.TS Đinh Thị Kim Thoa – thành viên ban soạn thảo chương trình, trực tiếp nghiên cứu, soạn thảo nội dung hoạt động trải nghiệm sáng tạo – giải thích: Trong chương trình hiện hành có hoạt động ngoài giờ lên lớp nhằm giúp học sinh củng cố kiến thức, kỹ năng thông qua các hoạt động rèn luyện, thực hành, vận dụng kiến thức. Nhưng do không bắt buộc nên có trường làm, có trường không làm.
Hoạt động này chủ yếu ngoài lớp học nên phụ thuộc nhiều vào điều kiện mỗi trường, địa phương. Vì vậy ở chương trình mới, ban soạn thảo đưa hoạt động này vào nhóm bắt buộc có phân hóa. Theo đó, tất cả các nhà trường đều phải thực hiện.
“Hoạt động trải nghiệm sáng tạo, theo thiết kế của chương trình, sẽ sử dụng những thành tựu của các môn học cộng với yêu cầu xã hội để tạo thành chương trình hoạt động cho học sinh. Đây là một cách giúp học sinh thích ứng với xã hội” – bà Thoa chia sẻ.

3. Ai sẽ dạy học sinh trải nghiệm sáng tạo?

3.1 Hoạt động trải nghiệm sáng tạo có chức năng tương đương với hoạt động ngoài giờ lên lớp hiện tại nhưng được đổi mới hoàn toàn về nội dung.
           
Việc hoạt động trải nghiệm sáng tạo xuất hiện như một nội dung mới trong chương trình giáo dục phổ thông tổng thể đã dành được sự quan tâm cũng như ý kiến từ dư luận. Để hình dung rõ vị trí, vai trò cũng như cách triển khai của hoạt động này trong chương trình phổ thông mới, VietNamNet có cuộc trao đổi với PGS. TS Đinh Thị Kim Thoa, tổng chủ biên chương trình Hoạt động trải nghiệm sáng tạo.
PGS. TS Đinh Thị Kim Thoa, Tổng chủ biên chương trình Hoạt động trải nghiệm sáng tạPGS. TS Đinh Thị Kim Thoa, Tổng chủ biên chương trình Hoạt động trải nghiệm sáng tạ
– Đầu tiên, tôi phải khẳng định Hoạt động trải nghiệm sáng tạo không gọi là môn học mà là hoạt động giáo dục. Môn học được tạo nên bởi một hoặc một vài lĩnh vực khoa học nên nội dung của nó được cấu trúc chặt chẽ còn hoạt động giáo dục sử dụng tích hợp kiến thức, kỹ năng của nhiều lĩnh vực để thực hiện mục tiêu hoạt động của mình.
Chúng ta hình dung một chương trình giáo dục của bất kỳ quốc gia nào cũng bao gồm nội dung dạy học (các môn học) và nội dung giáo dục (các hoạt động giáo dục). Các môn học thực hiện giảng dạy những lĩnh vực có tính khoa học, chủ yếu nhằm phát triển năng lực trí tuệ cho học sinh. 
Bên cạnh đó, chúng ta có hoạt động giáo dục, là hoạt động nhằm phát triển những phẩm chất nhân cách, kỹ năng sống hay là năng lực tâm lý xã hội giúp con người có thể thích nghi, thích ứng với xã hội, làm chủ bản thân, biết sống tích cực và hạnh phúc… Đây là những mặt vô cùng quan trọng để tạo nên cuộc sống có ý nghĩa của mỗi cá nhân.
Theo cách hiểu đó, hoạt động GD trong chương trình phổ thông có tên gọi là hoạt động trải nghiệm sáng tạo. Trong chương trình hiện hành, chúng ta cũng có loại hoạt động này với tên gọi là hoạt động ngoài giờ lên lớp hoặc hoạt động ngoài giờ chính khóa.
– Vậy vì sao chúng ta phải có một tên mới là Hoạt động trải nghiệm sáng tạo,?
– Thực ra việc thay đổi tên gọi của hoạt động này là có mục đích. Chúng ta biết rằng, với hoạt động ngoài giờ lên lớp hiện nay đã có nhiều trường làm khá tốt nhưng cũng có rất nhiều trường chưa quan tâm thoả đáng tới vấn đề này.
Điều này có nghĩa, vì hoạt động này được gọi là “ngoài giờ lên lớp” hay “ngoài giờ chính khóa” nên nhiều trường quan niệm rằng, làm được thì tốt không làm được cũng không sao, không có ai đánh giá, không có yếu tố bắt buộc. 
Đối với học sinh thì các em không tham gia cũng không sao vì nó không phải là hoạt động bắt buộc. Vì vậy, đó cũng là lý do vì sao trong nhiều năm qua, chúng ta vẫn nói với nhau rằng, chúng ta chú trọng nhiều hơn cho “dạy chữ” mà chưa tập trung thích đáng cho “dạy người”.
Do cách ứng xử của chúng ta với hoạt động ngoài giờ chính khóa như vậy nên nếu như sử dụng tên cũ thì sẽ kéo theo thói quen cũ, phương thức làm cũ. Chính vì vậy, chúng tôi nghĩ rằng cần phải cho nó một cái tên mới chứa đựng nhiệm vụ mới, chức năng mới và phương thức mới. Đây là lý do vì sao đổi tên nhưng vị trí, vai trò của hoạt động này đối với giáo dục học sinh thì vẫn như vậy.
– Chỉ thay đổi tên gọi thì liệu có thay đổi được cách ứng xử của nhà trường và học sinh với hoạt động này không?
– Không chỉ thay đổi tên gọi, chúng tôi còn đặt ra những yêu cầu mới đối với hoạt động này nói riêng và giáo dục học sinh nói chung. Đó là, kết quả giáo dục của học sinh trong những năm học phổ thông phải dựa trên cả kết quả học tập và kết quả hoạt động giáo dục, kết quả của rèn luyện nhân cách, sự tham gia phục vụ cộng đồng… 
Chính vì vậy, chương trình hoạt động trải nghiệm sáng tạo được xây dựng sao cho 100% học sinh tham gia, được rèn luyện, và 100% học sinh được đánh giá trong các hoạt động đó. Ngoài ra, kết quả hoạt động này sẽ được tính đến trong các kỳ thi chuyển cấp, tuyển chọn vào các loại hình học tập khác nhau…
Để thực hiện mục tiêu đổi mới đó, chương trình Hoạt động trải nghiệm sáng tạo là chương trình giáo dục bắt buộc có phân hoá và bao gồm các chương trình như sau:
– Chương trình trải nghiệm hoạt động sinh hoạt hành chính nhà trường (Bắt buộc)
– Chương trình hoạt động trải nghiệm định hướng cá nhân (Bắt buộc)
– Chương trình hoạt động trải nghiệm giáo dục tổng hợp (Tự chọn bắt buộc)
– Chương trình hoạt động câu lạc bộ (Tự chọn phân hoá)
Đối với loại chương trình thứ nhất, chúng tôi đề xuất đổi mới giờ sinh hoạt dưới cờ và sinh hoạt lớp. Hai giờ sinh hoạt này là không thể thiếu được trong quản lý nhà trường và quản lý lớp học. 
Tuy nhiên, trong chương trình phổ thông mới, học sinh sẽ được tham gia trực tiếp và chủ động hơn vào các hoạt động này, phối kết hợp chặt chẽ với nhà trường, thầy cô chủ nhiệm lớp, tổng phụ trách Đoàn Đội… để tổ chức lồng ghép các chủ đề giáo dục có tính thời sự, tính địa phương bên cạnh việc thực hiện các nghi lễ trong nhà trường và yêu cầu về quản lý học sinh.
           
3. 2. Vai trò của người thầy trong trải nghiệm sáng tạo

           
Giáo dục không chỉ trong lớp học, điều này đúng. Nhưng trong hoạt động định hướng phát triển sáng tạo, cha mẹ và người thầy, đặc biệt khi trẻ đã đến lớp học, thầy giáo đóng vai trò quan trọng nhất, dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào.
Chính vì vậy, khi nói đến trẻ sáng tạo, hãy đặt vai trò Người Thầy sáng tạo lên trước hết.
Không có thầy không sáng tạo, mà tạo hứng khởi cho trò sáng tạo được… Ít nhất là cho số đông học sinh, và ngoài một số ít học sinh là thiên tài bẩm sinh.
Học sinh trong giờ Vật lí đang tiến hành các thí nghiệmHọc sinh trong giờ Vật lí đang tiến hành các thí nghiệm
Vậy, làm sao tạo ra được Người Thầy sáng tạo?
Theo quan sát cá nhân tôi, với trải nghiệm là người đi học và người đi dạy, có con đi học, tôi nghĩ có 3 yếu tố cơ bản cấu thành nên Người Thầy sáng tạo.
Yếu tố đầu tiên và quan trọng nhất: Thầy yêu thương trò
Yếu tố thứ 2: Thầy tận tâm mong mỏi trò học tốt, có tương lai tốt, thậm chí tốt hơn mình.
Yếu tố thứ 3: Thầy nắm chắc tri thức cơ bản để dạy và có đam mê cập nhật tri thức mới, có khả năng mở rộng tri thức cơ bản ra những lĩnh vực nằm ngoài phần mình dạy.Tức là Thầy cũng có đam mê học suốt đời và mở rộng tri thức của bản thân, thì mới mong dạy trò đi theo đam mê học tập suốt đời được.
Việc đại diện của Đề án chia sẻ về việc hoạt động trải nghiệm sáng tạo có thể thực hiện thế này hay thế khác, tất cả đều khó “định hình” được, vì đã là sáng tạo, thì làm sao bảo người này giống người kia, Thầy này dạy giống Thầy khác, nhất là mỗi Thầy lại ở trong một hoàn cảnh khác nhau, đối tượng học sinh khác nhau, cơ sở vật chất và môi trường học hoàn toàn khác nhau?
Hãy để cho Người Thầy được tự do sáng tạo cách thức họ dạy, họ chia sẻ với học sinh của họ.
Điều quan trọng mà ban Đề án và Bộ Giáo dục và Đào tạo có thể làm là hãy hỏi họ – những Người Thầy của chúng ta, xem họ cần hỗ trợ điều gì, để họ có thể tự do sáng tạo dạy học, và rồi, từ đó, mới hy vọng có trải nghiệm sáng tạo cho học sinh được.
Đây chính là nền tảng cho dân chủ trong lớp học, mà Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam đã khẳng định là tiêu chuẩn để chúng ta đổi mới giáo dục.

4. Hình thức tổ chức các hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong nhà trường phổ thông

HĐTNST được tổ chức dưới nhiều hình thức khác nhau như hoạt động câu lạc bộ, tổ chức trò chơi, diễn đàn, sân khấu tương tác, tham quan dã ngoại, các hội thi, hoạt động giao lưu, hoạt động nhân đạo, hoạt động tình nguyện, hoạt động cộng đồng, sinh hoạt tập thể, lao động công ích, sân khấu hóa (kịch, thơ, hát, múa rối, tiểu phẩm, kịch tham gia,…), thể dục thể thao, tổ chức các ngày hội,… Mỗi hình thức hoạt động trên đều mang ý nghĩa giáo dục nhất định. Dưới đây là một số hình thức tổ chức của HĐTNST trong nhà trường phổ thông:

4.1. Hoạt động câu lạc bộ (CLB)

Câu lạc bộ là hình thức sinh hoạt ngoại khóa của những nhóm học sinh cùng sở thích, nhu cầu, năng khiếu,… dưới sự định hướng của những nhà giáo dục nhằm tạo môi trường giao lưu thân thiện, tích cực giữa các học sinh với nhau và giữa học sinh với thầy cô giáo, với những người lớn khác. Hoạt động của CLB tạo cơ hội để học sinh được chia sẻ những kiến thức, hiểu biết của mình về các lĩnh vực mà các em quan tâm, qua đó phát triển các kĩ năng của học sinh như: kĩ năng giao tiếp, kĩ năng lắng nghe và biểu đạt ý kiến, kĩ năng trình bày suy nghĩ, ý tưởng, kĩ năng viết bài, kĩ năng chụp ảnh, kĩ năng hợp tác, làm việc nhóm, kĩ năng ra quyết định và giải quyết vấn đề,… CLB là nơi để học sinh được thực hành các quyền trẻ em của mình như quyền được học tập, quyền được vui chơi giải trí và tham gia các hoạt động văn hóa, nghệ thuật; quyền được tự do biểu đạt; tìm kiếm, tiếp nhận và phổ biến thông tin,… Thộng qua hoạt động của các CLB, nhà giáo dục hiểu và quan tâm hơn đến nhu cầu, nguyện vọng mục đích chính đáng của các em. CLB hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, thống nhất, có lịch sinh hoạt định kì và có thể được tổ chức với nhiều lĩnh vực khác nhau như: CLB học thuật; CLB thể dục thể thao; CLB văn hóa nghệ thuật; CLB võ thuật; CLB hoạt động thực tế; CLB trò chơi dân gian…
Một buổi sinh hoạt Câu lạc bộ Tiếng AnhMột buổi sinh hoạt Câu lạc bộ Tiếng Anh

4.2. Tổ chức trò chơi

Trò chơi là một loại hình hoạt động giải trí, thư giãn; là món ăn tinh thần nhiều bổ ích và không thể thiếu được trong cuộc sống con người nói chung, đối với học sinh nói riêng. Trò chơi là hình thức tổ chức các hoạt động vui chơi với nội dung kiến thức thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau, có tác dụng giáo dục “chơi mà học, học mà chơi”.
Trò chơi có thể được sử dụng trong nhiều tình huống khác nhau của HĐTNST như làm quen, khởi động, dẫn nhập vào nội dung học tập, cung cấp và tiếp nhận tri thức; đánh giá kết quả, rèn luyện các kĩ năng và củng cố những tri thức đã được tiếp nhận,… Trò chơi giúp phát huy tính sáng tạo, hấp dẫn và gây hứng thú cho học sinh; giúp học sinh dễ tiếp thu kiến thức mới; giúp chuyển tải nhiều tri thức của nhiều lĩnh vực khác nhau; tạo được bầu không khí thân thiện; tạo cho các em tác phong nhanh nhẹn,…

4.3. Tổ chức diễn đàn

Diễn đàn là một hình thức tổ chức hoạt động được sử dụng để thúc đẩy sự tham gia của học sinh thông qua việc các em trực tiếp, chủ động bày tỏ ý kiến của mình với đông đảo bạn bè, nhà trường, thầy cô giáo, cha mẹ và những người lớn khác có liên quan. Diễn đàn là một trong những hình thức tổ chức mang lại hiệu quả giáo dục thiết thực. Thông qua diễn đàn, học sinh có cơ hội bày tỏ suy nghĩ, ý kiến, quan niệm hay những câu hỏi, đề xuất của mình về một vấn đề nào đó có liên quan đến nhu cầu, hứng thú, nguyện vọng của các em. Đây cũng là dịp để các em biết lắng nghe ý kiến, học tập lẫn nhau. Vì vậy, diễn đàn như một sân chơi tạo điều kiện để học sinh được biểu đạt ý kiến của mình một cách trực tiếp với đông đảo bạn bè và những người khác. Diễn đàn thường được tổ chức rất linh hoạt, phong phú và đa dạng với những hình thức hoạt động cụ thể, phù hợp với từng lứa tuổi học sinh.
Tổ chức diễn đàn để các em nói suy nghĩ của mìnhTổ chức diễn đàn để các em nói suy nghĩ của mình
Mục đích của việc tổ chức diễn đàn là để tạo cơ hội, môi trường cho học sinh được bày tỏ ý kiến về những vấn đề các em quan tâm, giúp các em khẳng định vai trò và tiếng nói của mình, đưa ra những suy nghĩ và hành vi tích cực để khẳng định vai trò và tiếng nói của mình, đưa ra những suy nghĩ và hành vi tích cực để khẳng định mình. Qua các diễn đàn, thầy cô giáo, cha mẹ học sinh và những người lớn có liên quan nắm bắt được những băn khoăn, lo lắng và mong đợi của các em về bạn bè, thầy cô, nhà trường và gia đình,… tăng cường cơ hội giao lưu giữa người lớn và trẻ em, giữa trẻ em với trẻ em và thúc đẩy quyền trẻ em trong trường học. Giúp học sinh thực hành quyền được bày tỏ ý kiến, quyền được lắng nghe và quyền được tham gia,… đồng thời giúp các nhà quản lí giáo dục và hoạch định chính sách nắm bắt, nhận biết được những vấn đề mà học sinh quan tâm từ đó có những biện pháp giáo dục và xây dựng chính sách phù hợp hơn với các em.

4.4. Sân khấu tương tác

Sân khấu tương tác (hay sân khấu diễn đàn) là một hình thức nghệ thuật tương tác dựa trên hoạt động diễn kịch, trong đó vở kịch chỉ có phần mở đầu đưa ra tình huống, phần còn lại được sáng tạo bởi những người tham gia. Phần trình diễn chính là một cuộc chia sẻ, thảo luận giữa những người thực hiện và khán giả, trong đó đề cao tính tương tác hay sự tham gia của khán giả. Mục đích của hoạt động này là nhằm tăng cường nhận thức, thúc đẩy để học sinh đưa ra quan điểm, suy nghĩ và cách xử lí tình huống thực tế gặp phải trong bất kì nội dung nào của cuộc sống. Thông qua sân khấu tương tác, sự tham gia của học sinh được tăng cường và thúc đẩy, tạo cơ hội cho học sinh rèn luyện những kĩ năng như: kĩ năng phát hiện vấn đề, kĩ năng phân tích vấn đề, kĩ năng ra quyết định và giải quyết vấn đề, khả năng sáng tạo khi giải quyết tình huống và khả năng ứng phó với những thay đổi của cuộc sống,…

4.5. Tham quan, dã ngoại

Tham quan, dã ngoại là một hình thức tổ chức học tập thực tế hấp dẫn đối với học sinh. Mục đích của tham quan, dã ngoại là để các em học sinh được đi thăm, tìm hiểu và học hỏi kiến thức, tiếp xúc với các di tích lịch sử, văn hóa, công trình, nhà máy… ở xa nơi các em đang sống, học tập, giúp các em có được những kinh nghiệm thực tế, từ đó có thể áp dụng vào cuộc sống của chính các em.

Nội dung tham quan, dã ngoại có tính giáo dục tổng hợp đối với học sinh như: giáo dục lòng yêu thiên nhiên, quê hương, đất nước, giáo dục truyền thống cách mạng, truyền thống lịch sử, truyền thống của Đảng, của Đoàn, của Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh. Các lĩnh vực tham quan, dã ngoại có thể được tổ chức ở nhà trường phổ thông là: Tham quan các danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, văn hóa; Tham quan các công trình công cộng, nhà máy, xí nghiệp; Tham quan các cơ sở sản xuất, làng nghề; Tham quan các Viện bảo tàng; Dã ngoại theo các chủ đề học tập; Dã ngoại theo các hoạt động nhân đạo…
Học sinh xếp hàng vào viếng lăng BácHọc sinh xếp hàng vào viếng lăng Bác

4.6. Hội thi / cuộc thi

Hội thi/cuộc thi là một trong những hình thức tổ chức hoạt động hấp dẫn, lôi cuốn học sinh và đạt hiệu quả cao trong việc tập hợp, giáo dục, rèn luyện và định hướng giá trị cho tuổi trẻ. Hội thi mang tính chất thi đua giữa các cá nhân, nhóm hoặc tập thể luôn hoạt động tích cực để vươn lên đạt được mục tiêu mong muốn thông qua việc tìm ra người/đội thắng cuộc. Chính vì vậy, tổ chức hội thi cho học sinh là một yêu cầu quan trọng, cần thiết của nhà trường, của giáo viên trong quá trình tổ chức HĐTNST.

Mục đích tổ chức hội thi/cuộc thi nhằm lôi cuốn học sinh tham gia một cách chủ động, tích cực vào các hoạt động giáo dục của nhà trường; đáp ứng nhu cầu về vui chơi giải trí cho học sinh; thu hút tài năng và sự sáng tạo của học sinh; phát triển khả năng hoạt động tích cực và tương tác của học sinh, góp phần bồi dưỡng cho các em động cơ học tập tích cực, kích thích hứng thú trong quá trình nhận thức. Hội thi/cuộc thi có thể được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như: Thi vẽ, thi viết, thi tìm hiểu, thi đố vui, thi giải ô chữ, thi tiểu phẩm, thi thời trang, thi kể chuyện, thi chụp ảnh, thi kể chuyện theo tranh, thi sáng tác bài hát, hội thi học tập, hội thi thời trang, hội thi học sinh thanh lịch,… có nội dung giáo dục về một chủ đề nào đó. Nội dung của hội thi rất phong phú, bất cứ nội dung giáo dục nào cũng có thể được tổ chức dưới hình thức hội thi/cuộc thi. Điều quan trọng khi tổ chức hội thi là phải linh hoạt, sáng tạo khi tổ chức thực hiện, tránh máy móc thì cuộc thi mới hấp dẫn.

4.7. Tổ chức sự kiện

Tổ chức sự kiện trong nhà trường phổ thông là một hoạt động tạo cơ hội cho học sinh được thể hiện những ý tưởng, khả năng sáng tạo của mình, thể hiện năng lực tổ chức hoạt động, thực hiện và kiểm tra giám sát hoạt động. Thông qua hoạt động tổ chức sự kiện học sinh được rèn luyện tính tỉ mỉ, chi tiết, đầu óc tổ chức, tính năng động, nhanh nhẹn, kiên nhẫn, có khả năng thiết lập mối quan hệ tốt, có khả năng làm việc theo nhóm, có sức khỏe và niềm đam mê. Khi tham gia tổ chức sự kiện học sinh sẽ thể hiện được sức bền cũng như khả năng chịu được áp lực cao của mình. Ngoài ra, các em còn phải biết cách xoay xở và ứng phó trong mọi tình huống bất kì xảy đến. Các sự kiện học sinh có thể tổ chức trong nhà trường như: Lễ khai mạc, lễ nhập học, lễ tốt nghiệp, lễ kỉ niệm, lễ chúc mừng,…; Các buổi triển lãm, buổi giới thiệu, hội thảo khoa học, hội diễn nghệ thuật; Các hoạt động đánh giá thể lực, kiểm tra thể hình, thể chất của học sinh; Đại hội thể dục thể thao, hội thi đấu giao hữu; Hoạt động học tập thực tế, du lịch khảo sát thực tế, điều tra học thuật; Hoạt động tìm hiểu về di sản văn hóa, về phong tục tập quán; Chuyến đi khám phá đất nước, trải nghiệm văn hóa nước ngoài…

4.8. Hoạt động giao lưu

Giao lưu là một hình thức tổ chức giáo dục nhằm tạo ra các điều kiện cần thiết để cho học sinh được tiếp xúc, trò chuyện và trao đổi thông tin với những nhân vật điển hình trong các lĩnh vực hoạt động nào đó. Qua đó, giúp các em có tình cảm và thái độ phù hợp, có được những lời khuyên đúng đắn để vươn lên trong học tập, rèn luyện và hoàn thiện nhân cách. Hoạt động giao lưu có một số đặc trưng sau:

– Phải có đối tượng giao lưu. Đối tượng giao lưu là những người điển hình, có những thành tích xuất sắc, thành đạt trong các lĩnh vực nào đó, thực sự là tấm gương sáng để học sinh noi theo, phù hợp với nhu cầu hứng thú của học sinh.

– Thu hút sự tham gia đông đảo và tự nguyện của học sinh, được học sinh quan tâm và hào hứng.

– Phải có sự trao đổi thông tin, tình cảm hết sức trung thực, chân thành và sôi nổi giữa học sinh với người được giao lưu. Những vấn đề trao đổi phải thiết thực, liên quan đến lợi ích và hứng thú của học sinh, đáp ứng nhu cầu của các em.
Với những đặc trưng trên, hoạt động giao lưu rất phù hợp với các HĐTNST theo chủ đề. Hoạt động giao lưu dễ dàng được tổ chức trong mọi điều kiện của lớp, của trường.

4.9. Hoạt động chiến dịch

Hoạt động chiến dịch là hình thức tổ chức không chỉ tác động đến học sinh mà tới cả các thành viên cộng đồng. Nhờ các hoạt động này, học sinh có cơ hội khẳng định mình trong cộng đồng, qua đó hình thành và phát triển ý thức “mình vì mọi người, mọi người vì mình”. Việc học sinh tham gia các hoạt động chiến dịch nhằm tăng cường sự hiểu biết và sự quan tâm của học sinh đối với các vấn đề xã hội như vấn đề môi trường, an toàn giao thông, an toàn xã hội,… giúp học sinh có ý thức hành động vì cộng đồng; tập dượt cho học sinh tham gia giải quyết những vấn đề xã hội; phát triển ở học sinh một số kĩ năng cần thiết như kĩ năng hợp tác, kĩ năng thu thập thông tin, kĩ năng đánh giá và kĩ năng ra quyết định.
Mỗi chiến dịch nên mang một chủ đề để định hướng cho các hoạt động như: Chiến dịch giờ trái đất; Chiến dịch làm sạch môi trường xung quanh trường học; Chiến dịch ứng phó vơi biến đổi khí hậu; Chiến dịch bảo vệ môi trường, bảo vệ rừng ngập mặn; Chiến dịch làm cho thế giới sạch hơn; Chiến dịch tình nguyện hè, Chiến dịch ngày thứ 7 tình nguyện… Để thực hiện hoạt động chiến dịch được tốt cần xây dựng kế hoạch để triển khai chiến dịch cụ thể, khả thi với các nguồn lực huy động được và học sinh phải được trang bị trước một số kiến thức, kĩ năng cần thiết để tham gia vào chiến dịch.

4.10. Hoạt động nhân đạo

Hoạt động nhân đạo là hoạt động tác động đến trái tim, tình cảm, sự đồng cảm của học sinh trước những con người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Thông qua hoạt động nhân đạo, học sinh biết thêm những hoàn cảnh khó khăn của người nghèo, người nhiễm chất độc da cam, trẻ em mồ côi, người tàn tật, khuyết tật, người già cô đơn không nơi nương tựa, người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, những đối tượng dễ bị tổn thương trong cuộc sống,… để kịp thời giúp đỡ, giúp họ từng bước khắc phục khó khăn, ổn định cuộc sống, vươn lên hòa nhập với cộng đồng. Hoạt động nhân đạo giúp các em học sinh được chia sẻ những suy nghĩ, tình cảm và giá trị vật chất của mình với những thành viên trong cộng đồng, giúp các em biết quan tâm hơn đến những người xung quanh từ đó giáo dục các giá trị cho học sinh như: tiết kiệm, tôn trọng, chia sẻ, cảm thông, yêu thương, trách nhiệm, hạnh phúc,… Hoạt động nhân đạo trong trường phổ thông được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như: Hiến máu nhân đạo; Xây dựng quỹ ủng hộ các bạn thuộc gia đình nghèo, có hoàn cảnh khó khăn; Tết vì người nghèo và nạn nhân chất độc da cam; Quyên góp cho trẻ em mổ tim trong chương trình “Trái tim cho em”; Quyên góp đồ dùng học tập cho các bạn học sinh vùng cao; Tổ chức trung thu cho học sinh nghèo vùng sâu, vùng xa… 

5. Một số phương pháp tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo cho hoạc sinh phổ thông

HĐ TNST coi trọng các hoạt động thực tiễn mang tính tự chủ của HS, về cơ bản là hoạt động mang tính tập thể trên tinh thần tự chủ cá nhân, với sự nỗ lực giáo dục giúp phát triển sáng tạo và cá tính riêng của mỗi cá nhân trong tập thể. Đây là những HĐGD được tổ chức gắn liền với kinh nghiệm, cuộc sống để HS trải nghiệm và sáng tạo. Điều đó đòi hỏi các hình thức và phương pháp tổ chức HĐ TNST phải đa dạng, linh hoạt, HS tự hoạt động, trải nghiệm là chính.
Ở đây có 4 phương pháp chính, đó là:

5.1. Phương pháp giải quyết vấn đề (GQVĐ)

GQVĐ là một phương pháp giáo dục nhằm phát triển năng lực tư duy, sáng tạo, GQVĐ của HS. Các em được đặt trong tình huống có vấn đề, thông qua việc GQVĐ giúp HS lĩnh hội tri thức, KN và phương pháp.
Trong tổ chức HĐ TNST, phương pháp GQVĐ thường được vận dụng khi HS phân tích, xem xét và đề xuất những giải pháp trước một hiện tượng, sự việc nảy sinh trong quá trình hoạt động.
Phương pháp GQVĐ có ý nghĩa quan trọng, phát huy tính tích cực, sáng tạo của HS, giúp các em có cách nhìn toàn diện hơn trước các hiện tượng, sự việc nảy sinh trong hoạt động, cuộc sống hàng ngày. Để phương pháp này thành công thì vấn đề đưa ra phải sát với mục tiêu hoạt động, kích thích HS tích cực tìm tòi cách giải quyết. Đối với tập thể lớp, khi GQVĐ GV phải coi trọng nguyên tắc tôn trọng, bình đẳng, tránh gây ra căng thẳng không có lợi khi giáo dục HS.
Phương pháp trên được tiến hành theo các bước cụ thể như sau:
Bước 1: Nhận biết vấn đề
Trong bước này GV cần phân tích tình huống đặt ra giúp HS nhận biết được vấn đề để đạt yêu cầu, mục đích đặt ra. Do đó, vấn đề ở đây cần được trình bày rõ ràng, dễ hiểu đối với HS.
Bước 2: Tìm phương án giải quyết
Để tìm ra các phương án GQVĐ, HS cần so sánh, liên hệ với cách GQVĐ tương tự hay kinh nghiệm đã có cũng như tìm phương án giải quyết mới. Các phương án giải quyết đã tìm ra cần được sắp xếp, hệ thống hóa để xử lí ở giai đoạn tiếp theo. Khi có khó khăn hoặc không tìm được phương án giải quyết thì cần quay trở lại việc nhận biết vấn đề để kiểm tra lại và hiểu vấn đề.
Bước 3: Quyết định phương án giải quyết
GV cần quyết định phương án GQVĐ, khi tìm được phải phân tích, so sánh, đánh giá xem có thực hiện được việc GQVĐ hay không. Nếu có nhiều phương án giải quyết thì cần so sánh để xác định phương án tối ưu. Nếu các phương án đã đề xuất mà không giải quyết được vấn đề thì tìm kiếm phương án giải quyết khác. Khi quyết định được phương án thích hợp là đã kết thúc việc GQVĐ.

5.2. Phương pháp sắm vai

Sắm vai là phương pháp giáo dục giúp HS thực hành cách ứng xử, bày tỏ thái độ trong những tình huống giả định hoặc trên cơ sở óc tưởng tượng và ý nghĩ sáng tạo của các em.Sắm vai thường không có kịch bản cho trước mà HS tự xây dựng trong quá trình hoạt động. Đây là phương pháp giúp HS suy nghĩ sâu sắc về một vấn đề bằng cách tập trung vào cách ứng xử cụ thể mà các em quan sát được. Việc “diễn” không phải là phần quan trọng nhất của phương pháp này mà là xử lí tình huống khi diễn và thảo luận sau phần diễn đó.
Mục đích của phương pháp trên không phải chỉ ra cái cần làm mà bắt đầu cho một cuộc thảo luận. Để bắt đầu cho một cuộc thảo luận thú vị người sắm vai nên làm một cái gì đó sai, hoặc phải thực hiện nhiệm vụ vô cùng khó khăn. Nếu người sắm vai làm đúng mọi chuyện thì chẳng có gì để thảo luận.
Sắm vai có ý nghĩa rất lớn trong việc hình thành và phát triển các KN giao tiếp cho HS. Thông qua sắm vai, HS được rèn luyện, thực hành những KN ứng xử và bày tỏ thái độ trong môi trường an toàn trước khi thực hành trong thực tiễn, tạo điều kiện phát triển óc sáng tạo của các em, khích lệ thay đổi thái độ và hành vi theo hướng tích cực trước một vấn đề hay đối tượng nào đó.
Về mặt tâm lý học, thông qua các hành vi, cá nhân nhận thức và giải quyết tốt hơn vấn đề của bản thân, vai trò lĩnh hội được trong quá trình sắm vai cho phép HS thích ứng với cuộc sống tốt hơn. Trong trò chơi cũng như trong cuộc sống, các em mong muốn có được một vai yêu thích, khi sắm một vai HS bước ra từ chính bản thân mình. Điều này trở thành phương tiện để thể hiện niềm vui, nỗi buồn, mối quan tâm, băn khoăn, mong muốn được chia sẻ, sự do dự, ngập ngừng,… của chính các em. Thông qua các vai được sắm trong trò chơi, HS thể hiện các khía cạnh khác nhau trong tính cách như: sự ưa thích, tình cảm, sự hiểu biết về nhân vật mà các em đang sắm vai đó và những người bạn đang chơi cùng với hành động của chúng là điều đặc biệt quan trọng, có ý nghĩa nhiều mặt đối với HS.
Phương pháp sắm vai được tiến hành theo các bước nhất định bao gồm:
– Nêu tình huống sắm vai (phù hợp với chủ đề hoạt động; phải là tình huống mở; phù hợp với trình độ HS).
– Cử nhóm chuẩn bị vai diễn (có thể chuẩn bị trước khi tiến hành họat động): yêu cầu nhóm sắm vai xây dựng kịch bản thể hiện tình huống sao cho sinh động, hấp dẫn, mang tính sân khấu nhưng không đưa ra lời giải hay cách giải quyết tình huống. Kết thúc sắm vai là một kết cục mở để mọi người thảo luận.
– Thảo luận sau khi sắm vai: khi sắm vai kết thúc, người dẫn chương trình đưa ra các câu hỏi có liên quan để HS thảo luận. Ví dụ, trong tình huống trên câu hỏi thảo luận có thể là: 1) Bạn hiểu thế nào là tình yêu?. Tình yêu khác gì so với tình bạn khác giới?. 2) Tình cảm của bạn trong tình huống trên đã thực sự là tình yêu chưa?. 3) Có nên yêu ở tuổi học trò không?. Vì sao?,…
– Thống nhất và chốt lại các ý kiến sau khi thảo luận.

5.3. Phương pháp trò chơi

Trò chơi là tổ chức cho HS tìm hiểu một vấn đề hay thực hiện những hành động, việc làm hoặc hình thành thái độ thông qua một trò chơi nào đó.
Đặc thù của trò chơi:
Trò chơi không phải là thật mà là giả vờ như làm một cái gì đó nhưng mang tính chân thật (nhập các vai chơi một cách chân thật, thể hiện động tác, hành vi phù hợp…). Hơn nữa, đây là một hoạt động tự do, tự nguyện không thể gò ép hoặc bắt buộc chơi khi các em không thích, không đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng của chúng.
Trò chơi được giới hạn bởi không gian và thời gian, có qui tắc tổ chức (luật chơi do nội dung chơi quy định). Đặc thù này sẽ quy định quy mô, số lượng người chơi, điều kiện, vật chất, cũng như xác định tính chất, phương pháp hành động, tổ chức và điều khiển hành vi cũng như những mối quan hệ lẫn nhau của người chơi.
Trò chơi là một hoạt động mang tính sáng tạo cao, thể hiện ở việc lựa chọn chủ đề chơi, phân vai tạo ra tình huống, hoàn cảnh chơi, sử dụng phương tiện thay thế trong các trò chơi sáng tạo, lựa chọn các phương thức hành động và phân chia tình huống chơi để giải quyết nhiệm vụ chơi trong những trò chơi có luật.
Trò chơi là phương tiện giáo dục và phát triển toàn diện HS, giúp các em nâng cao hiểu biết về thế giới hiện thực xung quanh, kích thích trí thông minh, lòng ham hiểu biết, học cách giải quyết nhiệm vụ. Ngoài ra, trò chơi là phương tiện giáo dục phẩm chất nhân cách cho HS. Các phẩm chất nhân cách được hình thành thông qua chơi như tính hợp tác, tính đồng đội, tính tập thể, tính kỷ luật, tự chủ, tích cực, độc lập, sáng tạo, sự quan tâm lo lắng đến người khác, thật thà, dũng cảm, kiên nhẫn,…Trò chơi còn là phương tiện giáo dục thể lực cho HS, giáo dục thẩm mỹ, hình thành các KN giao tiếp, KN xã hội,…
Trò chơi là một phương thức giải trí tích cực, hiệu quả, mang lại niềm vui, sự hứng khởi, hồn nhiên, yêu đời cho HS,…. để các em tiếp tục học tập và rèn luyện tốt hơn.
Về mặt tâm lý học, trong quá trình diễn ra trò chơi tất cả các thành viên của nhóm đều tham gia hết mình và từ đó các em sẽ được trải nghiệm, bởi vì mỗi cá nhân cũng như cả nhóm đang sống trong một tình huống khác với những gì các em đã sống trong cuộc sống thực.
Học sinh tham gia trò chơi 'Gọi đúng tên tôi'Học sinh tham gia trò chơi “Gọi đúng tên tôi”
Việc tổ chức trò chơi được GV tiến hành theo các bước sau:
Bước 1: Chuẩn bị trò chơi
– Xác định đối tượng và mục đích của trò chơi: thông thường, trò chơi nào cũng có tính giáo dục, phụ thuộc vào các góc độ tiếp cận khác nhau đối với loại, dạng trò chơi và người sử dụng, tổ chức trò chơi. Vì thế xác định đối tượng và mục đích trò chơi phù hợp là công việc cần thiết khi tổ chức trò chơi.
– Cử người hướng dẫn chơi (GV).
– Thông báo kế hoạch, thời gian, nội dung trò chơi đến HS.
– Phân công nhiệm vụ cho các lớp, tổ nhóm, đội chơi để chuẩn bị điều kiện phương tiện (lực lượng; phục trang như quần áo, khăn, cờ; còi; phần thưởng) cho cuộc chơi.
Bước 2: Tiến hành trò chơi
– Ổn định tổ chức, bố trí đội hình: tùy từng trò chơi, địa điểm tổ chức, số lượng người chơi mà GV bố trí đội hình, phương tiện cho phù hợp, có thể theo hàng dọc, hàng ngang, vòng tròn hay chữ U,….
– GV xác định vị trí cố định hoặc di động sao cho mọi khẩu lệnh các em đều nghe thấy, các động tác HS quan sát, thực hiện được, ngược lại bản thân GV phải phát hiện được đúng, sai khi các em chơi.
– GV giới thiệu trò chơi phải ngắn gọn, hấp dẫn, dễ hiểu, dễ tiếp thu, dễ thực hiện, bao gồm các nội dung sau: Thông báo tên trò chơi, chủ đề chơi; Nêu mục đích và các yêu cầu của trò chơi; Nói rõ cách chơi và luật chơi. Cho HS chơi nháp/chơi thử 1 -2 lần. Sau đó HS bắt đầu chơi thật.
  Dùng khẩu lệnh bằng lời, còi, kẻng, chuông, trống để điều khiển cuộc chơi.    
– GV hay nhóm trọng tài cần quan sát, theo dõi kỹ, chính xác để đánh giá thắng thua và rút kinh nghiệm….
Bước 3: Kết thúc trò chơi
– Đánh giá kết quả trò chơi: GV công bố kết quả cuộc chơi khách quan, công bằng, chính xác giúp HS nhận thức được ưu điểm và tồn tại để cố gắng ở những trò chơi tiếp theo.
– Động viên, khích lệ ý thức, tinh thần cố gắng của các em, tuyên dương, khen ngợi hay khen thưởng bằng vật chất, tạo không khí vui vẻ, phấn khởi và để lại những ấn tượng tốt đẹp trong tập thể HS về cuộc chơi.
– Dặn dò các em những điều cần thiết (thu dọn phương tiện, vệ sinh nơi chơi,…)

5.4. Phương pháp làm việc nhóm

Làm việc theo nhóm nhỏ là phương pháp tổ chức dạy học – giáo dục, trong đó, GV sắp xếp HS thành những nhóm nhỏ theo hướng tạo ra sự tương tác trực tiếp giữa các thành viên, từ đó HS trong nhóm trao đổi, giúp đỡ và cùng nhau phối hợp làm việc để hoàn thành nhiệm vụ chung của nhóm.
Làm việc nhóm có ý nghĩa rất lớn trong việc:
– Phát huy cao độ vai trò chủ thể, tính tự giác, tích cực, sáng tạo, năng động, tinh thần trách nhiệm của HS, tạo cơ hội cho các em tự thể hiện, tự khẳng định khả năng, thực hiện tốt hơn nhiệm vụ được giao.
– Giúp HS hình thành các KN xã hội và phẩm chất nhân cách cần thiết như: KN tổ chức, quản lí, GQVĐ, hợp tác, có trách nhiệm cao, tinh thần đồng đội, sự quan tâm và mối quan hệ khăng khít, sự ủng hộ cá nhân và khuyến khích tinh thần học hỏi lẫn nhau, xác định giá trị của sự đa dạng và tính gắn kết.
– Thể hiện mối quan hệ bình đẳng, dân chủ và nhân văn: tạo cơ hội bình đẳng cho mỗi cá nhân người học được khẳng định và phát triển. Nhóm làm việc sẽ khuyến khích HS giao tiếp với nhau và như vậy sẽ giúp cho những em nhút nhát, thiếu tự tin có nhiều cơ hội hòa nhập với lớp học,….
Để phương pháp làm việc nhóm thực sự phát huy hiệu quả, GV cần lưu ý một số vấn đề sau:
a) Thiết kế các nhiệm vụ đòi hỏi sự phụ thuộc lẫn nhau
Có một số cách sau đây để tạo ra sự phụ thuộc giữa HS trong nhóm với nhau như:
– Yêu cầu HS chia sẻ tài liệu; – Tạo ra mục tiêu nhóm; – Cho điểm chung cả nhóm;
– Cấu trúc nhiệm vụ như thế nào để HS phụ thuộc vào thông tin của nhau;
– Phân công các vai trò bổ trợ và có liên quan lẫn nhau để thực hiện nhiệm vụ chung của nhóm, từ đó tạo ra sự phụ thuộc tích cực.
b) Tạo ra những nhiệm vụ phù hợp với KN và khả năng làm việc nhóm của HS
Khi thiết kế nhiệm vụ cho nhóm GV cần lưu ý các vấn đề sau: – Đưa ra nhiệm vụ phù hợp với khả năng và đảm bảo thời gian cho HS tham gia đầy đủ nhưng không bắt chúng chờ đợi quá lâu để được khuyến khích hay nhiệm vụ quá nặng nhọc; điều tiết sự đi lại của HS xung quanh lớp học.
c) Phân công nhiệm vụ công bằng giữa các nhóm và các thành viên
GV cố gắng xây dựng nhiệm vụ như thế nào để mỗi thành viên trong nhóm đều có công việc và trách nhiệm cụ thể, từ đó tạo ra vị thế của họ trong nhóm, lớp. Muốn vậy, các nhiệm vụ phải được thiết kế cụ thể, giao việc rõ ràng và mỗi thành viên phải tiếp nhận nhiệm vụ đó, có trách nhiệm giải quyết vì tập thể, nhóm.
d) Đảm bảo trách nhiệm của cá nhân
Để cá nhân có trách nhiệm với công việc của mình GV cần:
– Giao nhiệm vụ rõ ràng cho từng thành viên trong nhóm; 
– Thường xuyên thay đổi nhóm trưởng cũng như người đại diện nhóm báo cáo;
– Sử dụng quy mô nhóm nhỏ, đặc biệt với nhiệm vụ chung có tính chất tìm hiểu, thu thập tư liệu hoặc các nhiệm vụ thực hành, thí nghiệm;
– Phân công HS trong nhóm đảm nhận các vai trò khác nhau như phân tích ở trên;
– Đánh giá mức độ tham gia của cá nhân đối với kết quả công việc của nhóm hoặc yêu cầu mỗi HS hoàn thành công việc trước khi làm việc nhóm.
e) Sử dụng nhiều cách sắp xếp nhóm làm việc khác nhau
Có nhiều cách sắp xếp nhóm làm việc như:
– Hình thành nhóm theo nhiệm vụ;
– Hình thành nhóm học tập theo quy tắc ngẫu nhiên (đếm theo số thứ tự tương đương với số nhóm muốn hình thành. Có thể thay đổi bằng cách đếm theo tên các loài hoa, con vật,… cho thêm vui nhộn; 
– Phân chia nhóm theo bàn hay một số bàn học gần nhau, hoặc dùng đơn vị tổ của HS để làm một hay một số nhóm, theo giới, mức độ, thói quen làm việc, khả năng của HS;
– Một vài người lại thích để HS tự chọn, tuy nhiên, điều này thích hợp nhất đối với những lớp ít HS, những lớp mà các em đã biết rõ về nhau.
g) Hướng dẫn HS phương pháp, KN làm việc nhóm (KNLVN)
KNLVN là yếu tố quyết định thành công của học theo nhóm. Với lợi thế linh hoạt và chủ động về thời gian, nội dung, HĐGD sẽ rất tốt cho việc rèn luyện KNLVN và thực hành các KN xã hội khác. Vì vậy, để rèn luyện KNLVN cho HS có hiệu quả, khi tiến hành làm việc theo nhóm trong HĐ TNST, GV cần tiến hành theo các bước sau:

Bước 1. Chuẩn bị cho hoạt động:
– GV hướng dẫn HS trao đổi, đề xuất vấn đề, xác định mục tiêu, nhiệm vụ, cách thực hiện và lập kế hoạch; tự lựa chọn nhóm theo từng nội dung; phân công nhóm trưởng và các vai trò khác cho từng thành viên;
– Hướng dẫn từng nhóm phân công công việc hợp lí, có liên quan, phụ thuộc nhau;
– Chú trọng HS vào một số KNLVN cần thiết cho hoạt động (chọn 2 – 3 KN để nhấn mạnh): giải thích sự cần thiết; làm rõ khái niệm và cách thể hiện; tạo ra tình huống để luyện tập; tổ chức cho HS tự nhận xét, đánh giá; yêu cầu HS thể hiện các KN đó trong hoạt động.
Bước 2. Thực hiện: 
– GV quan sát, nắm bắt thông tin ngược từ HS xem các nhóm có hiểu rõ nhiệm vụ không?, có thể hiện KNLVN đúng không?, các vai trò thể hiện như thế nào?;
– Giúp đỡ những nhóm vận hành đúng hướng và duy trì mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau một cách tích cực; – Khuyến khích, động viên các nhóm hoặc cá nhân làm việc tốt;
– Can thiệp, điều chỉnh hoạt động của nhóm khi thấy cần thiết,…
Bước 3. Đánh giá hoạt động: Ở bước này GV cần:
– Lôi cuốn HS nhận xét, đánh giá về kết quả hoạt động của nhóm, mức độ tham gia của từng thành viên;
– Gợi mở cho HS phân tích sự phối hợp hoạt động giữa các thành viên trong nhóm, thể hiện các KNLVN;
– Điều chỉnh, bổ sung trên cơ sở đánh giá đúng sự cố gắng của từng nhóm, chú trọng phân tích những KNLVN mà HS đã thể hiện;
– Đưa ra kết luận gồm kết quả hoạt động và mức độ thể hiện các KNLVN (cái gì đã làm tốt, cần rèn luyện thêm và rèn luyện như thế nào).
Tùy theo tính chất và mục đích của từng hoạt động cụ thể cũng như điều kiện, khả năng của các em mà GV có thể lựa chọn một hay nhiều phương pháp phù hợp. Điều quan trọng là phương pháp được lựa chọn cần phát huy cao độ vai trò chủ động, tích cực, sáng tạo của HS và khai thác tối đa kinh nghiệm các em đã có.
– Hoạt động TNST hướng đến những phẩm chất và năng lực chung như đã được đưa ra trong Dự thảo Chương trình mới, ngoài ra hoạt động TNST còn có ưu thế trong việc thúc đẩy hình thành ở người học các năng lực đặc thù sau:
+ Năng lực hoạt động và tổ chức hoạt động;
+ Năng lực tổ chức và quản lý cuộc sống;
+ Năng lực tự nhận thức và tích cực hóa bản thân;
+ Năng lực định hướng nghề nghiệp;
+ Năng lực khám phá và sáng tạo;
Chính vì vậy đầu ra của hoạt động TNST khá đa dạng và khó xác định mức độ chung, nhất là khi nó lại luôn gắn với cảm xúc – lĩnh vực mang tính chủ quan cao, cũng là cơ sở quan trọng của sự hình thành sáng tạo và phân hóa.
“Hoạt động trải nghiệm sáng tạo là hoạt động giữ vai trò rất quan trọng trong chương trình giáo dục phổ thông mới. Hoạt động này giúp cho học sinh có nhiều cơ hội trải nghiệm để vận dụng những kiến thức học được vào thực tiễn từ đó hình thành năng lực thực tiễn cũng như phát huy tiềm năng sáng tạo của bản thân”./.
Hoạt động trải nghiệm sáng tạo Open trong 1 số ít văn bản chỉ huy của Bộ GD-ĐT khoảng chừng vài ba năm gần đây. Cùng với việc ” dạy học tích hợp liên môn “, ” dạy học gắn với sản xuất kinh doanh thương mại “, ” dạy học với di sản “, ” trải nghiệm sáng tạo ” là việc được nhiều nhà trường thực thi. Nhưng những nơi triển khai đúng ý thức, có hiệu suất cao thì không nhiều, ” trải nghiệm sáng tạo ” trở thành trào lưu, thành những cuộc thi mang tính hình thức ở nơi này, nơi kia do không được những cấp quản trị hiểu đúng, chỉ huy triển khai đúng. Trong dự thảo chương trình giáo dục phổ thông tổng thể và toàn diện, hoạt động giải trí trải nghiệm sáng tạo được xếp vào nhóm môn học bắt buộc có phân hóa, trải từ tiểu học đến THPT. Trong kế hoạch giáo dục mà ban soạn thảo chương trình xác lập, ngoại trừ lớp 10 trải nghiệm sáng tạo dự kiến 70 tiết / năm học, còn những lớp khác từ 1 đến 12 đều được phân chia 105 tiết / năm học. Trong tọa đàm phản biện dự thảo chương trình giáo dục phổ thông toàn diện và tổng thể, tiến sỹ Phạm Đỗ Nhật Tiến ( nguyên chuyên viên giáo dục của Bộ GD-ĐT ) cho rằng hoạt động giải trí trải nghiệm sáng tạo đưa vào chương trình với mục tiêu chính là chuyển hóa kiến thức và kỹ năng, kỹ năng và kiến thức, thái độ thành năng lượng. Vì vậy đó không hề là môn học riêng không liên quan gì đến nhau mà phải gắn liền với từng môn học, là một phần của giáo dục môn học. Vì thế để tách hoạt động giải trí này riêng không liên quan gì đến nhau trong mạng lưới hệ thống môn học của những bậc học là không hài hòa và hợp lý, mà nên đưa vào môn học với phân chia thời lượng hài hòa và hợp lý làm cơ sở để phong cách thiết kế chương trình từng môn học theo nhu yếu riêng của từng môn. Khá nhiều quan điểm do dự của giáo viên đại trà phổ thông cũng tương quan tới hoạt động giải trí trải nghiệm sáng tạo khi hiểu hoạt động giải trí trải nghiệm sáng tạo được ban soạn thảo chương trình phong cách thiết kế như một môn học độc lập, với những nhu yếu nhìn nhận học viên như những môn học khác. Đặc biệt là yêu cầu của ban soạn thảo trong việc lấy hiệu quả hoạt động giải trí trải nghiệm sáng tạo là địa thế căn cứ để tuyển chọn, xét tuyển vào những trường sau khi triển khai xong chương trình THPT.Giải thích về điều này, PGS.TS Đinh Thị Kim Thoa – thành viên ban soạn thảo chương trình, trực tiếp nghiên cứu và điều tra, soạn thảo nội dung hoạt động giải trí trải nghiệm sáng tạo – lý giải : Trong chương trình hiện hành có hoạt động giải trí ngoài giờ lên lớp nhằm mục đích giúp học viên củng cố kỹ năng và kiến thức, kiến thức và kỹ năng trải qua những hoạt động giải trí rèn luyện, thực hành thực tế, vận dụng kiến thức và kỹ năng. Nhưng do không bắt buộc nên có trường làm, có trường không làm. Hoạt động này đa phần ngoài lớp học nên nhờ vào nhiều vào điều kiện kèm theo mỗi trường, địa phương. Vì vậy ở chương trình mới, ban soạn thảo đưa hoạt động giải trí này vào nhóm bắt buộc có phân hóa. Theo đó, toàn bộ những nhà trường đều phải triển khai. ” Hoạt động trải nghiệm sáng tạo, theo phong cách thiết kế của chương trình, sẽ sử dụng những thành tựu của những môn học cộng với nhu yếu xã hội để tạo thành chương trình hoạt động giải trí cho học viên. Đây là một cách giúp học viên thích ứng với xã hội ” – bà Thoa san sẻ. Việc hoạt động giải trí trải nghiệm sáng tạo Open như một nội dung mới trong chương trình giáo dục phổ thông toàn diện và tổng thể đã dành được sự chăm sóc cũng như quan điểm từ dư luận. Để tưởng tượng rõ vị trí, vai trò cũng như cách tiến hành của hoạt động giải trí này trong chương trình đại trà phổ thông mới, VietNamNet có cuộc trao đổi với PGS. tiến sỹ Đinh Thị Kim Thoa, tổng chủ biên chương trình Hoạt động trải nghiệm sáng tạo. PGS. tiến sỹ Đinh Thị Kim Thoa, Tổng chủ biên chương trình Hoạt động trải nghiệm sáng tạ – Đầu tiên, tôi phải chứng minh và khẳng định Hoạt động trải nghiệm sáng tạo không gọi là môn học mà là hoạt động giải trí giáo dục. Môn học được tạo nên bởi một hoặc một vài nghành khoa học nên nội dung của nó được cấu trúc ngặt nghèo còn hoạt động giải trí giáo dục sử dụng tích hợp kỹ năng và kiến thức, kiến thức và kỹ năng của nhiều nghành để triển khai tiềm năng hoạt động giải trí của mình. Chúng ta tưởng tượng một chương trình giáo dục của bất kể vương quốc nào cũng gồm có nội dung dạy học ( những môn học ) và nội dung giáo dục ( những hoạt động giải trí giáo dục ). Các môn học triển khai giảng dạy những nghành nghề dịch vụ có tính khoa học, hầu hết nhằm mục đích tăng trưởng năng lượng trí tuệ cho học viên. Bên cạnh đó, tất cả chúng ta có hoạt động giải trí giáo dục, là hoạt động giải trí nhằm mục đích tăng trưởng những phẩm chất nhân cách, kiến thức và kỹ năng sống hay là năng lượng tâm ý xã hội giúp con người hoàn toàn có thể thích nghi, thích ứng với xã hội, làm chủ bản thân, biết sống tích cực và niềm hạnh phúc … Đây là những mặt vô cùng quan trọng để tạo nên đời sống có ý nghĩa của mỗi cá thể. Theo cách hiểu đó, hoạt động giải trí GD trong chương trình đại trà phổ thông có tên gọi là hoạt động giải trí trải nghiệm sáng tạo. Trong chương trình hiện hành, tất cả chúng ta cũng có loại hoạt động giải trí này với tên gọi là hoạt động giải trí ngoài giờ lên lớp hoặc hoạt động giải trí ngoài giờ chính khóa. – Vậy vì sao tất cả chúng ta phải có một tên mới là Hoạt động trải nghiệm sáng tạo, ? – Thực ra việc đổi khác tên gọi của hoạt động giải trí này là có mục tiêu. Chúng ta biết rằng, với hoạt động giải trí ngoài giờ lên lớp lúc bấy giờ đã có nhiều trường làm khá tốt nhưng cũng có rất nhiều trường chưa chăm sóc thỏa đáng tới yếu tố này. Điều này có nghĩa, vì hoạt động giải trí này được gọi là ” ngoài giờ lên lớp ” hay ” ngoài giờ chính khóa ” nên nhiều trường ý niệm rằng, làm được thì tốt không làm được cũng không sao, không có ai nhìn nhận, không có yếu tố bắt buộc. Đối với học viên thì những em không tham gia cũng không sao vì nó không phải là hoạt động giải trí bắt buộc. Vì vậy, đó cũng là nguyên do vì sao trong nhiều năm qua, tất cả chúng ta vẫn nói với nhau rằng, tất cả chúng ta chú trọng nhiều hơn cho ” dạy chữ ” mà chưa tập trung chuyên sâu thích đáng cho ” dạy người “. Do cách ứng xử của tất cả chúng ta với hoạt động giải trí ngoài giờ chính khóa như vậy nên nếu như sử dụng tên cũ thì sẽ kéo theo thói quen cũ, phương pháp làm cũ. Chính thế cho nên, chúng tôi nghĩ rằng cần phải cho nó một cái tên mới tiềm ẩn trách nhiệm mới, công dụng mới và phương pháp mới. Đây là nguyên do vì sao đổi tên nhưng vị trí, vai trò của hoạt động giải trí này so với giáo dục học viên thì vẫn như vậy. – Chỉ biến hóa tên gọi thì liệu có biến hóa được cách ứng xử của nhà trường và học viên với hoạt động giải trí này không ? – Không chỉ biến hóa tên gọi, chúng tôi còn đặt ra những nhu yếu mới so với hoạt động giải trí này nói riêng và giáo dục học viên nói chung. Đó là, tác dụng giáo dục của học viên trong những năm học đại trà phổ thông phải dựa trên cả tác dụng học tập và tác dụng hoạt động giải trí giáo dục, hiệu quả của rèn luyện nhân cách, sự tham gia Giao hàng hội đồng … Chính thế cho nên, chương trình hoạt động giải trí trải nghiệm sáng tạo được kiến thiết xây dựng sao cho 100 % học viên tham gia, được rèn luyện, và 100 % học viên được nhìn nhận trong những hoạt động giải trí đó. Ngoài ra, tác dụng hoạt động giải trí này sẽ được tính đến trong những kỳ thi chuyển cấp, tuyển chọn vào những loại hình học tập khác nhau … Để thực thi tiềm năng đổi mới đó, chương trình Hoạt động trải nghiệm sáng tạo là chương trình giáo dục bắt buộc có phân hóa và gồm có những chương trình như sau : – Chương trình trải nghiệm hoạt động giải trí hoạt động và sinh hoạt hành chính nhà trường ( Bắt buộc ) – Chương trình hoạt động giải trí trải nghiệm xu thế cá thể ( Bắt buộc ) – Chương trình hoạt động giải trí trải nghiệm giáo dục tổng hợp ( Tự chọn bắt buộc ) – Chương trình hoạt động giải trí câu lạc bộ ( Tự chọn phân hóa ) Đối với loại chương trình thứ nhất, chúng tôi đề xuất kiến nghị thay đổi giờ hoạt động và sinh hoạt dưới cờ và hoạt động và sinh hoạt lớp. Hai giờ hoạt động và sinh hoạt này là không hề thiếu được trong quản trị nhà trường và quản trị lớp học. Tuy nhiên, trong chương trình đại trà phổ thông mới, học viên sẽ được tham gia trực tiếp và dữ thế chủ động hơn vào những hoạt động giải trí này, phối tích hợp ngặt nghèo với nhà trường, thầy cô chủ nhiệm lớp, tổng đảm nhiệm Đoàn Đội … để tổ chức triển khai lồng ghép những chủ đề giáo dục có tính thời sự, tính địa phương bên cạnh việc triển khai những nghi lễ trong nhà trường và nhu yếu về quản trị học viên. Giáo dục không riêng gì trong lớp học, điều này đúng. Nhưng trong hoạt động giải trí khuynh hướng tăng trưởng sáng tạo, cha mẹ và người thầy, đặc biệt quan trọng khi trẻ đã đến lớp học, thầy giáo đóng vai trò quan trọng nhất, dù trong bất kể thực trạng nào. Chính thế cho nên, khi nói đến trẻ sáng tạo, hãy đặt vai trò Người Thầy sáng tạo lên trước hết. Không có thầy không sáng tạo, mà tạo hứng khởi cho trò sáng tạo được … Ít nhất là cho số đông học viên, và ngoài một số ít ít học viên là thiên tài bẩm sinh. Học sinh trong giờ Vật lí đang triển khai những thí nghiệmVậy, làm thế nào tạo ra được Người Thầy sáng tạo ? Theo quan sát cá thể tôi, với trải nghiệm là người đi học và người đi dạy, có con đi học, tôi nghĩ có 3 yếu tố cơ bản cấu thành nên Người Thầy sáng tạo. Yếu tố tiên phong và quan trọng nhất : Thầy yêu thương tròYếu tố thứ 2 : Thầy tận tâm mong mỏi trò học tốt, có tương lai tốt, thậm chí còn tốt hơn mình. Yếu tố thứ 3 : Thầy nắm chắc tri thức cơ bản để dạy và có đam mê update tri thức mới, có năng lực lan rộng ra tri thức cơ bản ra những nghành nằm ngoài phần mình dạy. Tức là Thầy cũng có đam mê học suốt đời và lan rộng ra tri thức của bản thân, thì mới mong dạy trò đi theo đam mê học tập suốt đời được. Việc đại diện thay mặt của Đề án san sẻ về việc hoạt động giải trí trải nghiệm sáng tạo hoàn toàn có thể triển khai thế này hay thế khác, toàn bộ đều khó ” định hình ” được, vì đã là sáng tạo, thì làm thế nào bảo người này giống người kia, Thầy này dạy giống Thầy khác, nhất là mỗi Thầy lại ở trong một thực trạng khác nhau, đối tượng người tiêu dùng học viên khác nhau, cơ sở vật chất và môi trường học trọn vẹn khác nhau ? Hãy để cho Người Thầy được tự do sáng tạo phương pháp họ dạy, họ san sẻ với học viên của họ. Điều quan trọng mà ban Đề án và Bộ Giáo dục và Đào tạo hoàn toàn có thể làm là hãy hỏi họ – những Người Thầy của tất cả chúng ta, xem họ cần tương hỗ điều gì, để họ hoàn toàn có thể tự do sáng tạo dạy học, và rồi, từ đó, mới kỳ vọng có trải nghiệm sáng tạo cho học viên được. Đây chính là nền tảng cho dân chủ trong lớp học, mà Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam đã khẳng định chắc chắn là tiêu chuẩn để tất cả chúng ta thay đổi giáo dục. HĐTNST được tổ chức triển khai dưới nhiều hình thức khác nhau như hoạt động giải trí câu lạc bộ, tổ chức triển khai game show, forum, sân khấu tương tác, du lịch thăm quan dã ngoại, những hội thi, hoạt động giải trí giao lưu, hoạt động giải trí nhân đạo, hoạt động giải trí tình nguyện, hoạt động giải trí hội đồng, hoạt động và sinh hoạt tập thể, lao động công ích, sân khấu hóa ( kịch, thơ, hát, múa rối, tiểu phẩm, kịch tham gia, … ), thể dục thể thao, tổ chức triển khai những ngày hội, … Mỗi hình thức hoạt động giải trí trên đều mang ý nghĩa giáo dục nhất định. Dưới đây là 1 số ít hình thức tổ chức triển khai của HĐTNST trong nhà trường đại trà phổ thông : Câu lạc bộ là hình thức hoạt động và sinh hoạt ngoại khóa của những nhóm học viên cùng sở trường thích nghi, nhu yếu, năng khiếu sở trường, … dưới sự xu thế của những nhà giáo dục nhằm mục đích tạo thiên nhiên và môi trường giao lưu thân thiện, tích cực giữa những học viên với nhau và giữa học viên với thầy cô giáo, với những người lớn khác. Hoạt động của CLB tạo thời cơ để học viên được san sẻ những kỹ năng và kiến thức, hiểu biết của mình về những nghành nghề dịch vụ mà những em chăm sóc, qua đó tăng trưởng những kĩ năng của học viên như : kĩ năng tiếp xúc, kĩ năng lắng nghe và miêu tả quan điểm, kĩ năng trình diễn tâm lý, ý tưởng sáng tạo, kĩ năng viết bài, kĩ năng chụp ảnh, kĩ năng hợp tác, thao tác nhóm, kĩ năng ra quyết định hành động và xử lý yếu tố, … CLB là nơi để học viên được thực hành thực tế những quyền trẻ nhỏ của mình như quyền được học tập, quyền được đi dạo vui chơi và tham gia những hoạt động giải trí văn hóa truyền thống, nghệ thuật và thẩm mỹ ; quyền được tự do miêu tả ; tìm kiếm, đảm nhiệm và thông dụng thông tin, … Thộng qua hoạt động giải trí của những CLB, nhà giáo dục hiểu và chăm sóc hơn đến nhu yếu, nguyện vọng mục tiêu chính đáng của những em. CLB hoạt động giải trí theo nguyên tắc tự nguyện, thống nhất, có lịch hoạt động và sinh hoạt định kì và hoàn toàn có thể được tổ chức triển khai với nhiều nghành nghề dịch vụ khác nhau như : CLB học thuật ; CLB thể dục thể thao ; CLB văn hóa truyền thống thẩm mỹ và nghệ thuật ; CLB võ thuật ; CLB hoạt động giải trí trong thực tiễn ; CLB game show dân gian … Một buổi hoạt động và sinh hoạt Câu lạc bộ Tiếng AnhTrò chơi là một mô hình hoạt động giải trí vui chơi, thư giãn giải trí ; là món ăn niềm tin nhiều hữu dụng và không hề thiếu được trong đời sống con người nói chung, so với học viên nói riêng. Trò chơi là hình thức tổ chức triển khai những hoạt động giải trí đi dạo với nội dung kiến thức và kỹ năng thuộc nhiều nghành nghề dịch vụ khác nhau, có công dụng giáo dục ” chơi mà học, học mà chơi ”. Trò chơi hoàn toàn có thể được sử dụng trong nhiều trường hợp khác nhau của HĐTNST như làm quen, khởi động, dẫn nhập vào nội dung học tập, cung ứng và tiếp đón tri thức ; nhìn nhận hiệu quả, rèn luyện những kĩ năng và củng cố những tri thức đã được đảm nhiệm, … Trò chơi giúp phát huy tính sáng tạo, mê hoặc và gây hứng thú cho học viên ; giúp học viên dễ tiếp thu kỹ năng và kiến thức mới ; giúp chuyển tải nhiều tri thức của nhiều nghành khác nhau ; tạo được bầu không khí thân thiện ; tạo cho những em tác phong nhanh gọn, … Diễn đàn là một hình thức tổ chức triển khai hoạt động giải trí được sử dụng để thôi thúc sự tham gia của học viên trải qua việc những em trực tiếp, dữ thế chủ động bày tỏ quan điểm của mình với phần đông bè bạn, nhà trường, thầy cô giáo, cha mẹ và những người lớn khác có tương quan. Diễn đàn là một trong những hình thức tổ chức triển khai mang lại hiệu suất cao giáo dục thiết thực. Thông qua forum, học viên có thời cơ bày tỏ tâm lý, quan điểm, ý niệm hay những thắc mắc, đề xuất kiến nghị của mình về một yếu tố nào đó có tương quan đến nhu yếu, hứng thú, nguyện vọng của những em. Đây cũng là dịp để những em biết lắng nghe quan điểm, học tập lẫn nhau. Vì vậy, forum như một sân chơi tạo điều kiện kèm theo để học viên được miêu tả quan điểm của mình một cách trực tiếp với phần đông bạn hữu và những người khác. Diễn đàn thường được tổ chức triển khai rất linh động, nhiều mẫu mã và phong phú với những hình thức hoạt động giải trí đơn cử, tương thích với từng lứa tuổi học viên. Tổ chức forum để những em nói tâm lý của mìnhMục đích của việc tổ chức triển khai forum là để tạo thời cơ, thiên nhiên và môi trường cho học viên được bày tỏ quan điểm về những yếu tố những em chăm sóc, giúp những em chứng minh và khẳng định vai trò và lời nói của mình, đưa ra những tâm lý và hành vi tích cực để khẳng định chắc chắn vai trò và lời nói của mình, đưa ra những tâm lý và hành vi tích cực để chứng minh và khẳng định mình. Qua những forum, thầy cô giáo, cha mẹ học viên và những người lớn có tương quan chớp lấy được những do dự, lo ngại và mong đợi của những em về bạn hữu, thầy cô, nhà trường và mái ấm gia đình, … tăng cường thời cơ giao lưu giữa người lớn và trẻ nhỏ, giữa trẻ nhỏ với trẻ nhỏ và thôi thúc quyền trẻ nhỏ trong trường học. Giúp học viên thực hành thực tế quyền được bày tỏ quan điểm, quyền được lắng nghe và quyền được tham gia, … đồng thời giúp những nhà quản lí giáo dục và hoạch định chủ trương chớp lấy, phân biệt được những yếu tố mà học viên chăm sóc từ đó có những giải pháp giáo dục và thiết kế xây dựng chủ trương tương thích hơn với những em. Sân khấu tương tác ( hay sân khấu forum ) là một hình thức nghệ thuật và thẩm mỹ tương tác dựa trên hoạt động giải trí diễn kịch, trong đó vở kịch chỉ có phần mở màn đưa ra trường hợp, phần còn lại được sáng tạo bởi những người tham gia. Phần trình diễn chính là một cuộc san sẻ, luận bàn giữa những người thực thi và người theo dõi, trong đó tôn vinh tính tương tác hay sự tham gia của người theo dõi. Mục đích của hoạt động giải trí này là nhằm mục đích tăng cường nhận thức, thôi thúc để học viên đưa ra quan điểm, tâm lý và cách xử lí trường hợp trong thực tiễn gặp phải trong bất kỳ nội dung nào của đời sống. Thông qua sân khấu tương tác, sự tham gia của học viên được tăng cường và thôi thúc, tạo thời cơ cho học viên rèn luyện những kĩ năng như : kĩ năng phát hiện yếu tố, kĩ năng nghiên cứu và phân tích yếu tố, kĩ năng ra quyết định hành động và xử lý yếu tố, năng lực sáng tạo khi xử lý trường hợp và năng lực ứng phó với những đổi khác của đời sống, … Tham quan, dã ngoại là một hình thức tổ chức triển khai học tập thực tiễn mê hoặc so với học viên. Mục đích của thăm quan, dã ngoại là để những em học viên được đi thăm, khám phá và học hỏi kiến thức và kỹ năng, tiếp xúc với những di tích lịch sử lịch sử vẻ vang, văn hóa truyền thống, khu công trình, xí nghiệp sản xuất … ở xa nơi những em đang sống, học tập, giúp những em có được những kinh nghiệm tay nghề trong thực tiễn, từ đó hoàn toàn có thể vận dụng vào đời sống của chính những em. Nội dung du lịch thăm quan, dã ngoại có tính giáo dục tổng hợp so với học viên như : giáo dục lòng yêu vạn vật thiên nhiên, quê nhà, quốc gia, giáo dục truyền thống lịch sử cách mạng, truyền thống lịch sử lịch sử vẻ vang, truyền thống cuội nguồn của Đảng, của Đoàn, của Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh. Các nghành thăm quan, dã ngoại hoàn toàn có thể được tổ chức triển khai ở nhà trường đại trà phổ thông là : Tham quan những danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử lịch sử dân tộc, văn hóa truyền thống ; Tham quan những khu công trình công cộng, xí nghiệp sản xuất, xí nghiệp sản xuất ; Tham quan những cơ sở sản xuất, làng nghề ; Tham quan những Viện bảo tàng ; Dã ngoại theo những chủ đề học tập ; Dã ngoại theo những hoạt động giải trí nhân đạo … Học sinh xếp hàng vào viếng lăng BácHội thi / cuộc thi là một trong những hình thức tổ chức triển khai hoạt động giải trí mê hoặc, hấp dẫn học viên và đạt hiệu suất cao cao trong việc tập hợp, giáo dục, rèn luyện và xu thế giá trị cho tuổi trẻ. Hội thi mang đặc thù thi đua giữa những cá thể, nhóm hoặc tập thể luôn hoạt động giải trí tích cực để vươn lên đạt được tiềm năng mong ước trải qua việc tìm ra người / đội thắng cuộc. Chính vì thế, tổ chức triển khai hội thi cho học viên là một nhu yếu quan trọng, thiết yếu của nhà trường, của giáo viên trong quy trình tổ chức triển khai HĐTNST.Mục đích tổ chức triển khai hội thi / cuộc thi nhằm mục đích hấp dẫn học viên tham gia một cách dữ thế chủ động, tích cực vào những hoạt động giải trí giáo dục của nhà trường ; phân phối nhu yếu về đi dạo vui chơi cho học viên ; lôi cuốn kĩ năng và sự sáng tạo của học viên ; tăng trưởng năng lực hoạt động giải trí tích cực và tương tác của học viên, góp thêm phần tu dưỡng cho những em động cơ học tập tích cực, kích thích hứng thú trong quy trình nhận thức. Hội thi / cuộc thi hoàn toàn có thể được thực thi dưới nhiều hình thức khác nhau như : Thi vẽ, thi viết, thi tìm hiểu và khám phá, thi đố vui, thi giải ô chữ, thi tiểu phẩm, thi thời trang, thi kể chuyện, thi chụp ảnh, thi kể chuyện theo tranh, thi sáng tác bài hát, hội thi học tập, hội thi thời trang, hội thi học viên lịch sự, … có nội dung giáo dục về một chủ đề nào đó. Nội dung của hội thi rất đa dạng và phong phú, bất kỳ nội dung giáo dục nào cũng hoàn toàn có thể được tổ chức triển khai dưới hình thức hội thi / cuộc thi. Điều quan trọng khi tổ chức triển khai hội thi là phải linh động, sáng tạo khi tổ chức triển khai thực thi, tránh máy móc thì cuộc thi mới mê hoặc. Tổ chức sự kiện trong nhà trường đại trà phổ thông là một hoạt động giải trí tạo thời cơ cho học viên được bộc lộ những sáng tạo độc đáo, năng lực sáng tạo của mình, biểu lộ năng lượng tổ chức triển khai hoạt động giải trí, thực thi và kiểm tra giám sát hoạt động giải trí. Thông qua hoạt động giải trí tổ chức triển khai sự kiện học viên được rèn luyện tính tỉ mỉ, cụ thể, đầu óc tổ chức triển khai, tính năng động, nhanh gọn, kiên trì, có năng lực thiết lập mối quan hệ tốt, có năng lực thao tác theo nhóm, có sức khỏe thể chất và niềm đam mê. Khi tham gia tổ chức triển khai sự kiện học viên sẽ biểu lộ được sức bền cũng như năng lực chịu được áp lực đè nén cao của mình. Ngoài ra, những em còn phải biết cách xoay xở và ứng phó trong mọi trường hợp bất kể xảy đến. Các sự kiện học viên hoàn toàn có thể tổ chức triển khai trong nhà trường như : Lễ khai mạc, lễ nhập học, lễ tốt nghiệp, lễ kỉ niệm, lễ chúc mừng, … ; Các buổi triển lãm, buổi ra mắt, hội thảo chiến lược khoa học, hội diễn nghệ thuật và thẩm mỹ ; Các hoạt động giải trí nhìn nhận thể lực, kiểm tra thể hình, sức khỏe thể chất của học viên ; Đại hội thể dục thể thao, hội tranh tài giao hữu ; Hoạt động học tập trong thực tiễn, du lịch khảo sát thực tiễn, tìm hiểu học thuật ; Hoạt động khám phá về di sản văn hóa truyền thống, về phong tục tập quán ; Chuyến đi mày mò quốc gia, trải nghiệm văn hóa truyền thống quốc tế … Giao lưu là một hình thức tổ chức triển khai giáo dục nhằm mục đích tạo ra những điều kiện kèm theo thiết yếu để cho học viên được tiếp xúc, trò chuyện và trao đổi thông tin với những nhân vật nổi bật trong những nghành nghề dịch vụ hoạt động giải trí nào đó. Qua đó, giúp những em có tình cảm và thái độ tương thích, có được những lời khuyên đúng đắn để vươn lên trong học tập, rèn luyện và hoàn thành xong nhân cách. Hoạt động giao lưu có một số ít đặc trưng sau : – Phải có đối tượng người tiêu dùng giao lưu. Đối tượng giao lưu là những người nổi bật, có những thành tích xuất sắc, thành đạt trong những nghành nghề dịch vụ nào đó, thực sự là tấm gương sáng để học viên noi theo, tương thích với nhu yếu hứng thú của học viên. – Thu hút sự tham gia phần đông và tự nguyện của học viên, được học viên chăm sóc và hào hứng. – Phải có sự trao đổi thông tin, tình cảm rất là trung thực, chân thành và sôi sục giữa học viên với người được giao lưu. Những yếu tố trao đổi phải thiết thực, tương quan đến quyền lợi và hứng thú của học viên, phân phối nhu yếu của những em. Với những đặc trưng trên, hoạt động giải trí giao lưu rất tương thích với những HĐTNST theo chủ đề. Hoạt động giao lưu thuận tiện được tổ chức triển khai trong mọi điều kiện kèm theo của lớp, của trường. Hoạt động chiến dịch là hình thức tổ chức triển khai không chỉ tác động ảnh hưởng đến học viên mà tới cả những thành viên hội đồng. Nhờ những hoạt động giải trí này, học viên có thời cơ chứng minh và khẳng định mình trong hội đồng, qua đó hình thành và tăng trưởng ý thức “ mình vì mọi người, mọi người vì mình ”. Việc học viên tham gia những hoạt động giải trí chiến dịch nhằm mục đích tăng cường sự hiểu biết và sự chăm sóc của học viên so với những yếu tố xã hội như yếu tố môi trường tự nhiên, bảo đảm an toàn giao thông vận tải, bảo đảm an toàn xã hội, … giúp học viên có ý thức hành vi vì hội đồng ; tập dượt cho học viên tham gia xử lý những yếu tố xã hội ; tăng trưởng ở học viên 1 số ít kĩ năng thiết yếu như kĩ năng hợp tác, kĩ năng tích lũy thông tin, kĩ năng nhìn nhận và kĩ năng ra quyết định hành động. Mỗi chiến dịch nên mang một chủ đề để xu thế cho những hoạt động giải trí như : Chiến dịch giờ toàn cầu ; Chiến dịch làm sạch môi trường tự nhiên xung quanh trường học ; Chiến dịch ứng phó vơi đổi khác khí hậu ; Chiến dịch bảo vệ thiên nhiên và môi trường, bảo vệ rừng ngập mặn ; Chiến dịch làm cho quốc tế sạch hơn ; Chiến dịch tình nguyện hè, Chiến dịch ngày thứ 7 tình nguyện … Để triển khai hoạt động giải trí chiến dịch được tốt cần kiến thiết xây dựng kế hoạch để triển khai chiến dịch đơn cử, khả thi với những nguồn lực kêu gọi được và học viên phải được trang bị trước một số ít kỹ năng và kiến thức, kĩ năng thiết yếu để tham gia vào chiến dịch. Hoạt động nhân đạo là hoạt động giải trí tác động ảnh hưởng đến trái tim, tình cảm, sự đồng cảm của học viên trước những con người có thực trạng đặc biệt quan trọng khó khăn vất vả. Thông qua hoạt động giải trí nhân đạo, học viên biết thêm những thực trạng khó khăn vất vả của người nghèo, người nhiễm chất độc da cam, trẻ nhỏ mồ côi, người tàn tật, khuyết tật, người già đơn độc không nơi phụ thuộc, người có thực trạng đặc biệt quan trọng khó khăn vất vả, những đối tượng người tiêu dùng dễ bị tổn thương trong đời sống, … để kịp thời trợ giúp, giúp họ từng bước khắc phục khó khăn vất vả, không thay đổi đời sống, vươn lên hòa nhập với hội đồng. Hoạt động nhân đạo giúp những em học viên được san sẻ những tâm lý, tình cảm và giá trị vật chất của mình với những thành viên trong hội đồng, giúp những em biết chăm sóc hơn đến những người xung quanh từ đó giáo dục những giá trị cho học viên như : tiết kiệm chi phí, tôn trọng, san sẻ, cảm thông, yêu thương, nghĩa vụ và trách nhiệm, niềm hạnh phúc, … Hoạt động nhân đạo trong trường đại trà phổ thông được thực thi dưới nhiều hình thức khác nhau như : Hiến máu nhân đạo ; Xây dựng quỹ ủng hộ những bạn thuộc mái ấm gia đình nghèo, có thực trạng khó khăn vất vả ; Tết vì người nghèo và nạn nhân chất độc da cam ; Quyên góp cho trẻ nhỏ mổ tim trong chương trình ” Trái tim cho em ” ; Quyên góp vật dụng học tập cho những bạn học viên vùng cao ; Tổ chức trung thu cho học viên nghèo vùng sâu, vùng xa … HĐ TNST coi trọng những hoạt động giải trí thực tiễn mang tính tự chủ của HS, về cơ bản là hoạt động giải trí mang tính tập thể trên ý thức tự chủ cá thể, với sự nỗ lực giáo dục giúp tăng trưởng sáng tạo và đậm chất ngầu riêng của mỗi cá thể trong tập thể. Đây là những HĐGD được tổ chức triển khai gắn liền với kinh nghiệm tay nghề, đời sống để HS trải nghiệm và sáng tạo. Điều đó yên cầu những hình thức và giải pháp tổ chức triển khai HĐ TNST phải phong phú, linh động, HS tự hoạt động giải trí, trải nghiệm là chính. Ở đây có 4 phương pháp chính, đó là : GQVĐ là một giải pháp giáo dục nhằm mục đích tăng trưởng năng lượng tư duy, sáng tạo, GQVĐ của HS. Các em được đặt trong trường hợp có yếu tố, trải qua việc GQVĐ giúp HS lĩnh hội tri thức, KN và chiêu thức. Trong tổ chức triển khai HĐ TNST, chiêu thức GQVĐ thường được vận dụng khi HS nghiên cứu và phân tích, xem xét và đề xuất kiến nghị những giải pháp trước một hiện tượng kỳ lạ, vấn đề phát sinh trong quy trình hoạt động giải trí. Phương pháp GQVĐ có ý nghĩa quan trọng, phát huy tính tích cực, sáng tạo của HS, giúp những em có cách nhìn tổng lực hơn trước những hiện tượng kỳ lạ, vấn đề phát sinh trong hoạt động giải trí, đời sống hàng ngày. Để chiêu thức này thành công xuất sắc thì yếu tố đưa ra phải sát với tiềm năng hoạt động giải trí, kích thích HS tích cực tìm tòi cách xử lý. Đối với tập thể lớp, khi GQVĐ GV phải coi trọng nguyên tắc tôn trọng, bình đẳng, tránh gây ra stress không có lợi khi giáo dục HS.Phương pháp trên được thực thi theo những bước đơn cử như sau : Bước 1 : Nhận biết vấn đềTrong bước này GV cần nghiên cứu và phân tích trường hợp đặt ra giúp HS phân biệt được yếu tố để đạt nhu yếu, mục tiêu đặt ra. Do đó, yếu tố ở đây cần được trình diễn rõ ràng, dễ hiểu so với HS.Bước 2 : Tìm giải pháp giải quyếtĐể tìm ra những giải pháp GQVĐ, HS cần so sánh, liên hệ với cách GQVĐ tương tự như hay kinh nghiệm tay nghề đã có cũng như tìm giải pháp xử lý mới. Các giải pháp xử lý đã tìm ra cần được sắp xếp, hệ thống hóa để xử lí ở quá trình tiếp theo. Khi có khó khăn vất vả hoặc không tìm được giải pháp xử lý thì cần quay trở lại việc phân biệt yếu tố để kiểm tra lại và hiểu yếu tố. Bước 3 : Quyết định giải pháp giải quyếtGV cần quyết định hành động giải pháp GQVĐ, khi tìm được phải nghiên cứu và phân tích, so sánh, nhìn nhận xem có triển khai được việc GQVĐ hay không. Nếu có nhiều giải pháp xử lý thì cần so sánh để xác lập giải pháp tối ưu. Nếu những giải pháp đã yêu cầu mà không xử lý được yếu tố thì tìm kiếm giải pháp xử lý khác. Khi quyết định hành động được giải pháp thích hợp là đã kết thúc việc GQVĐ.Sắm vai là chiêu thức giáo dục giúp HS thực hành cách ứng xử, bày tỏ thái độ trong những trường hợp giả định hoặc trên cơ sở óc tưởng tượng và ý nghĩ sáng tạo của những em. Sắm vai thường không có ngữ cảnh cho trước mà HS tự kiến thiết xây dựng trong quy trình hoạt động giải trí. Đây là chiêu thức giúp HS tâm lý thâm thúy về một yếu tố bằng cách tập trung chuyên sâu vào cách ứng xử đơn cử mà những em quan sát được. Việc ” diễn ” không phải là phần quan trọng nhất của giải pháp này mà là xử lí trường hợp khi diễn và tranh luận sau phần diễn đó. Mục đích của chiêu thức trên không phải chỉ ra cái cần làm mà khởi đầu cho một cuộc tranh luận. Để khởi đầu cho một cuộc tranh luận mê hoặc người sắm vai nên làm một cái gì đó sai, hoặc phải thực thi trách nhiệm vô cùng khó khăn vất vả. Nếu người sắm vai làm đúng mọi chuyện thì chẳng có gì để bàn luận. Sắm vai có ý nghĩa rất lớn trong việc hình thành và tăng trưởng những KN tiếp xúc cho HS. Thông qua sắm vai, HS được rèn luyện, thực hành thực tế những KN ứng xử và bày tỏ thái độ trong thiên nhiên và môi trường bảo đảm an toàn trước khi thực hành thực tế trong thực tiễn, tạo điều kiện kèm theo tăng trưởng óc sáng tạo của những em, khuyến khích biến hóa thái độ và hành vi theo hướng tích cực trước một yếu tố hay đối tượng người tiêu dùng nào đó. Về mặt tâm lý học, trải qua những hành vi, cá thể nhận thức và xử lý tốt hơn yếu tố của bản thân, vai trò lĩnh hội được trong quy trình sắm vai được cho phép HS thích ứng với đời sống tốt hơn. Trong game show cũng như trong đời sống, những em mong ước có được một vai yêu dấu, khi sắm một vai HS bước ra từ chính bản thân mình. Điều này trở thành phương tiện đi lại để bộc lộ niềm vui, nỗi buồn, mối chăm sóc, do dự, mong ước được san sẻ, sự chần chừ, ngập ngừng, … của chính những em. Thông qua những vai được sắm trong game show, HS biểu lộ những góc nhìn khác nhau trong tính cách như : sự ưa thích, tình cảm, sự hiểu biết về nhân vật mà những em đang sắm vai đó và những người bạn đang chơi cùng với hành vi của chúng là điều đặc biệt quan trọng quan trọng, có ý nghĩa nhiều mặt so với HS.Phương pháp sắm vai được triển khai theo những bước nhất định gồm có : – Nêu trường hợp sắm vai ( tương thích với chủ đề hoạt động giải trí ; phải là trường hợp mở ; tương thích với trình độ HS ). – Cử nhóm chuẩn bị sẵn sàng vai diễn ( hoàn toàn có thể sẵn sàng chuẩn bị trước khi triển khai hoạt động giải trí ) : nhu yếu nhóm sắm vai kiến thiết xây dựng ngữ cảnh biểu lộ trường hợp sao cho sinh động, mê hoặc, mang tính sân khấu nhưng không đưa ra giải thuật hay cách xử lý trường hợp. Kết thúc sắm vai là một kết cục mở để mọi người bàn luận. – Thảo luận sau khi sắm vai : khi sắm vai kết thúc, người dẫn chương trình đưa ra những câu hỏi có tương quan để HS tranh luận. Ví dụ, trong trường hợp trên câu hỏi bàn luận hoàn toàn có thể là : 1 ) Bạn hiểu thế nào là tình yêu ?. Tình yêu khác gì so với tình bạn khác giới ?. 2 ) Tình cảm của bạn trong trường hợp trên đã thực sự là tình yêu chưa ?. 3 ) Có nên yêu ở tuổi học trò không ?. Vì sao ?, … – Thống nhất và chốt lại những quan điểm sau khi đàm đạo. Trò chơi là tổ chức triển khai cho HS tìm hiểu và khám phá một yếu tố hay thực thi những hành vi, việc làm hoặc hình thành thái độ trải qua một game show nào đó. Đặc thù của game show : Trò chơi không phải là thật mà là vờ vịt như làm một cái gì đó nhưng mang tính chân thực ( nhập những vai chơi một cách chân thực, bộc lộ động tác, hành vi tương thích … ). Hơn nữa, đây là một hoạt động giải trí tự do, tự nguyện không hề gò ép hoặc bắt buộc chơi khi những em không thích, không phân phối nhu yếu, nguyện vọng của chúng. Trò chơi được số lượng giới hạn bởi khoảng trống và thời hạn, có quy tắc tổ chức triển khai ( luật chơi do nội dung chơi lao lý ). Đặc thù này sẽ pháp luật quy mô, số lượng người chơi, điều kiện kèm theo, vật chất, cũng như xác lập đặc thù, giải pháp hành vi, tổ chức triển khai và điều khiển và tinh chỉnh hành vi cũng như những mối quan hệ lẫn nhau của người chơi. Trò chơi là một hoạt động giải trí mang tính sáng tạo cao, biểu lộ ở việc lựa chọn chủ đề chơi, phân vai tạo ra trường hợp, thực trạng chơi, sử dụng phương tiện đi lại thay thế sửa chữa trong những game show sáng tạo, lựa chọn những phương pháp hành vi và phân loại trường hợp chơi để xử lý trách nhiệm chơi trong những game show có luật. Trò chơi là phương tiện đi lại giáo dục và tăng trưởng tổng lực HS, giúp những em nâng cao hiểu biết về quốc tế hiện thực xung quanh, kích thích trí mưu trí, lòng ham hiểu biết, học cách xử lý trách nhiệm. Ngoài ra, game show là phương tiện đi lại giáo dục phẩm chất nhân cách cho HS. Các phẩm chất nhân cách được hình thành trải qua chơi như tính hợp tác, tính đồng đội, tính tập thể, tính kỷ luật, tự chủ, tích cực, độc lập, sáng tạo, sự chăm sóc lo ngại đến người khác, ngay thật, dũng mãnh, kiên trì, … Trò chơi còn là phương tiện đi lại giáo dục thể lực cho HS, giáo dục nghệ thuật và thẩm mỹ, hình thành những KN tiếp xúc, KN xã hội, … Trò chơi là một phương pháp vui chơi tích cực, hiệu suất cao, mang lại niềm vui, sự hứng khởi, hồn nhiên, yêu đời cho HS, …. để những em liên tục học tập và rèn luyện tốt hơn. Về mặt tâm lý học, trong quy trình diễn ra game show toàn bộ những thành viên của nhóm đều tham gia hết mình và từ đó những em sẽ được trải nghiệm, do tại mỗi cá thể cũng như cả nhóm đang sống trong một trường hợp khác với những gì những em đã sống trong đời sống thực. Học sinh tham gia game show ” Gọi đúng tên tôi ” Việc tổ chức triển khai game show được GV triển khai theo những bước sau : Bước 1 : Chuẩn bị game show – Xác định đối tượng người dùng và mục tiêu của game show : thường thì, game show nào cũng có tính giáo dục, nhờ vào vào những góc nhìn tiếp cận khác nhau so với loại, dạng game show và người sử dụng, tổ chức triển khai game show. Vì thế xác lập đối tượng người tiêu dùng và mục tiêu game show tương thích là việc làm thiết yếu khi tổ chức triển khai game show. – Cử người hướng dẫn chơi ( GV ). – Thông báo kế hoạch, thời hạn, nội dung game show đến HS. – Phân công trách nhiệm cho những lớp, tổ nhóm, đội chơi để chuẩn bị sẵn sàng điều kiện kèm theo phương tiện đi lại ( lực lượng ; phục trang như quần áo, khăn, cờ ; còi ; phần thưởng ) cho game show. Bước 2 : Tiến hành game show – Ổn định tổ chức triển khai, sắp xếp đội hình : tùy từng game show, khu vực tổ chức triển khai, số lượng người chơi mà GV sắp xếp đội hình, phương tiện đi lại cho tương thích, hoàn toàn có thể theo hàng dọc, hàng ngang, vòng tròn hay chữ U, …. – GV xác lập vị trí cố định và thắt chặt hoặc di động sao cho mọi khẩu lệnh những em đều nghe thấy, những động tác HS quan sát, triển khai được, ngược lại bản thân GV phải phát hiện được đúng, sai khi những em chơi. – GV trình làng game show phải ngắn gọn, mê hoặc, dễ hiểu, dễ tiếp thu, dễ triển khai, gồm có những nội dung sau : Thông báo tên game show, chủ đề chơi ; Nêu mục tiêu và những nhu yếu của game show ; Nói rõ cách chơi và luật chơi. Cho HS chơi nháp / chơi thử 1 – 2 lần. Sau đó HS khởi đầu chơi thật. Dùng khẩu lệnh bằng lời, còi, kẻng, chuông, trống để điều khiển và tinh chỉnh game show. – GV hay nhóm trọng tài cần quan sát, theo dõi kỹ, đúng mực để nhìn nhận thắng thua và rút kinh nghiệm tay nghề …. Bước 3 : Kết thúc game show – Đánh giá hiệu quả game show : GV công bố hiệu quả game show khách quan, công minh, đúng chuẩn giúp HS nhận thức được ưu điểm và sống sót để nỗ lực ở những game show tiếp theo. – Động viên, khuyến khích ý thức, niềm tin cố gắng nỗ lực của những em, tuyên dương, khen ngợi hay khen thưởng bằng vật chất, tạo không khí vui tươi, phấn khởi và để lại những ấn tượng tốt đẹp trong tập thể HS về game show. – Dặn dò những em những điều thiết yếu ( thu dọn phương tiện đi lại, vệ sinh nơi chơi, … ) Làm việc theo nhóm nhỏ là chiêu thức tổ chức triển khai dạy học – giáo dục, trong đó, GV sắp xếp HS thành những nhóm nhỏ theo hướng tạo ra sự tương tác trực tiếp giữa những thành viên, từ đó HS trong nhóm trao đổi, trợ giúp và cùng nhau phối hợp thao tác để triển khai xong trách nhiệm chung của nhóm. Làm việc nhóm có ý nghĩa rất lớn trong việc : – Phát huy cao độ vai trò chủ thể, tính tự giác, tích cực, sáng tạo, năng động, ý thức nghĩa vụ và trách nhiệm của HS, tạo thời cơ cho những em tự biểu lộ, tự chứng minh và khẳng định năng lực, triển khai tốt hơn trách nhiệm được giao. – Giúp HS hình thành những KN xã hội và phẩm chất nhân cách thiết yếu như : KN tổ chức triển khai, quản lí, GQVĐ, hợp tác, có nghĩa vụ và trách nhiệm cao, niềm tin đồng đội, sự chăm sóc và mối quan hệ khăng khít, sự ủng hộ cá thể và khuyến khích niềm tin học hỏi lẫn nhau, xác lập giá trị của sự phong phú và tính kết nối. – Thể hiện mối quan hệ bình đẳng, dân chủ và nhân văn : tạo thời cơ bình đẳng cho mỗi cá thể người học được chứng minh và khẳng định và tăng trưởng. Nhóm thao tác sẽ khuyến khích HS tiếp xúc với nhau và như vậy sẽ giúp cho những em nhút nhát, thiếu tự tin có nhiều thời cơ hòa nhập với lớp học, …. Để chiêu thức thao tác nhóm thực sự phát huy hiệu quả, GV cần quan tâm 1 số ít yếu tố sau : a ) Thiết kế những trách nhiệm yên cầu sự phụ thuộc vào lẫn nhauCó 1 số ít cách sau đây để tạo ra sự nhờ vào giữa HS trong nhóm với nhau như : – Yêu cầu HS san sẻ tài liệu ; – Tạo ra tiềm năng nhóm ; – Cho điểm chung cả nhóm ; – Cấu trúc trách nhiệm như thế nào để HS phụ thuộc vào vào thông tin của nhau ; – Phân công những vai trò hỗ trợ và có tương quan lẫn nhau để triển khai trách nhiệm chung của nhóm, từ đó tạo ra sự nhờ vào tích cực. b ) Tạo ra những trách nhiệm tương thích với KN và năng lực thao tác nhóm của HSKhi phong cách thiết kế trách nhiệm cho nhóm GV cần chú ý quan tâm những yếu tố sau : – Đưa ra trách nhiệm tương thích với năng lực và bảo vệ thời hạn cho HS tham gia rất đầy đủ nhưng không bắt chúng chờ đón quá lâu để được khuyến khích hay trách nhiệm quá nặng nhọc ; điều tiết sự đi lại của HS xung quanh lớp học. c ) Phân công trách nhiệm công minh giữa những nhóm và những thành viênGV cố gắng nỗ lực kiến thiết xây dựng trách nhiệm như thế nào để mỗi thành viên trong nhóm đều có việc làm và nghĩa vụ và trách nhiệm đơn cử, từ đó tạo ra vị thế của họ trong nhóm, lớp. Muốn vậy, những trách nhiệm phải được phong cách thiết kế đơn cử, giao việc rõ ràng và mỗi thành viên phải đảm nhiệm trách nhiệm đó, có nghĩa vụ và trách nhiệm xử lý vì tập thể, nhóm. d ) Đảm bảo nghĩa vụ và trách nhiệm của cá nhânĐể cá thể có nghĩa vụ và trách nhiệm với việc làm của mình GV cần : – Giao trách nhiệm rõ ràng cho từng thành viên trong nhóm ; – Thường xuyên biến hóa nhóm trưởng cũng như người đại diện thay mặt nhóm báo cáo giải trình ; – Sử dụng quy mô nhóm nhỏ, đặc biệt quan trọng với trách nhiệm chung có đặc thù khám phá, tích lũy tư liệu hoặc những trách nhiệm thực hành thực tế, thí nghiệm ; – Phân công HS trong nhóm đảm nhiệm những vai trò khác nhau như nghiên cứu và phân tích ở trên ; – Đánh giá mức độ tham gia của cá thể so với hiệu quả việc làm của nhóm hoặc nhu yếu mỗi HS triển khai xong việc làm trước khi thao tác nhóm. e ) Sử dụng nhiều cách sắp xếp nhóm thao tác khác nhauCó nhiều cách sắp xếp nhóm thao tác như : – Hình thành nhóm theo trách nhiệm ; – Hình thành nhóm học tập theo quy tắc ngẫu nhiên ( đếm theo số thứ tự tương tự với số nhóm muốn hình thành. Có thể đổi khác bằng cách đếm theo tên những loài hoa, con vật, … cho thêm vui nhộn ; – Phân chia nhóm theo bàn hay một số ít bàn học gần nhau, hoặc dùng đơn vị chức năng tổ của HS để làm một hay một số ít nhóm, theo giới, mức độ, thói quen thao tác, năng lực của HS ; – Một vài người lại thích để HS tự chọn, tuy nhiên, điều này thích hợp nhất so với những lớp ít HS, những lớp mà những em đã biết rõ về nhau. g ) Hướng dẫn HS chiêu thức, KN thao tác nhóm ( KNLVN ) KNLVN là yếu tố quyết định hành động thành công xuất sắc của học theo nhóm. Với lợi thế linh động và dữ thế chủ động về thời hạn, nội dung, HĐGD sẽ rất tốt cho việc rèn luyện KNLVN và thực hành thực tế những KN xã hội khác. Vì vậy, để rèn luyện KNLVN cho HS có hiệu suất cao, khi thực thi thao tác theo nhóm trong HĐ TNST, GV cần triển khai theo những bước sau : Bước 1. Chuẩn bị cho hoạt động giải trí : – GV hướng dẫn HS trao đổi, đề xuất kiến nghị yếu tố, xác lập tiềm năng, trách nhiệm, cách triển khai và lập kế hoạch ; tự lựa chọn nhóm theo từng nội dung ; phân công nhóm trưởng và những vai trò khác cho từng thành viên ; – Hướng dẫn từng nhóm phân công việc làm phải chăng, có tương quan, phụ thuộc vào nhau ; – Chú trọng HS vào một số ít KNLVN thiết yếu cho hoạt động giải trí ( chọn 2 – 3 KN để nhấn mạnh vấn đề ) : lý giải sự thiết yếu ; làm rõ khái niệm và cách biểu lộ ; tạo ra trường hợp để rèn luyện ; tổ chức triển khai cho HS tự nhận xét, nhìn nhận ; nhu yếu HS bộc lộ những KN đó trong hoạt động giải trí. Bước 2. Thực hiện : – GV quan sát, chớp lấy thông tin ngược từ HS xem những nhóm có hiểu rõ trách nhiệm không ?, có biểu lộ KNLVN đúng không ?, những vai trò biểu lộ như thế nào ? ; – Giúp đỡ những nhóm quản lý và vận hành đúng hướng và duy trì mối quan hệ nhờ vào lẫn nhau một cách tích cực ; – Khuyến khích, động viên những nhóm hoặc cá thể thao tác tốt ; – Can thiệp, kiểm soát và điều chỉnh hoạt động giải trí của nhóm khi thấy thiết yếu, … Bước 3. Đánh giá hoạt động giải trí : Ở bước này GV cần : – Lôi cuốn HS nhận xét, nhìn nhận về tác dụng hoạt động giải trí của nhóm, mức độ tham gia của từng thành viên ; – Gợi mở cho HS phân tích sự phối hợp hoạt động giải trí giữa những thành viên trong nhóm, bộc lộ những KNLVN ; – Điều chỉnh, bổ trợ trên cơ sở nhìn nhận đúng sự cố gắng của từng nhóm, chú trọng nghiên cứu và phân tích những KNLVN mà HS đã biểu lộ ; – Đưa ra Kết luận gồm tác dụng hoạt động giải trí và mức độ biểu lộ những KNLVN ( cái gì đã làm tốt, cần rèn luyện thêm và rèn luyện như thế nào ). Tùy theo đặc thù và mục tiêu của từng hoạt động giải trí đơn cử cũng như điều kiện kèm theo, năng lực của những em mà GV hoàn toàn có thể lựa chọn một hay nhiều chiêu thức tương thích. Điều quan trọng là chiêu thức được lựa chọn cần phát huy cao độ vai trò dữ thế chủ động, tích cực, sáng tạo của HS và khai thác tối đa kinh nghiệm tay nghề những em đã có. – Hoạt động TNST hướng đến những phẩm chất và năng lượng chung như đã được đưa ra trong Dự thảo Chương trình mới, ngoài những hoạt động giải trí TNST còn có lợi thế trong việc thôi thúc hình thành ở người học những năng lượng đặc trưng sau : + Năng lực hoạt động giải trí và tổ chức triển khai hoạt động giải trí ; + Năng lực tổ chức triển khai và quản trị đời sống ; + Năng lực tự nhận thức và tích cực hóa bản thân ; + Năng lực xu thế nghề nghiệp ; + Năng lực tò mò và sáng tạo ; Chính thế cho nên đầu ra của hoạt động giải trí TNST khá phong phú và khó xác lập mức độ chung, nhất là khi nó lại luôn gắn với xúc cảm – nghành mang tính chủ quan cao, cũng là cơ sở quan trọng của sự hình thành sáng tạo và phân hóa. ” Hoạt động trải nghiệm sáng tạo là hoạt động giải trí giữ vai trò rất quan trọng trong chương trình giáo dục phổ thông mới. Hoạt động này giúp cho học viên có nhiều thời cơ trải nghiệm để vận dụng những kiến thức và kỹ năng học được vào thực tiễn từ đó hình thành năng lượng thực tiễn cũng như phát huy tiềm năng sáng tạo của bản thân “. / .

Source: https://vh2.com.vn
Category : Chế Tạo