Mã lỗi E35 máy giặt Electrolux bảo vệ thiết bị Máy giặt Electrolux lỗi E35? Hướng dẫn quy trình tự sửa mã lỗi E35 máy giặt Electrolux từng bước chuẩn...
Bình luận tội trộm cắp tài sản | Điều 173 Bộ luật Hình sự
I. Căn cứ pháp lý
Điều 173 Bộ luật hình sự 2015 quy định về “Tội trộm cắp tài sản” như sau:
1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;
b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 174, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ;
đ) Tài sản là di vật, cổ vật.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
d) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm;
đ) Hành hung để tẩu thoát;
e) Tài sản là bảo vật quốc gia;
g) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
b) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
b) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.
II. Các yếu tố cấu thành tội trộm cắp tài sản
1. Mặt khách quan của tội phạm
Hành vi khách quan của tội Trộm cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản đang có người quản lý.
– Theo từ điển Bách khoa Công an nhân dân Nước Ta : Trộm cắp tài sản là ” hành vi lén lút bí hiểm so với người quản lý tài sản để chiếm đoạt tài sản ” .
– Chiếm đoạt được hiểu là “hành vi cố ý chuyển dịch trái pháp luật tài sản đang được sự quản lý của chủ sở hữu tài sản thành tài sản của mình”. Trên thực tế, hành vi chiếm đoạt làm cho chủ sở hữu tài sản (là người có đầy đủ 3 quyền là quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản) không thể thực hiện được các quyền năng đối với tài sản của họ hoặc làm cho người quản lý tài sản (là người đang nắm giữ hoặc trông coi tài sản, không có đủ 3 quyền của chủ sở hữu) không thể thực hiện được các quyền năng đối với tài sản được giao quản lý, đồng thời những quyền này lại thuộc về người phạm tội và người này có thể thực hiện được các quyền này một cách trái pháp luật.
– Hành vi lén lút của tội phạm là lén lút đối với việc chiếm đoạt tài sản, nhằm che giấu hành vi phạm tội để chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản không biết việc chiếm đoạt đó. Đây cũng là dấu hiệu để phân biệt giữa tội trộm cắp tài sản với các tội có tính chiếm đoạt khác (như tội công nhiên chiếm đoạt tài sản, tội cướp tài sản…).
Việc che giấu hành vi phạm tội hoàn toàn có thể được triển khai bằng những hình thức khác nhau, đơn cử là :
- Che giấu toàn bộ hành vi: Trường hợp này, chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản không biết được bất cứ thông tin nào về người phạm tội cũng như hành vi phạm tội (Ví dụ: Lợi dụng đêm tối, lẻn vào nhà người khác lấy trộm tài sản).
- Che giấu một phần hành vi: Tức chỉ che giấu riêng hành vi phạm tội (Ví dụ: giả vờ hỏi đường, xin ngủ nhờ để có điều kiện tiếp cận tài sản rồi thực hiện hành vi chiếm đoạt). Trong trường hợp này chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản biết rõ người phạm tội nhưng không biết hành vi phạm tội.
- Che giấu tính chất của hành vi phạm tội: hành vi phạm tội được diễn ra công khai, những người không phải là chủ tài sản vẫn biết sự việc xảy ra nhưng không biết đó là hành vi trộm cắp tài sản. (Ví dụ: Lợi dụng thủ kho đi vắng, mở cửa kho chuyển hàng lên ô tô như là có việc xuất hàng bình thường, trước sự chứng kiến của nhiều người) hoặc có thể người phạm tội thực hiện hành vi lén lút với người bị hại nhưng công khai, không che giấu với những người khác (Ví dụ: hành vi móc túi ở nơi công cộng).
– Tài sản được coi là đang có người quản trị là tài sản sau :
- Tài sản đang ở trong sự chiếm hữu của người khác, nghĩa là đang nằm trong sự chi phối, kiểm soát về mặt thực tế của chủ tài sản hoặc người có trách nhiệm quản lý (Ví dụ: điện thoại, tiền đang ở trong túi áo)
- Tài sản đang còn trong khu vực quản lý, bảo quản của chủ tài sản: Đây là trường hợp tài sản tuy đã thoát ly khỏi sự chi phối, kiểm soát về mặt thực tế của chủ tài sản hoặc của người có trách nhiệm nhưng vẫn nằm trong phạm vi thuộc khu vực bảo quản. Ví dụ: Hàng hóa được thuê để trong nhà kho, có tường rào bảo vệ
– Tội trộm cắp tài sản được coi là hoàn thành xong kể từ khi người phạm tội đã chiếm đoạt được tài sản. Để nhìn nhận người phạm tội đã chiếm đoạt được hay chưa, đã làm chủ được tài sản hay chưa phải dựa vào đặc thù, vị trí tài sản bị chiếm đoạt. Theo thực tiễn xét xử, những trường hợp sau được coi là “ đã chiếm đoạt được tài sản ” :
- Nếu vật chiếm đoạt gọn nhỏ thì coi đã chiếm đoạt được khi người phạm tội đã giấu được tài sản trong người.
- Nếu vật chiếm đoạt không thuộc loại nói trên thì coi chiếm đoạt được khi đã mang được tài sản ra khỏi khu vực bảo quản.
- Nếu vật chiếm đoạt là tài sản để ở những nơi không hình thành khu vực bảo quản riêng thì coi là đã chiếm đoạt được khi đã dịch chuyển tài sản khỏi vị trí ban đầu. Ví dụ: A lén vào nhà B trộm cắp tài sản, khi A đã lấy được tài sản đem ra góc tường nhà B, chưa kịp đem số tài sản trên đi thì bị phát hiện. Trong trường hợp này, A đã phạm tội trộm cắp tài sản.
Trường hợp người phạm tội đã chiếm đoạt được tài sản nhưng bị người bị hại hoặc người khác giành lại, mà người phạm tội liên tục dùng vũ lực, rình rập đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc tiến công người bị hại hoặc người khác nhằm mục đích chiếm đoạt cho được tài sản, thì hành vi của người phạm tội chuyển hóa từ tội TCTS sang tội cướp tài sản .Nếu một người có dự tính trộm cắp tài sản của người khác nhưng chưa triển khai được hành vi chiếm đoạt tài sản mà bị phát hiện thì tùy trường hợp hoàn toàn có thể bị truy cứu TNHS về tội trộm cắp tài sản .
Ví dụ: Ngày 10/10/2019, H vào lẻn nhà anh K với ý định trộm cắp tài sản là con gà chọi (trị giá 500.000 đồng) nhưng chưa kịp lấy thì bị chủ nhà phát hiện bắt quả tang. Bản thân Hòa thừa nhận vào nhà với mục đích để trộm gà đem bán lấy tiền mua ma túy sử dụng. Hòa đang có tiền án về tội trộm cắp tài sản, chưa được xóa án tích nên bị khởi tố về tội trộm cắp tài sản.
Hành vi trộm cắp tài sản cấu thành tội trộm cắp tài sản khi thỏa mãn một trong các dấu hiệu sau (đây là cấu thành cơ bản, tức khoản 1, thuộc tội phạm ít nghiêm trọng):
Tài sản trộm cắp trị giá từ 02 triệu đồng trở lên: Việc xác định giá trị tài sản đối với tội trộm cắp tài sản cần chú ý một số điểm sau đây: Giá trị tài sản bị chiếm đoạt được xác định theo giá trị thị trường của tài sản đó tại địa phương vào thời điểm tài sản bị xâm phạm. Trong trường hợp có đầy đủ căn cứ chứng minh rằng người có hành vi TCTS có ý định xâm phạm đến tài sản có giá trị cụ thể theo ý thức chủ quan của họ, thì lấy giá trị tài sản đó để xem xét việc truy cứu TNHS đối với người đó. Trường hợp có đầy đủ căn cứ chứng minh rằng người có hành vi trộm cắp tài sản có ý định xâm phạm đến tài sản, nhưng không quan tâm đến giá trị tài sản bị xâm phạm (giá trị bao nhiêu cũng được), thì lấy giá thị trường của tài sản bị trộm cắp tại địa phương vào thời điểm tài sản bị xâm phạm để xem xét việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người đó.
Ví dụ: Trộm cắp dây chuyền vàng đem bán thì mới biết là vàng giả thì vẫn bị truy cứu TNHS về tội TCTS.
Nếu giá trị tài sản dưới 02 triệu đồng thì phải thuộc một trong các trường hợp:
- a) Đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản (có thể là hành vi trộm cắp tài sản hoặc hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản hoặc hành vi chiếm đoạt khác) mà còn vi phạm.
Ví dụ: A có 1 tiền sự về hành vi trộm cắp tài sản. Ngày 19/01/2020, A trộm cắp tài sản trị giá 1.000.000 đồng; ngày 10/02/2020, trộm cắp tài sản trị giá 900.000 đồng. A bị khởi tố về tội “Trộm cắp tài sản” với giá trị chiếm đoạt là 1.900.000 đồng theo quy định tại khoản 1, Điều 173 BLHS và không thuộc trường hợp “Phạm tội 02 lần trở lên” bởi vì giá trị tài sản mỗi lần trộm cắp đều dưới mức định lượng tối thiểu để định tội và 02 lần đó đã được xác định để khởi tố bị can. (hướng dẫn tại Tài liệu giải đáp khó khăn, vướng mắc tại Hội nghị tập huấn công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự năm 2020 của Vụ 7 và Vụ 14 Viện kiểm sát nhân dân Tối cao)
- b) Đã bị kết án về tội TCTS hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168 (Tội Cướp tài sản), 169 (Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản), 170 (Tội cưỡng đoạt tài sản), 171 (Tội cướp giật tài sản), 172 (Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản), 174 (Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản), 175 (Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản ) và 290 (Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản) của Bộ luật hình sự, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
Ví dụ: Ngày 02/12/2021, Vũ Trung A trộm 450.000 đồng của anh Nguyễn Ngọc L để trong túi da trong cửa hàng tạp hóa của anh L bị phát hiện bắt quả tang. A đã bị kết án về tội Trộm cắp tài sản vào năm 2019, đến thời điểm thực hiện hành vi TCTS A chưa được xóa án tích lại tiếp tục thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Do vậy, hành vi của A đã cấu thành tội Trộm cắp tài sản.
- c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội: là gây ra những tác động xấu đến tình hình an ninh, tác động tiêu cực đến trật tự, an toàn xã hội mà cụ thể là gây hoang mang, lo sợ hoặc phẫn nộ trong nhân dân; gây khó khăn trong việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Khi áp dụng tình tiết này phải căn cứ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
Ngày 02/12/2021, Vũ Trung A trộm 450.000 đồng của anh Nguyễn Ngọc L để trong túi da trong shop tạp hóa của anh L bị phát hiện bắt quả tang. A đã bị phán quyết về tội Trộm cắp tài sản vào năm 2019, đến thời gian triển khai hành vi TCTS A chưa được xóa án tích lại liên tục triển khai hành vi trộm cắp tài sản. Do vậy, hành vi của A đã cấu thành tội Trộm cắp tài sản .
Ví dụ: Đối tượng liên tục thực hiện những vụ trộm cắp tài sản vào ban đêm gây ra tâm lý hoang mang, lo lắng, bất an cho người dân về tình hình an ninh, trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn.
- d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ. Việc xác định tài sản trộm cắp là phương tiện sống chính của người bị hại và gia đình thì tài sản đó phải là tài sản đặc biệt quan trọng, là chỗ dựa, phương tiện mưu sinh duy nhất của người bị hại và gia đình mà nếu mất đi tài sản đó thì người bị hại và gia đình lâm vào tình trạng khó khăn.
Ví dụ: xe máy dùng để chở khách và tiền thu được từ việc chở khách là khoản thu chính của gia đình;
- e) Tài sản là di vật (hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, cổ vật); cổ vật (là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị tiêu biểu về lịch sử, văn hoá, khoa học, có từ 100 năm tuổi trở lên).
Ngoài ra theo hướng dẫn tại Mục I.3 của Công văn số 64/TANDTC-PC ngày 03/4/2019 của Tòa án nhân dân tối cao thì: Trường hợp một người nhiều lần thực hiện hành vi TCTS, nhưng mỗi lần trị giá tài sản bị xâm phạm dưới 2 triệu đồng và không thuộc một trong các trường hợp khác để truy cứu TNHS, đồng thời trong các hành vi xâm phạm đó chưa có lần nào bị xử phạt hành chính và chưa hết thời hiệu xử phạt hành chính, nếu tổng trị giá tài sản của các lần bị xâm phạm bằng hoặc trên 2 triệu đồng, thì người đó phải bị truy cứu TNHS về tội TCTS, nếu các hành vi xâm phạm sở hữu được thực hiện một cách liên tục, kế tiếp nhau về mặt thời gian.
Ví dụ: Tối ngày 12/7/2021, A sử dụng xe máy đi dạo lấy trộm cây cảnh. Lần thứ nhất A vào một nhà dân, nhổ được cây cảnh trị giá 1 triệu đồng chở đi. Trên đường về, A phát hiện 1 nhà dân bên đường có để cây cảnh nên tiếp tục vào nhổ trộm 1 cây cảnh khác trị giá 1,5 triệu đồng. Trường hợp này tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 2,5 triệu đồng. Do đó, A phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội TCTS.
2. Khách thể của tội phạm
Khách thể của tội trộm cắp tài sản cũng tương tự như như tội có đặc thù chiếm đoạt khác, đó là quan hệ chiếm hữu. Khi thực thi hành vi trộm cắp tài sản thì người phạm tội chỉ thực thi lén lút chiếm đoạt tài sản, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác mà không có bất kể hành vi nào xâm hại đến những quan hệ xã hội khác ( ví dụ như quan hệ nhân thân ) .Đây cũng là một điểm khác với những tội cướp tài sản, tội cướp giật tài sản, tội bắt cóc nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản. Đặc điểm này được biểu lộ trong cấu thành tội trộm cắp tài sản nhà làm luật không lao lý thiệt hại về tính mạng con người, sức khỏe thể chất là diễn biến định khung hình phạt .Nếu sau khi đã chiếm đoạt được tài sản, người phạm tội bị đuổi bắt mà có hành vi chống trả để tẩu thoát, gây chết người hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe thể chất của người khác thì tùy từng trường hợp đơn cử mà người phạm tội còn phải bị truy cứu nghĩa vụ và trách nhiệm hình sự về tội giết người hoặc tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe thể chất của người khác .
Về đối tượng tác động của tội TCTS
Đối tượng ảnh hưởng tác động của tội trộm cắp tài sản là tài sản của người khác đang có người quản trị. Theo lao lý tại Điều 105 BLDS 2015 thì “ Tài sản là vật, tiền, sách vở có giá và quyền tài sản ”. Tuy nhiên, không phải mọi tài sản thuộc khoanh vùng phạm vi của Điều 163 BLDS đều là đối tượng người tiêu dùng tác động ảnh hưởng của tội TCTS. Cụ thể :
- Đối với giấy tờ có giá: Theo hướng dẫn tại công văn 141/TANDTC-KHXX ngày 21/9/2011 của TANDTC thì giấy tờ có giá gồm: a) Hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ, séc, công cụ chuyển nhượng khác; b) Trái phiếu Chính phủ, trái phiếu công ty, kỳ phiếu, cổ phiếu; c) Tín phiếu, hối phiếu, trái phiếu, công trái và công cụ khác làm phát sinh nghĩa vụ trả nợ; d) Các loại chứng khoán (cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ; quyền mua cổ phần, chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp đồng tương lai, nhóm chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán; Hợp đồng góp vốn đầu tư; các loại chứng khoán khác do Bộ Tài chính quy định); đ) Trái phiếu doanh nghiệp. Giấy tờ có giá được chia làm 02 loại là giấy tờ có giá ghi danh và giấy tờ có giá vô danh. Trong đó, Giấy tờ có giá ghi danh là giấy tờ có giá phát hành theo hình thức chứng chỉ hoặc ghi sổ có ghi tên người sở hữu và Giấy tờ có giá vô danh là giấy tờ có giá phát hành theo hình thức chứng chỉ không ghi tên người sở hữu. Giấy tờ có giá vô danh thuộc quyền sở hữu của người nắm giữ giấy tờ có giá. Như vậy, chỉ có giấy tờ có giá vô danh mới có thể là đối tượng tác động của tội TCTS bởi vì khi chiếm đoạt được các loại giấy tờ có giá vô danh thì quyền sở hữu của chủ sở hữu mới bị ảnh hưởng và có khả năng xác lập quyền sở hữu cho người phạm tội.
- Các quyền tài sản (quyền sử dụng đất, quyền tài sản đối với phần vốn góp trong doanh nghiệp, quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng, quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đòi nợ, quyền được nhận số tiền bảo hiểm đối với vật bảo đảm, quyền khai thác tài nguyên thiên nhiên quyền đối với giống cây trồng…): Quyền tài sản tuy được coi là tài sản nhưng có tính đặc thù, chỉ là một quyền năng mang tính pháp lý được Nhà nước bảo hộ, gắn liền với nhân thân một người cụ thể và được thể hiện qua các giấy tờ có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền (như giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng, giấy chứng nhận đăng ký, hợp đồng góp vốn…). Các loại giấy tờ này cũng không phải là đối tượng tác động của hành vi trộm cắp vì sau khi chiếm đoạt được thì người phạm tội cũng không thể dịch chuyển được quyền sở hữu từ chủ sở hữu sang cho mình. Nếu người phạm tội trộm cắp các loại giấy tờ trên để thực hiện một mục đích khác thì họ có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi sử dụng giấy tờ đó vào mục đích của họ.
– Theo BLDS, tài sản hoàn toàn có thể là động sản hoặc . Với đặc thù hành vi chiếm đoạt của tội TCTS thì chỉ có động sản mới là đối tượng người tiêu dùng tác động ảnh hưởng của tội TCTS. Tuy nhiên, trong những trường hợp nếu lại thuộc vật đồng nhất ( như : những bộ phận được lắp vào khung căn nhà, những đồ vật, thiết bị gắn liền với quyền sử dụng đất … ) hoàn toàn có thể tách rời được thì những tài sản tách rời được hoàn toàn có thể là đối tượng người dùng tác động ảnh hưởng của tội TCTS .- Tài sản là đối tượng người dùng ảnh hưởng tác động của tội TCTS hoàn toàn có thể là tài sản hợp pháp tức là những loại tài sản được xác lập quyền sở hữu cho chủ sở hữu hoặc hoàn toàn có thể là tài sản phạm pháp như do phạm tội, vi phạm pháp lý ( hành chính, dân sự ) mà có .
Ví dụ: A lái xe mô tô chở B cướp giật dây chuyền của chị C. Cả 02 thỏa thuận, A sẽ giữ sợi dây chuyền, đến sáng hôm sau sẽ mang đi bán. Tối hôm đó, lợi dụng lúc A ngủ say, B lén lấy sợi dây này rồi đem bán. Sợi dây chuyền là tài sản bất hợp pháp (do phạm tội mà có) nhưng B vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội TCTS.
– Trong một số ít trường hợp, người triển khai hành vi lén lút chiếm đoạt những tài sản sau không bị truy cứu nghĩa vụ và trách nhiệm hình sự về tội TCTS mà bị truy cứu TNHS về những tội danh khác tương ứng với hành vi mà BLHS lao lý. Cụ thể :
STT
Loại tài sản
Tội danh/Điều luật
1
Chất ma túy
Tội
chiếm đoạt chất ma túy (Điều 252)2
Tiền chất dùng vào việc sản
xuất trái phép chất ma túyTội
chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy (Điều 253)3
Tàu bay, tàu thuỷ
Tội
chiếm đoạt tàu bay, tàu thuỷ (Điều 282)4
Vũ khí quân dụng, phương tiện
kỹ thuật quân sựTội
chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự (Điều 304)5
Vật liệu nổ
Tội
chiếm đoạt vật liệu nổ (Điều 305)6
Súng săn, vũ khí thô sơ, vũ khí thể thao, công cụ hỗ trợ
Tội
chiếm đoạt súng săn, vũ khí thô sơ, vũ khí thể thao hoặc công cụ hỗ trợ (Điều
306)7
Chất phóng xạ
Tội
chiếm đoạt chất phóng xạ (Điều 309)8
Những đồ vật để ở trong mộ,
trên mộTội
xâm phạm mồ mả (Điều 319)– Khi xác lập tài sản bị chiếm đoạt thuộc hình thức chiếm hữu chung, cần làm rõ đó là hình thức chiếm hữu chung hợp nhất hay hình thức chiếm hữu chung theo phần. Nếu tài sản bị chiếm đoạt là hình thức chiếm hữu chung hợp nhất không hề là đối tượng người tiêu dùng tác động ảnh hưởng của tội TCTS. Riêng chiếm hữu chung theo phần thì hoàn toàn có thể là đối tượng người tiêu dùng tác động ảnh hưởng của tội TCTS nhưng phần đó phải rõ ràng tách bạch với phần chiếm hữu của những chủ sở hữu khác .
Ví dụ: Vợ chồng anh Cần, chị Mén đang ly thân nhưng ở cùng một nhà. Ngày 25/5/2012, lợi dụng lúc vợ vắng nhà, Cần qua phòng vợ, cưa két sắt lấy tiền và vàng (tổng trị giá hơn 1 tỉ đồng) đem đi chôn giấu. Anh Cần bị TAND tỉnh Tây Ninh tuyên phạt 7 năm tù về TTCTS. Tháng 11/2012, TAND tối cao tại TP.HCM đã tuyên hủy án sơ thẩm để điều tra xét xử lại. Sau khi xét xử lại, TAND tỉnh Tây Ninh cho rằng do tài sản mà ông A lấy là của chung hai vợ chồng chưa có thỏa thuận phân chia, cũng như chưa có cơ quan chức năng nào có văn bản quyết định phân chia…nên TAND tỉnh Tây Ninh tuyên ông A không phạm tội.
3. Chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội trộm cắp tài sản là người có đủ năng lượng nghĩa vụ và trách nhiệm hình sự ( đủ tuổi, có năng lượng hành vi dân sự ) .Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu nghĩa vụ và trách nhiệm hình sự về tội trộm cắp tài sản theo khoản 3, 4 điều 173 Bộ luật Hình sự ( thuộc loại tội phạm rất nghiêm trọng, đặc biệt quan trọng nghiêm trọng ), không phải chịu TNHS về tội trộm cắp tài sản thuộc trường hợp pháp luật tại khoản 1 ( ít nghiêm trọng ) và khoản 2 ( nghiêm trọng ) .
4. Mặt chủ quan của tội phạm
Tội trộm cắp tài sản được người phạm tội triển khai với lỗi cố ý trực tiếp. Người triển khai hành vi chiếm đoạt biết tài sản chiếm đoạt là tài sản đang thuộc quyền sở hữu của người khác hoặc đang có người quản trị nhưng vẫn mong ước biến tài sản đó thành tài sản của mình khi triển khai hành vi chiếm đoạt .
- Trường hợp có đầy đủ căn cứ chứng minh rằng người có hành vi trộm cắp có ý định xâm phạm đến tài sản có giá trị cụ thể theo ý thức chủ quan của họ, thì lấy giá trị tài sản đó để xem xét truy cứu TNHS về tội TCTS.
Ví dụ: C ở cạnh nhà bà L. Do thường xuyên sang nhà bà L chơi nên để ý biết được nơi bà L cất vàng. Vào ngày 01/3/2012, do cần tiền tiêu xài, C đã lén sang nhà bà L chiếm đoạt 01 sợi dây chuyền vàng, mang về nhà cất giấu. Đến ngày 03/3/2012, C đem sợi dây chuyền đến một tiệm để bán. Chủ tiệm vàng tiến hành kiểm tra thì xác định sợi dây chuyền có trọng lượng 05 chỉ nhưng là vàng giả. Qua điều tra, C đã khai nhận việc chiếm đoạt vàng của bà L. Tại thời điểm xảy ra vụ án, giá vàng được xác định là 4.000.000 đồng/chỉ. Do đó, C phạm tội TCTS.
- Trường hợp có đầy đủ căn cứ chứng minh rằng người có hành vi TCTS có ý định xâm phạm đến tài sản, nhưng không quan tâm đến giá trị tài sản đó (trị giá bao nhiêu cũng được), thì lấy giá thị trường của tài sản bị xâm phạm tại địa phương vào thời điểm tài sản bị xâm phạm để xem xét truy cứu TNHS về tội TCTS
Ví dụ: M thấy một chiếc xe máy dựng trước cửa của một gia đình nên đã vào lấy trộm không quan tâm đó là xe Trung Quốc hay xe Nhật Bản nên phải xác định giá trị tài sản trộm cắp theo giá trị thực tế của chiếc xe.
Mục đích của tội phạm trộm cắp tài sản là chiếm đoạt tài sản của người khác ( vụ lợi, tư lợi ) nhưng mục tiêu chiếm đoạt không là yếu tố bắt buộc trong cấu thành cơ bản của tội này. Vì có những trường hợp, người đồng phạm với người trộm cắp tài sản nhưng không có mục tiêu chiếm đoạt tài sản mà không cấu thành tội khác thì vẫn bị truy cứu nghĩa vụ và trách nhiệm hình sự về tội trộm cắp tài sản
Ví dụ:
– A ghét B nên xúi giục C trộm tài sản của B. Trường hợp này dù A không có mục tiêu chiếm đoạt tài sản của B nhưng A vẫn bị truy cứu về tội trộm cắp tài sản với vai trò đồng phạm .- Anh S ( thầu kiến thiết xây dựng ) thuê Đ lắp ráp đường dây điện của Trường mẫu giáo. Trong khoảng chừng thời hạn triển khai việc làm, Đ chưa được trả công nên có nhu yếu anh S cho ứng trước. Do anh S không ứng tiền trước nên Đ lén đột nhập vào kho của khu công trình lấy 09 cuộn dây điện có tổng trị giá 20 triệu đồng mang về nhà cất giữ nhằm mục đích mục tiêu để anh S trả tiền công cho mình. Trường hợp này Đ vẫn bị truy cứu về tội trộm cắp tài sản .
III. Hình phạt so với tội trộm cắp tài sản
1. Hình phạt chính so với tội trộm cắp tài sản
Mức hình phạt của tội trộm cắp tài sản được chia thành bốn khung, đơn cử như sau :1. Khoản 1 ( tội phạm ít nghiêm trọng ) : Có mức hình phạt là phạt tái tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Được vận dụng so với trường hợp phạm tội có đủ tín hiệu cấu thành cơ bản nêu ở mặt khách quan ( đã nghiên cứu và phân tích ở trên ) .
2. Khoản 2 ( tội phạm nghiêm trọng ) : Có mức phạt tù từ 02 năm đến 07 năm. Được vận dụng đối vối một trong những trường hợp phạm tội sau đây :
- a) Có tổ chức: là trường hợp có từ hai người trở lên cố ý cùng tham gia phạm tội cướp tài sản và có sự thống nhất với nhau về ý chí, cố ý cùng bàn bạc, câu kết chặt chẽ với nhau, vạch ra kế hoạch để thực hiện tội phạm, dưới sự điều khiển của người đứng đầu. Tuy nhiên, không có sự lượng hóa cụ thể đối với sự câu kết, bàn bạc của những người phạm tội trong phạm tội có tổ chức, sự phân công nhiệm vụ, vai trò của những người đồng phạm. Trong đó, mỗi người thực hiện một hoặc một số hành vi và phải chịu sự điều khiển của người cầm đầu;
Ví dụ: Từ ngày 03/5/2020 đến ngày 09/10/2020, Lê Văn H và vợ chồng Nguyễn Thị O, Lê Ngọc Q đã 8 lần cùng nhau trộm cắp thiết bị, vật liệu xây dựng tại các công trình xây dựng trên địa bàn phường X, quận L nhằm kiếm tiền tiêu xài. Cả ba thống nhất, vợ chồng O và Q cung cấp cho H xe bò (để chở tài sản trộm cắp), kiềm cộng lực (để bẻ khóa), H là người trực tiếp thực hiện hành vi trộm cắp tài sản đem về bán lại cho tiệm phế liệu của vợ chồng O và Q. Sau đó O và Q đem bán lại số tài sản này hưởng chênh lệch. H, O và Q đã có sự phân công, câu kết chặt chẽ với nhau thực hiện tội phạm Trộm cắp tài sản. Đây là trường hợp phạm tội có tổ chức.
b) Có tính chất chuyên nghiệp: Hiện chưa có quy định thế nào là phạm tội có tính chất chuyên nghiệp. Tuy nhiên tại điểm 3 Điều 5 Nghị quyết số 03/2019/NQ-HĐTP ngày 24/5/2019 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng Điều 324 BLHS 2015 về tội rửa tiền thì tình tiết “Có tính chất chuyên nghiệp” quy định tại điểm d khoản 2 Điều 324 BLHS 2015 là trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi rửa tiền từ 05 lần trở lên (không phân biệt đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa được xóa án tích) và người phạm tội lấy khoản lợi bất chính thu được từ việc rửa tiền làm nguồn thu nhập;
Ví dụ: Do không có tiền tiêu xài nên ngày 15/10/ 2021, Hoàng Phong T đến Bệnh viện Đa Khoa MB trộm cắp 01 máy tính bảng (trị giá 5 triệu đồng) của nhân viên bệnh viện, mang đi cầm cố lấy 3 triệu đồng tiêu xài. Qua điều tra, T đã có 03 tiền án về tội trộm cắp tài sản, 01 tiền án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản chưa được xóa án tích, lần phạm tội này là lần thứ năm. T không có nghề nghiệp, liên tục thực hiện hành vi phạm tội để tiêu xài, phục vụ cá nhân nên phạm tội thuộc hai tình tiết định khung “Tái phạm nguy hiểm” và “Có tính chất chuyên nghiệp” quy định tại điểm b, g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự.Từ ngày 03/5/2020 đến ngày 09/10/2020, Lê Văn H và vợ chồng Nguyễn Thị O, Lê Ngọc Q đã 8 lần cùng nhau trộm cắp thiết bị, vật tư thiết kế xây dựng tại những khu công trình thiết kế xây dựng trên địa phận phường X, Q. L nhằm mục đích kiếm tiền tiêu xài. Cả ba thống nhất, vợ chồng O và Q. phân phối cho H xe bò ( để chở tài sản trộm cắp ), kiềm cộng lực ( để bẻ khóa ), H là người trực tiếp thực thi hành vi trộm cắp tài sản đem về bán lại cho tiệm phế liệu của vợ chồng O và Q. Sau đó O và Q đem bán lại số tài sản này hưởng chênh lệch. H, O và Q. đã có sự phân công, câu kết ngặt nghèo với nhau thực thi tội phạm Trộm cắp tài sản. Đây là trường hợp phạm tội có tổ chức triển khai. Do không có tiền tiêu xài nên ngày 15/10 / 2021, Hoàng Phong T đến Bệnh viện Đa Khoa MB trộm cắp 01 máy tính bảng ( trị giá 5 triệu đồng ) của nhân viên cấp dưới bệnh viện, mang đi cầm đồ lấy 3 triệu đồng tiêu xài. Qua tìm hiểu, T đã có 03 tiền án về tội trộm cắp tài sản, 01 tiền án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản chưa được xóa án tích, lần phạm tội này là lần thứ năm. T không có nghề nghiệp, liên tục thực hiện hành vi phạm tội để tiêu xài, ship hàng cá thể nên phạm tội thuộc hai diễn biến định khung “ Tái phạm nguy hại ” và “ Có đặc thù chuyên nghiệp ” pháp luật tại điểm b, g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự .
- c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
- d) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm. “Dùng thủ đoạn xảo quyệt” là trường hợp người phạm tội sử dụng thủ đoạn dối trá một cách tinh vi, sử dụng công nghệ cao để thực hiện hành vi phạm tội, che giấu tội phạm, đổ tội cho người khác hoặc người phạm tội có hành vi tiêu hủy chứng cứ, gây khó khăn cho việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm. “Dùng thủ đoạn nguy hiểm” là trường hợp người phạm tội sử dụng thủ đoạn có thể gây nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe của người khác hoặc có thể gây hậu quả nghiêm trọng khác để chiếm đoạt tài sản hoặc che giấu tội phạm;
- đ) Hành hung để tẩu thoát: Là trường hợp mà người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản hoặc ngay sau khi chiếm đoạt được tài sản, nhưng bị phát hiện và bị bắt giữ hoặc bị bao vây bắt giữ thì đã có những hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc chống trả lại người bắt giữ hoặc người bao vây nhằm tẩu thoát;
- e) Tài sản là bảo vật quốc gia: Là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị đặc biệt quý hiếm tiêu biểu của đất nước về lịch sử, văn hóa, khoa học;
- g) Tái phạm nguy hiểm: Theo quy định tại khoản 2 Điều 53 BLHS thì người phạm tội TCTS bị coi là tái phạm nguy hiểm nếu: 1. Đã bị kết án về tội TCTS (theo khoản 3, 4 Điều 173 BLHS), chưa được xoá án tích mà lại phạm tội TCTS (theo khoản 3, 4 Điều 173); 2. Đã tái phạm, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội TCTS.
3. Khoản 3 ( tội phạm rất nghiêm trọng ) : Có mức phạt tù từ 07 năm đến 15 năm. Được vận dụng so với một trong những trường hợp phạm tội sau đây :
- a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
- b) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh: là trường hợp người phạm tội lợi dụng vào hoàn cảnh thiên tai, dịch bệnh để thực hiện hành vi phạm tội TCTS. Tình tiết này được áp dụng không phụ thuộc vào phạm vi, mức độ của thiên tai, dịch bệnh hoặc tính chất, mức độ của những khó khăn khác của xã hội trong tình trạng thiên tai, dịch bệnh.
4. Khoản 4 ( tội phạm đặc biệt quan trọng nghiêm trọng ) : Có mức phạt tù từ 12 năm đến 20 năm. Được vận dụng so với một trong những trường hợp phạm tội sau :
- a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
- b) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp: Tình trạng chiến tranh là trạng thái xã hội đặc biệt của đất nước được tuyên bố trong thời gian từ khi nước nhà bị xâm lược cho tới khi hành động xâm lược đó được chấm dứt trên thực tế. Tình trạng khẩn cấp về quốc phòng là trạng thái xã hội của đất nước khi có nguy cơ trực tiếp bị xâm lược hoặc đã xảy ra hành động vũ trang xâm lược hoặc bạo loạn nhưng chưa đến mức tuyên bố tình trạng chiến tranh. Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp để phạm tội TCTS là trường hợp người phạm tội dựa vào các hoàn cảnh nêu trên để thực hiện tội phạm. Mức độ nguy hiểm của hành vi TCTS trong trường hợp này phụ thuộc vào tính chất của hoàn cảnh chiến tranh; tính chất, mức độ của tình trạng khẩn cấp.
2. Hình phạt bổ sung đối với tội trộm cắp tài sản
Ngoài việc phải chịu một trong những hình phạt chính nêu trên, tùy từng trường hợp đơn cử, người phạm tội trộm cắp tài sản còn hoàn toàn có thể bị phạt tiền từ 5 triệu đồng đến 50 triệu đồng .
IV. Phân biệt tín hiệu đặc trưng của tội trộm cắp tài sản với 1 số ít tội phạm khác
1. Thủ đoạn gian dối nhằm chiếm đoạt tài sản là dấu hiệu cấu thành cơ bản của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Trường hợp người phạm tội dùng những thủ đoạn gian dối tiếp cận tài sản để đến khi có điều kiện mới lén lút chiếm đoạt tài sản của bị hại thì đó là dấu hiệu của tội trộm cắp tài sản chứ không phải là tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Ví dụ: A giả làm người bị bệnh để B thương tình đưa vào nhà của B nghỉ. Trong lúc cả gia đình B lo làm việc, A lén lút lấy trộm tiền và xe mô tô của B bỏ trốn. Hành vi của A cấu thành tội trộm cắp tài sản chứ không phải là tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
2. Thủ đoạn đặc trưng của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản là không cần che giấu hành vi và thực hiện công khai hành vi chiếm đoạt. Nhiều người nhìn thấy và không nghi ngờ gì về hành vi chiếm đoạt tài sản. Trường hợp người phạm tội lợi dụng người quản lý tài sản không có mặt ở nơi để tài sản hoặc tài sản không có người trực tiếp quản lý (tài sản ở nơi công cộng), giả làm ngưòi có trách nhiệm đến và chiếm đoạt tài sản đó. Trường hợp này người phạm tội đã thực hiện hành vi lén lút ở việc che giấu thân phận thật của mình để lén lút với mọi người xung quanh và người quản lý tài sản, tiếp cận và thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản. Do vậy, họ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội trộm cắp tài sản chứ không phải tội công nhiên chiếm đoạt tài sản.
Ví dụ: A giả làm nhân viên khách sạn M, dọn dẹp một số cây kiểng trong khuôn viên của khách sạn. A đã dùng xe chở một số cây kiểng quý đi để chiếm đoạt số cây kiểng đó. Trường hợp này A lén lút với mọi người xung quanh nên phạm tội trộm cắp tài sản chứ không phải tội công nhiên chiếm đoạt tài sản.
3. Thủ đoạn đặc trưng của tội cướp giật tài sản là hành vi công khai và nhanh chóng giằng lấy, giật lấy tài sản thường là gọn nhẹ của người khác rồi nhanh chóng tẩu thoát. Trường hợp người phạm tội lợi dụng chỗ đông người lén giật tài sản của người khác để không bị phát hiện rồi sau đó chiếm đoạt tài sản ấy. Trường hợp này thực chất người phạm tội đã lén lút (không có ý thức công khai) chiếm đoạt tài sản bằng cách giật lấy tài sản thật nhanh chóng để không ai thấy. Người phạm tội đã lén lút cả đối với người bị hại và đối với người xung quanh. Do vậy, trường hợp này là tội trộm cắp tài sản chứ không phải là tội cướp giật tài sản.
Ví dụ:
– A lợi dụng xếp hàng chen lấn, giả làm khách hàng chen lấn xô đẩy mạnh làm phân tán sự chú ý của mọi người và cùng lúc đó giật dây chuyền của B rơi xuống đất để đồng bọn lấy. Trường hợp này, A không có ý thức công khai thực hiện hành vi này mà lén lút giật lấy tài sản (giật cho dây chuyền rơi xuống) rồi sau đó cùng đồng bọn chiếm đoạt. Do vậy, hành vi này phải cấu thành tội trộm cắp tài sản chứ không phải tội cướp giật tài sản.
– Chị T cùng ba người bạn ngồi uống nước tại căng tin của Trường A. Một lúc sau, chị T đi lên Phòng đào tạo và giảng dạy, để túi xách ( bên trong có 01 máy tính xách tay, trị giá 7 triệu đồng ) trên ghế. Lúc này, N tinh chỉnh và điều khiển xe mô tô chở H chạy ngang qua, thấy túi xách của chị T nên dừng xe để H đi bộ vào lấy túi xách trên. Khi H đi bộ vào căn tin thì thấy ba người phụ nữ đang nhìn về phía mình nên H vờ vịt đi thẳng vào quầy hỏi mua thuốc lá. Hỏi xong H đi ngược trở ra. Lợi dụng lúc ba người phụ nữ không chú ý, H lấy chiếc túi xách của chị T rồi chạy ra xe của N đang chờ sẵn tẩu thoát nhưng sau đó bị bắt giữ. Trường hợp này, hành vi của N và H phạm tội TCTS, không phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản hay cướp giật tài sản. Bởi vì, khi H triển khai hành vi chiếm đoạt chiếc túi xách của chị T thì chiếc túi xách vẫn thuộc quyền sở hữu và quản trị của chị T, do chị T không chuyển giao cho ai trông giữ, quản trị chiếc túi xách này cho chị. Như vậy, ba người bạn của chị T không ai có nghĩa vụ và trách nhiệm, nghĩa vụ và trách nhiệm phải trông giữ, quản trị chiếc túi xách. Do đó, hành vi chiếm đoạt chiếc túi xách của H và N không phải là hành vi công nhiên trước mặt chủ sở hữu hay người được ủy quyền quản trị, trông giữ tài sản. Hơn nữa, trong trường hợp, nếu xác lập vì mối quan hệ bạn hữu mà 03 người bạn của chị T có nghĩa vụ và trách nhiệm quản trị túi xách dùm chị T thì hành vi của N, H vẫn phạm tội TCTS vì khi thực thi hành vi chiếm đoạt, H đã tận dụng lúc ba người phụ nữ không chú ý để triển khai hành vi chiếm đoạt. Vì vậy, hành vi của H vừa lén lút với cả chủ sở hữu và vơi cả người quản lý tài sản .4. Trường hợp sử dụng công cụ, phương tiện đi lại phức tạp như : mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet hoặc thiết bị số để lén lút chiếm đoạt tài sản người khác thì người thực thi hành vi chiếm đoạt không phạm tội TCTS mà phạm Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện đi lại điện tử triển khai hành vi chiếm đoạt tài sản ( điều 290 BLHS ) .5. Dấu hiệu có chuyển giao hay không chuyển giao tài sản cho người có hành vi chiếm đoạt tài sản là một trong những tín hiệu quan trọng để phân biệt TTCTS với tội lạm dụng tin tưởng chiếm đoạt tài sản và những tội chiếm đoạt khác .
- Người có hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản đã được chủ sở hữu giao cho quản lý thì phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản chứ không phải là tội trộm cắp tài sản
Ví dụ: A làm công cho nhà chị H, trông coi việc mua bán hàng. A lợi dụng những lúc người làm công khác đi vệ sinh đã lấy nhiều thùng sữa tươi đem ra ngoài. Ngày 19/01/2012, khi A đang lén đưa hai thùng sữa thì bị phát hiện. Ngoài ra, A còn khai nhận lấy 16 thùng sữa, trị giá 4,8 triệu đồng. Trong trường hợp này, A phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản vì các tài sản trên đã được chị H giao cho A quản lý và chúng không được chủ sở hữu cất giấu cẩn thận.
- Người phạm tội chiếm đoạt tài sản thuộc chiếm hữu của mình vẫn phạm tội TCTS khi tài sản đó đã được người phạm tội chuyển giao cho người khác quản trị ( cho thuê, cho mượn, cầm đồ … ) và người phạm tội đã có hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản đó .
Ví dụ: A cầm xe cho mô tô cho B với số tiền 5 triệu đồng. Sau đó, A mang tiền đến nhà B chuộc xe nhưng không thấy ai nên A đẽ lén lút lấy xe đi đến địa phương khác bán. Trường hợp này, mặc dù A có hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản thuộc sở hữu của mình nhưng A vẫn phạm tội TCTS.
- Nếu tài sản thuộc quyền sở hữu của người phạm tội không được chuyển giao cho người khác quản trị nhưng vì một nguyên do nào đó mà thoát khỏi ( hoàn toàn có thể chỉ là trong thời điểm tạm thời ) sự quản trị của người phạm tội và khi thực thi hành vi người phạm tội trọn vẹn không biết đó là tài sản của mình vẫn phạm tội trộm cắp tài sản .
Ví dụ: T lẻn vào nhà ông M lấy trộm được một hộp bên trong đựng 01 chiếc nhẫn vàng 2 chỉ. Nhưng khi về nhà, T nhận ra đó là chiếc nhẫn của mình đã bị rơi mất trước đó. Sáng hôm sau, T đi cầm cố chiếc nhẫn thì bị bắt. Trường hợp này, T vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội TCTS bởi vì lúc thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, T cho rằng đó là tài sản của ông M.
Người có hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản do người khác phạm tội mà có nếu người thực hiện hành vi chiếm đoạt không được người phạm tội chuyển giao tài sản thì người có hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản phạm tội TCTS chứ không phải tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.
Minh Hùng (Tổng hợp)
Tham khảo Bình luận các tội xâm phạm sở hữu khác: Bình luận khoa học Bộ Luật hình sự phần chung và tội phạm
Source: https://vh2.com.vn
Category : Đánh Giá