Hướng dẫn cách làm cơm cháy tương hột kho quẹt ngon đơn giản dễ làm Cơm cháy tương hột kho quẹt là món chay vô cùng thơm ngon. Cùng Bách...
tiểu luận: đặc sắc ẩm thực ba miền bắc trung nam – Tài liệu text
tiểu luận: đặc sắc ẩm thực ba miền bắc trung nam
Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1009.59 KB, 32 trang )
M Ụ
C L Ụ
C
Ph ần 1: M ỞĐẦU
1.
Lí do chọn đềtài
1.1.
Lí do khách quan
1.2.
Lí do chủ quan
2.
Mục tiêu nghiên cứu
3.
Lịch sử nghiên cứu vấn đề
4.
Phạm vi nghiên cứu vấn đề
Phần 2: N ỘI DUNG
1.
Tên đềtài
2.
Giới thiệu chung về văn hóa ẩm thực Việt Nam
3.
2.1.
Khái niệm văn hóa ẩm thực
2.2.
Bản sắc văn hóa ẩm thực Việt Nam
2.2.1.
Quan niệm của người Việt Nam về ẩm thực
2.2.2.
Ẩm thực Việt Nam- m ột nền ẩm thực phong phú và đa dạng
Nét đẹp ẩm thực ba miền Bắc- Trung-Nam
3.1.
Ẩm thực miền Bắc
3.1.1.
3.2.
Ẩm thực miền Trung
3.2.1.
3.3.
Một vài món ăn đặc trưng ở miền Trung
Ẩm thực miền Nam
3.3.1.
3.4.
Một vài món ăn đặc trưng ở miền Bắc
Một vài món ăn đặc trưng ở miền Nam
Vấn đề xúc tiến nhằm nâng cao hiệu quả của văn hóa ẩm thực
trong phát triển du lịch
Phần 3: K ẾT LU ẬN
Phần 4: PH Ụ L ỤC ẢNH
Phần 5: TÀI LI ỆU THAM KH ẢO
Phần 1 : M Ở ĐẦ U
Gi ới thiệu:
trong kho tàng văn hóa ẩm thực, Việt Nam là quê hương của nhiều món ăn
ngon, từ những món ăn dân giã trong ngày thường đến những món ăn cầu kỳ để
phục vụ lễ hội và cung đình đều mang những vẻ riêng. Mỗi vùng miền trên đất
nước lại có những món ăn khác nhau và mang ý nghĩ riêng biệt tạo nên bản sắc
của từng dân tộc. Nó phản ánh truyền thống và đặc trưng của mỗi cư dân sinh
sống ở từng khu vực. Không chỉ vậy ngày nay, ẩm thực còn đóng một vai trò hết
sức quan trọng đối với ngành du lịch nói Việt Nam nói riêng và đối với sự phát
triển đất nước nói chung.
1.
Lí do chọn đề tài
1.1.
Lí do khách quan
Văn hóa ẩm thực là nét văn hóa tự nhiên hình thành trong cuộc sống. Nhất là
đối với người Việt Nam, ẩm thực không chỉ là nét văn hóa về vật chất mà còn là
văn hóa về tinh thần. Qua ẩm thực người ta có thể hiểu được nét văn hóa thể hiện
phẩm giá con người, trình độ văn hóa của dân tộc với những đạo lý, phép tắc,
phong tục trong cách ăn uống…Tuy nhiên mỗi vùng miền trên đất nước lại có
những món ăn khác nhau và mang ý nghĩa riêng biệt tạo nên bản sắc của từng dân
tộc. Nó phản ảnh truyền thống và đặc trưng của mỗi cư dân sinh sống ở từng khu
vực. Vì vậy tìm hiểu về ẩm thực của một số dân tộc trong cộng đồng các dân tộc
Việt Nam không chỉ đểbiết về đặc điểm các món ăn mà thông qua đó để hiểu về
tín ngưỡng, văn hóa và những nét đặc sắc tiêu biểu c ủa m ỗi l ớp cư dân. Ẩm th ực
tạo nên hương vị của dân tộc Việt Nam, lịch sử đã hình thành nên ba miền với nét
văn hóa riêng và cũng chính vì vậy nên đã hình thành cho mỗi miền của đất nước
một nét độc đáo và đặc trưng trong ẩm thực của ba miền. Hơn thế nữa, Trong xu
thế phát triển đa dạng trong nhu cầu du lịch, ẩm thực không còn chỉ đóng vai trò là
yếu tố hỗ trợ, phục vụ cho nhu cầu của khách về ăn uống đơn thuần mà đã trở
thành mục đích của các chuyến du lịch. Xuất phát từ lý do đó, trong những năm
gần đây văn hoá ẩm thực đã trở thành một trong những yếu tố được khai thác và sử
dụng trong hoạt động xúc tiến thu hút khách du lịch.
1.2.
Lí do chủ quan
Là một công dân Việt Nam, sinh ra và lớn lên trên mảnh đất miền trung tuy
cằn cỗi nhưng mặn mà, bình dị và chân thực. nhưng tôi vẫn chưa hiểu hết được
giá trị nhân văn cũng như giá trị tinh thần của nền ẩm thực nước nhà- một nền ẩm
thực vô cùng phong phú và đặc sắc trải dài từ Bắc đến Nam với rất nhiều món ăn
ngon. Tuy sinh ra trên đất nước mình nhưng tôi chỉ mới được nhìn qua sách báo,
tạp chí về những món ngon của mỗi miền, điều nay thực sự đã tạo cho tôi một sự
hiếu kì và muốn tìm hiểu về đặc điểm ẩm thực riêng của mỗi miền trên đất nước
mình.Mỗi vùng miền trên đất nước với những đặc điểm địa hình và khí hậu riêng
đã sinh ra được những con người, họ tạo nên được rất nhiều món ăn ngon cho dân
tộc. Hơn thế nữa là một sinh viên ngành du lịch tôi càng phải hiểu rõ hơn về ẩm
thực của dân tộc mình, của từng vùng miền trên đất nước để sau này giới thiệu
cho khách du lịch, cho bạn bè quốc tế về những món ăn ngon, cũng như những
tinh hoa ẩm thực của dân tộc mình cho thế giới biết đến con người và đát nước
Việt Nam không chỉ với một lịch sử hào hùng mà còn được biết đến với những
món ăn ngon, đậm đà bản sắc dân tộc. Điều này sẽ phục vụ cho tôi rất nhiều trong
học tập cũng như công việc trong tương lai.
2.
M ục tiêu nghiên c ứu v ấn đề
Đất nước Việt Nam rộng lớn trải dài từ Bắc vào Nam với vô vàn món ăn. Có
lẽ chính vì sự đa dạng và phong phú về số lượng như vậy nên ít ai có thể biết hết,
hiểu hết được tất cả ý nghĩa những món ăn cũng như nguồn gốc lịch sử của những
món ăn đó. Chính vì vậy qua bài tiểu luận này tôi hy vọng bạn đọc sẽ hiểu rõ hơn
về những đặc điểm về ẩm thực của ba miền Bắc- Trung- Nam cũng như sự đặc sắc
trong cách chế biến và ý nghĩa to lớn của chúng đối với cuộc sống của cư dân mỗi
miền trên đất nước. Hơn thế nữa, họ sẽ hiểu hơn về con người cũng như phong tục
tập quán thông qua cách ăn uống và chế biến món ăn, bởi trong những món ăn đó
là cả một quá trình và biết bao công sức, tâm huyết của những đầu bếp, những
nghệ nhân. Không những thế, tôi hy vọng rằng không những bạn bè trong nước
mà còn cả bạn bè năm châu đều biết đến nền ẩm thực Việt Nam với những ấn
tượng tuyệt vời. và đó cũng là một trong những điều kiện to lớn đểthu hút khách
du lịch đến với Việt Nam.
3.
L ịch s ử nghiên c ứu v ấn đề
Ẩm thực Việt Nam nói chung và ẩm thực ba miền nói riêng đã có rất nhiều
công trình nghiên cứu và đạt được nhiều thành tựu to lớn. Nhiều tác có quy mô
mà chúng ta có thể kể tên như: “ Hà Nội 36 phố phường” của Thạch Lam, “
Miếng ngon Hà Nội, miếng lạ miền Nam ” của Vũ Bằng, “ văn hóa ẩm thực và
món ăn Việt Nam ” của Xuân Huy, “ bản sắc ẩm thực Việt Nam ”, “ độc đáo ẩm
thực Thăng Long Hà Nội”, “ độc đáo ẩm thực Huế” của Nguyễn Nhã, “ văn hóa
ẩm thực trong lễ hội truyền thống Việt Nam” của Nguyễn Quang Lê, “ Đặc sản
ba miền” của Băng Sơn ông có viết về những món ngon của Hà Nội, Huế, Sài
Gòn. Còn trong cuốn “ Hà Nội 36 phố phường” thì tác giả nói tới những món
ngon gắn liền với tên phố và địa chỉ để du khách có thể tới. Đặc biệt, Mai Khôi là
cây bút xuất sắc viết về lĩnh vực ẩm thực. Ông tìm hiểu về ẩm thực từ rất lâu với
nhiệt huyết và cả tâm hồn ông đã viết nên rất nhiều tác phẩm như: “ hương v ị quê
hương”, “ văn hóa ẩm thực Việt Nam- các món ăn miền Bắc”, “ văn hóa ẩm thực
Việt Nam- các món ăn miền Nam ”, “ văn hóa ẩm thực Việt Nam- các món ăn
Việt Nam ”. Tuy nhiên ngày nay, cuộc sống có nhiều thay đổi, nhu cầu thưởng
thức của con người cũng thay đổi theo, vì vậy đã ra đời một số chuyên luận tạp
chí nghiên cứu về ẩm thực với mục đích giữ gìn bản sắc vốn có, mặt khác làm đa
dạng thêm màu sắc của nền ẩm thực Việt Nam. Hay ngày nay khi mạng lưới công
nghệ thông tin hiện đại đã góp phần quảng bá hình ảnh các món ăn trên khắp cả
nước.
Trong bài tiểu luận này tôi tập trung nghiên cứu về nét đặc trưng về ẩm thực
của ba miền Bắc- Trung- Nam. Hi vọng sẽ góp phần làm cho người đọc hiểu biết
rõ hơn về ẩm thực của mỗi miền trên đất nước.
4.
Phạm v i nghiên cứu.
Trong bài tiểu luận này tập trung nghiên cứu về nét đẹp ẩm thực trên cả ba
miền: miền Bắc, miền Trung và Miền nam.
Phần 2: N ỘI DUNG
1.
Tên đề tài
“Nét đẹp v ăn hóa ẩm th ực ba mi ền B ắc, Trung, Nam”
2.
Khái quát chung v ề đặc điểm v ăn hóa ẩm th ực Vi ệt Nam
2.1.
Khái niệm v ề v ăn hóa ẩm th ực
Theo “ Từ điển Việt Nam thông dụng” thì ẩm thực chính là ăn uống, là hoạt
động để cung cấp năng lượng cho con người sống và hoạt động. chính vì vậy nói
đến văn hóa ẩm thực là nói đến việc ăn uống và các món ăn uống cùng với lịch sử
hình thành của nó.
Cùng với sự phát triển của xã hội loài người thì hoạt động ghệ thuật trong ăn
uống hay ẩm thực cũng thay đổi theo hướng tích cực với sự đa dạng của các món
ăn và cách chế biến. Trước đây, các món ăn chỉ đáp ứng nhu cầu cơ bản của con
người là ăn no nhưng bây giờ cuộc sống hiện đại thì nhu cầu của con người cũng
thay đổi, con người quan tâm đến thẩm mĩ của món ăn, ăn bằng mắt, bằng mũi và
ăn bằng tất cả các giác quan. Vì thế, các món ăn đò uống được chế biến một cách
đặc sắc hơn, cầu kì hơn và nấu ăn cũng như thưởng thức các món ăn trở thành một
nghệ thuật. Ẩm thực không ch ỉ là sự tiếp cận về góc độ văn hóa vật chất mà còn
chứa trong đó văn hóa tinh thần.
Theo nghĩa rộng, “Văn hóa ẩm thực” là một phần văn hóa trong tổng thể,
phức thể các đặc trưng diện mạo về vật chất, tinh thần, tri thức, tình cảm …khắc
họa một số nét cơ bản và đặc sắc của một cộng đồng, gia đình, làng xóm, vùng
miền, quốc gia…nó chi phối một phần không nhỏ trong cách ứng xử và giao tiếp
của một cộng đồng, tạo nên đặc thù của cộng đồng ấy.
Theo nghĩa hẹp, “văn hóa ẩm thực” là những tập quán và khẩu vị của con
người, những ứng xử của con người trong ăn uống; những tập tục kiêng kị trong
ăn uống, những phương thức chế biến, bày biện trong ăn uống và cách thưởng
thức món ăn.
Văn hóa ẩm thực là một biểu hiện quan trọng trong đời sống con người, nó
cũng hàm chứa những ý nghĩa triết lí, nhân văn sâu sắc.
2.2.
Bản sắc v ăn hóa ẩm th ực Vi ệt Nam
2.2.1.
Quan niệm c ủa ng ười V i ệt Nam v ề ẩm th ực.
Văn hóa ẩm thực là một biểu hiện quan trọng trong đời sống con người, nó
cũng hàm chứa những ý nghĩa triết lí. Đối với dân tộc Việt Nam thì cái ăn là cái
văn hóa, nó có một ý nghĩa sâu sắc và liên quan đến mọi mặt của đời sống xã hội.
người Việt cho rằng “ có thực mới vực được đạo”, coi đó là một khởi đầu quan
trọng, là tiền đềđểcon người bước vào các lĩnh vực hoạt động khác. Việc ăn là
việc quan trọng của mỗi người, kể cả trời, đất, thánh thần đều phải tôn trọng việc
ăn. Điều này thể hiện ở việc người Việt thể hiện sự tôn thờ đối với thần thánh
thông qua việc thờ cúng. Những thức ăn trong thờ cúng luôn chiếm vị trí quan
trọng số một; người trần gian, con cháu trong nhà không được phép ăn trước nếu
như chưa thờ cúng tổ tiên, thần thánh. Những đồăn, thức uống trong thờ cúng
được nấu hết sức cẩn thận, chu đáo và tươm tất, bày biện trang trọng và thái độ
thành kính trong cử chỉ, lời nói và ánh mắt.
Đối với người Việt Nam ăn uống có ý nghĩa nội tại trong mọi hoạt động đời
sống, trong mọi sinh hoạt vật chất và tình cảm của con người, thể hiện trong quan
niệm ăn đúng, ăn ngon và ăn đẹp. người Việt tương đối hiếu khách, dù điều kiện
vật chất còn thiếu thốn nhưng trong bữa cơm có những vị khách thì mâm cơm
cũng trở nên thịnh soạn hơn. Bữa ăn chính là thể hiện sự cộng cảm của những
người ngồi ăn với nhau. Mặc dù không phân chia đẳng cấp, nhưng khi ngồi ăn,
những vị trí bên mâm cơm, bàn ăn cũng biểu hiện vị trí, ngôi thứ, sự tôn trọng
trong gia đình hay trong xã hội. Ngồi bên nồi cơm hay việc bổ sung thức ăn cho
bữa ăn thường là người phụ nữ, người nội trợ chính trong gia đình Việt. Và dù ai
cũng vậy, khi ngồi vào bàn ăn thì luôn có ý thức nhường nhịn nhau trong khi ăn:
ăn trông nồi ngồi trông hướng là một tiêu chí bắt buộc đối với mỗi người Việt.
Cũng như nhiều nước khác trong khu vực, ẩm thực Việt Nam thể hiện sự hài
hòa, cân bằng giữa âm và dương, thiên nhiên và con người. do đó đồ ăn thức
uống của người Việt thường có tác dụng bổ trợ nâng cao sức khỏe và chữa một số
bệnh thông thường như: cảm cúm, ho, các bệnh có liên quan đến dạ dày…
Cuối cùng khi chuẩn bị món ăn, người đầu bếp phải sắp xếp sao cho nguyên
liệu vừa đủ với số lượng khách, các dụng cụ nấu ăn như nồi, niêu, xong, chảo, bát,
đũa, thìa, dĩa, dao, thớt phải được vễ sinh sạch sẽ. Nấu món nào ăn trước, món
nào ăn sau phải hợp lí, thứ tự, thái độ nấu vui vẻ, hứng khởi. Văn hóa ẩm thực
ngày càng được đông đảo quần chúng và các chuyên gia văn hóa chú ý đến. và
khi đời sống mọi người được nâng lên thì ẩm thực cũng là một tiêu chí đánh giá
chất lượng cuộc sống.
2.2.2.
Ẩm th ực V i ệt Nam- m ột n ền v ăn hóa ẩm th ực phong phú và đa
dạng
Ẩm thực Việt Nam mang nh ững nét văn hóa riêng v ới ba mi ền B ắc, Trung và
Nam. Mỗi vùng miền có những món ăn mang đậm nét địa phương, ch ịu nhiều ảnh
hưởng của tập quán dân cư và các điều kiện tự nhiên phong phú, tạo ra sự đa dạng
cho văn hoá ẩm thực của cả nước.
Văn hóa ẩm thực Việt Nam còn được hình thành và phát triển gắn v ới sự phát
triển của xã hội. Món ăn Việt ngày nay, do đã trải qua quá trình phát triển lâu dài
của lịch sử dân tộc rất đa dạng, hài hòa. Có những món ăn thuần Việt, có những
món ăn ảnh hưởng của các nền văn hóa khác.
Trong giai đoạn hiện nay, bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế
đang diễn ra sâu rộng, văn hóa ẩm thực Việt lại càng có nhiều điều kiện để tiếp
biến và phát triển. Văn hóa ẩm thực được cấu thành cơ bản bởi các yếu tố hữu hình
và vô hình. Trong đó, hình thức thể hiện mang tính phi vật chất của hoạt động ẩm
thực là: những nghi thức, cách thức thực hiện hoạt động ẩm thực; cách thức lựa
chọn nguyên liệu, gia v ị trong chế biến; cách thức sắp xếp c ơ cấu bữa ăn trong
ngày…Yếu tố hữu hình bao gồm các món ăn thức uống đã hình thành và phát triển
và định hình với những đặc điểm rất đa dạng và phong phú. Trong hệ thống các
món ăn Việt Nam tồn tại bốn loại chính:
– Món ăn thuần Việt, những món ăn này mặc dù trải qua nhiều biến cố thăng
trầm của lịch sử, vẫn không thay đổi, mang đậm nét Việt Nam.
– Món ăn ảnh hưởng của văn hóa ẩm thực Trung Quốc: cách thức chế biến sử
dụng nhiều mỡ hoặc dầu thực vật đã ảnh hưởng mạnh mẽ từ Trung Quốc, cách điều
vị đặc trưng (dùng các vị thuốc bắc).
– Món ăn ảnh hưởng của văn hóa ẩm thực Pháp: cách thức chế biến có sử dụng
các loại sốt. Các món ăn được sử dụng nhiều loại sốt và nước dùng: sốt chua ngọt,
sốt chua cay, nước dùng trong.
– Món ăn ảnh hưởng của văn hóa ẩm th ực Ấn Độ và các n ước Đông Nam Á do
ch ịu ảnh hưởng của các gia v ị có ngu ồn g ốc từẤn Độ.
Các nét văn hóa ẩm thực, đặc biệt là cách thức chế biến, điều v ị và các giá
trị về mặt cảm quan được người Việt tiếp thu và thay đổi cho phù hợp v ới nhu
cầu, điều kiện sống và sở thích. Mặc dù văn hóa ẩm thực ch ịu ảnh hưởng từ Trung
Quốc nhưng món ăn không có quá nhiều chất béo trong chế biến. Mặt khác, văn
hóa ẩm thực Việt chịu ảnh hưởng của văn hóa ẩm thực Pháp nhưng không quá cầu
k ỳ trong việc sử dụng các loại s ốt nh ư ng ười Pháp; ch ịu ảnh h ưởng c ủa Ấn Độ,
Thái Lan… nhưng vị của món ăn không quá cay…
Món ăn Việt Nam được chế biến theo nguyên tắc hài hòa âm dương. Đặc
điểm này được Trần Ngọc Thêm cho rằng người Việt Nam phân biệt thức ăn theo
năm mức âm dương, ứng với ngũ hành: Hàn (Thủy), nhiệt (Hỏa), ôn (Mộc), lương
(Kim) và bình (Thổ). Để tạo ra sự hài hòa âm dương đó, có vai trò của nhiều loại
gia vị khác nhau: chua, cay, mặn, ngọt và các loại rau gia vị khác.
Các món ăn miền Bắc có v ị tương đối hài hoà giữa cay, chua, mặn, ngọt. Món
ăn miền Trung có vị cay nóng và mặn. Món ăn miền Nam có v ị cay, ngọt và béo
ngậy của nước cốt dừa. Các đặc điểm khác biệt này do ảnh hưởng của khí hậu
vùng miền.
Cách thức ăn uống của người Việt cũng có những khác biệt so với hầu hết các
quốc gia trên thế giới. Đặc điểm ăn chung mâm, sử dụng nước chấm chung, ăn
bằng đũa… đã thể hiện cách thức ăn uống mang đậm nét truyền thống văn hóa dân
tộc.
Các loại đồuống cũng rất đa dạng phong phú, thể hiện theo mùa, gắn với hiện
trạng thời tiết và với những điều kiện về thiên nhiên và phong tục tập quán theo
từng vùng miền.
3.
Nét đẹp ẩm thực ba mi ền B ắc, Trung, Nam
Ẩm thực Việt Nam có đặc điểm khác nhau theo từng vùng, mặc dù trong từng
vùng này ẩm thực của các tiểu vùng cũng thể hiện nét đặc trưng.
3.1.
Ẩm th ực mi ền B ắc
Có thể nói Bắc bộ là chiếc nôi của văn hóa ẩm thực trên đất nước Việt Nam.
Và lịch sử đã chứng minh điều đó, trong văn hóa dân gian đã lưu truyền tự bao
đời câu ca dao: “ ăn Bắc mặc Nam” và sự thật là như vậy. Suốt quá trình Nam
tiến, ông cha ta đã giữ cái hồn của nền ăn uống Việt Nam và không ngừng sáng
tạo, thích nghi điều kiện ở vùng đất mới, đem lại sự đa dạng, đặc sắc cho mối
món ăn. Các vùng châu thổ phía Bắc là nơi tổ tiên ta s ớm định cư lâu đời, mọi cái
ăn, cái mặc đều được sàng lọc, đúc kết để trở thành chuẩn mực của làng, của
nước.
Gia v ị là h ương hoa tinh tuý c ủa ẩm th ực. Ẩm th ực mi ền B ắc còn đặc tr ưng
với cách phối trộn gia v ị không quá cay, quá ngọt hay quá béo. Sự tài tình trong
việc phối hợp gia vị khi chế biến món ăn của người dân miền Bắc không những
giúp làm mất đi mùi tanh của thức ăn mà còn làm tăng thêm hương v ị của món
ăn. Các loại gia vị trong ẩm thực miền Bắc rất phong phú và riêng biệt cho từng
món ăn, bao gồm nhiều loại rau thơm như tía tô, hành cho bát cháo giải cảm; thìa
là cho món riêu cá hay bún chả cá Lã Vọng; húng Láng là loại rau có được mùi v ị
đặc trưng, lá mơ ăn kèm thịt chó; gừng, riềng luôn có trong mẻ cá kho; lá chanh
non xanh mởn được xắt nhuyễn và rắc trên d ĩa gà luộc; các gia v ị lên men như
mắm tôm, mẻ hoặc giấm bổng là gia v ị không thể thiếu của món bún riêu, bún
ốc. và nhìn chung, do truyền thống xa xưa có nền nông nghiệp nghèo nàn, ẩm
thực miền Bắc trước kia ít thịnh hành các món ăn với nguyên liệu chính là thịt,
cá.
Các loại thức uống trong ẩm thực miền Bắc cũng khá phong phú với nước
chè (trà) tươi được bán ở từng gốc đa đầu làng, từng góc ngõ phố. Cô hàng chè
xinh xắn, giọng nói thỏ thẻ ngọt ngào luôn là đềtài muôn thuở cho các thi sĩ miền
Bắc. Hàng chè tuy nhỏ nhưng có đầy đủcác thức uống và các món hút đặc trưng
của miền Bắc: nước chè tươi được đựng trong ấm đun nhẹ trên bếp than hồng
hoặc được ủ trong chiếc bình tích, ấm nước vối mát lành từ những nụ và lá vối
phơi khô, chai rượu nếp sủi tăm, lọ kẹo lạc (đậu phộng) hoặc kẹo vừng (mè), mấy
đế
i u thuốc vấn bằng lá, chiếc đế
i u cày và hộp thuốc sợi để hút thuốc lào.
Nhiều người đánh giá cao Ẩm thực Hà Nội một thời, cho rằng nó đại diện tiêu
biểu nhất của tinh hoa ẩm thực miền Bắc Việt Nam với những món phở, bún
thang, bún chả, các món quà như cốm Vòng, bánh cuốn Thanh Trì v.v. và gia vị
đặc sắc như tinh dầu cà cuống, rau húng Láng.
3.1.2. Một vài món ăn đặc trưngở miền Bắc
Phở Hà Nội
Phở là một món ăn truyền thống của Việt Nam, cũng có thể xem là một trong
những món ăn đặc trưng nhất cho ẩm thực Việt Nam. Thành phần chính của phở
là bánh phở và nước dùng (hay nước lèo theo cách gọi miền Nam) cùng với
thịt bò hoặc gà cắt lát mỏng. Ngoài ra còn kèm theo các gia vị như:
tương, tiêu, chanh, nước mắm, ớt,… Những gia vị này được thêm vào tùy theo khẩu
vị của từng người dùng. Phở thông thường dùng làm món ăn để
i m tâm, hoặc ăn tối.
Ở các tỉnh phía Nam Việt Nam, phở được bày biện với những thành phần phụ gọi
là rau thơm như hành, giá và những lá cây rau mùi, rau húng, trong đó ngò gai là
loại lá đặc trưng của phở. Phở thường là phở bò, nhưng cũng có phở gà, phở heo,
phở tôm,…
Nước dùng nói chung được làm bằng việc hầm xương bò, thịt dùng cho món phở là
thịt bò hoặc gà và gia vị bao gồm quế, hồi, gừng, thảo quả, đinh hương, hạt mùi,…
“Bánh phở”, theo truyền thống, được làm từ bột gạo, tráng thành tấm mỏng rồi cắt
thành sợi. Phở luôn phải ăn nóng mới ngon, tuy nhiên, đểcó được những bát phở
ngon còn tùy thuộc vào kinh nghiệm và bí quyết truyền thống của nghề nấu phở.
Từ những năm 1930 lại đây, phở đã tới đỉnh cao của văn hóa ẩm thực Việt Nam
với nghệ thuật lóc thịt, hầm xương và gia giảm gia vị: thảo quả, quế chi… thành
món đặc sản của đất Hà Thành: “phở Hà Nội”.
Xôi
Xôi Hà Nội có một phong vị riêng mà không trùng với bất cứ xôi ở nơi nào
khác. Mỗi loại xôi có một hương vị khác nhau và được ăn kèm với các loại thức ăn
khác nhau. Chẳng hạn như xôi trắng ăn kèm với ruốc, thịt kho tàu, giò chả, lạp
xường vừa thơm, vừa mềm. Xôi gấc có vị ngọt được ăn kèm với chả mỡ. Xôi lạc,
xôi đỗ xanh ăn kèm với vừng và ruốc. Còn xôi xéo, chắc chắn phải có thêm đậu
xanh xắt lát mỏng và trên bát có hành phi thơm vàng ngậy…
Thật ra, việc nấu xôi cũng chẳng mấy khó khǎn và bất kể ai cũng nấu được. Chẳng
hạn như muốn nấu xôi đậu xanh, chỉ cần chọn loại gạo nếp cái hoa vàng, ngâm
gạo, đậu xanh từ tối hôm trước, để qua đêm cho mềm. Sau đó, vo gạo, đãi đậu thật
kỹ rồi trộn đều. Cho thêm một chút muối, xóc lẫn vào gạo, đậu rồi đổ vào chõ đồ
cho đến khi hạt gạo dẻo trong và hạt đậu nở bung là được. Riêng xôi gấc, thay vì
cho muối, người nấu cần cho thêm đường. Trong các loại xôi, xôi xéo được coi là
khó nấu nhất. Sau khi xôi chín, người nấu phải xới xôi cho tơi, để nguội rồi trộn
với đậu xanh nấu chín. Đến lúc ăn xôi, phải xắt mỏng nắm đậu xanh đã được đồ
chín, thêm chút mỡ nước, hành phi vàng thơm phủ lên trên. Khi đó, bát xôi xéo của
sẽ có được vị ngọt của gạo nếp,vị bùi của đậu xanh, vị béo của mỡ nước và vị
thơm của hành phi, ăn ngon tuyệt.
Bánh cuốn Thanh Trì
Bánh cuốn Thanh Trì được tráng một cách khéo léo, người ta tráng bánh rất
mỏng, bánh có màu trắng trong, dẻo và thơm. Chất liệu chủ yếu đểlàm bánh cuốn
là gạo, gạo được xay hoặc xát ra hoà cùng với một lượng nước vừa phải. Bánh
cuốn thường thường được tráng trên miếng vải trắng, viền được làm bằng tre, phủ
lên nồi nước nóng, nước ấy phải luôn sôi và nhiệt độphai đảm bảo ở 100 độC mới
có thể làm chín bột gạo. Người làm bánh cho từng môi bột nhỏ vào trên tấm vải
trắng ấy, láng mỏng rồi đậy vung lại khoảng chừng 2 phút bánh chín đặt một thanh
tre nhỏ vào một đầu đểcho bánh dính lại, sau đó cuộn một vòng rồi trảm tấm bánh
ra bàn, cắt làm đôi và cuộn lại.Bánh cuốn Thanh Trì có các loại khác nhau, thường
là loại không nhân, người ta chỉ xoa một lần mỡ phi hành, hành phải là hành lá
tươi mới đúng chất. Cũng có khi người ta làm bánh có nhân, nhân bánh có nhiều
loại: bánh cuốn nhân hành, bánh cuốn nhân tôm bóc nõn giã bông, bánh cuốn nhân
thịt mà thường được làm bằng thịt băm với mộc nhĩ, nấm hương, hành đã xào chín
và cho thêm chút hồ tiêu đểtăng thêm vị ngon và mùi hấp dẫn.Nước chấm bánh
cuốn được pha chế không quá cầu kỳ, nhưng phải làm nhiều lần lắm người ta mới
có thể ước chừng được thế nào là ngon.
3.2.
Ẩm thực miền Trung
Trong kho tàng ẩm thực miền Trung đa dạng và đặc sắc, không chỉ vậy đặc
sản miền Trung cũng nhiều vô kể, mỗi vùng, mỗi miền đều có những nét tinh tế
mang theo niềm tự hào riêng. Ẩm thực miền Trung được sáng tạo, góp nhặt từ sự
gian khổ, khó nghèo của từng vùng đất khô cằn nhưng vẫn mang hơi thở Việt và
được lưu truyền ra cả mọi miền đất nước. Vì vậy mà người miền Trung đã hình
thành nên một vùng văn hóa ẩm thực miền Trung truyền thống vô cùng phong
phú, đa dạng và đặc sắc.
Nói đến ẩm thực miền Trung là nói đến cái bình dị, dân dã nhưng mang
hương vị rất riêng không lẫn vào đâu được. Nhiều thực khách đã rất ngỡ ngàng và
xuýt xoa khi được thưởng thức những món bún thang, bún chả, bún ốc Hà Nội,
mỳ Quảng và nhất là, bánh đa cua Hải Phòng. Chính màu sắc bắt mắt của gạch
cua, bánh đa, màu xanh mướt của lá lốt, rau muống, hành lá, màu đỏ tươi nơi trái
ớt và vàng rộm của hành khô kết hợp với hương vị thơm ngon, béo ngậy của cua
đồng đã làm say lòng thực khách khi có dịp được thưởng thức.
Với lối ẩm thực riêng mang sắc thái đặc trưng của mỗi vùng đất, ẩm thực
miền Trung có sự hoà trộn giữa cái chung, cái riêng là yếu tố làm nên phong cách
ẩm thực miền Trung vô cùng phong phú, đa dạng và hết sức tinh tế.
Trong ẩm thực miền Trung, người miền Trung lại ưa dùng các món ăn có vị
đậm hơn, nồng độ mạnh. Tính đặc sắc thể hiện qua hương vị đặc biệt, nhiều món
cay hơn đồ ăn miền Bắc và miền nam. Màu sắc được phối trộn phong phú, rực rỡ,
thiên về màu đỏ và nâu sậm. Ẩm thực miền Trung nổi tiếng với mắm tôm chua,
các loại mắm ruốc. Ẩm thực cung đình Huế với phong cách ẩm thực hoàng gia
không chỉ rất cay, rất nhiều màu sắc mà còn chú trọng vào số lượng các món ăn,
cách bày trí món.
Nhiều nguyên liệu như mắm ruốc, nghệ, sả, được sử dụng trong món ăn đó là
đặc trưng của các món ăn của ẩm thực miền Trung. Đơn giản vậy đó mà không ít
người đã ghiền cái hương vị quê mùa, dân dã ấy của các món ăn này.
Ai có dịp ghé qua và thưởng thức hương vị đậm đà, dân dã của ẩm thực miền
Trung không thể nào không nhắc đến các món ăn nổi tiếng như: Bánh bột lọc
Huế, với cái vị giòn giòn, dai dai với nhân tôm ở giữa, chấm với nước chấm ngòn
ngọt cay cay thì ăn mãi mà không chán. Hay món nem nướng Nha Trang với từng
cuốn thịt vàng, thơm nồng, ăn cùng với các loại rau xa lách tạo nên hương vị vô
cùng đặc biệt. Thanh Hoá cũng có nhiều món ăn truyền thống địa phương như
nem chua, bánh răng bừa, bánh gai Tứ Trụ, rượu Chi Nê Hậu Lộc…Nghệ An
cũng đem đến nhiều đặc sản từ tương Nam Đàn, nhút Thanh Chương, bánh đa Đô
Lương, nước mắm Quỳnh Lưu cho đến gà xáo Thanh Chương và lươn xứ Nghệ…
Và còn nhiều nhiều những món ăn khác nữa trong ẩm thực miền Trung, khiến
du khách đã một lần nếm thử thì sẽ không bao giờ quên.
Với ẩm thực miền Trung, đồ uống cũng rất đa dạng với rượu, trà, chè,bia,…
Miền Trung nổi tiếng với các loại rượu chưng như rượu Hồng Đào ở Quảng Nam,
rượu Bầu Đá ở Bình Định. Trà là một thức uống phổ thông trong ẩm thực miền
Trung.
Ẩm th ực miền Trung không chỉ dừng lại ở đó mà còn rất nhiều món ngon,
nhiều đặc sản mang bản sắc riêng của từng vùng miền. Và du khách khi đã đến
với ẩm thực miền Trung, đã một lần thưởng thức chúng thì sẽ không bao giờ quên
được.
Và khi nói đến ẩm thực miền Trung thì người ta không thể không nhắc đến ẩm
thực xứ Huế- cái nôi của ẩm thực miền Trung. Trà cung đình Huế được các vị vua
xem như một trong những vị ẩm thực Đệ Nhất Đế Vương trong hoàng cung. Ngoài
ra, Bia Huda Huế- một thương hiệu nổi tiếng, cùng với ẩm thực miền Trung là
niềm tự hào của người miền Trung. Ngoài ra, xứ Huế có rất nhiều loại chè.
3.2.1.
Mộ t vài món ăn đặc trưng ở miền Trung
Mì Quảng
Nhắc đến Quảng Nam là người ta liên tưởng tới món ăn rất đặc trưng của vùng
đất này, đó là mỳ Quảng. Mì Quảng sinh từ đất Quảng đúng như tên gọi. Nó được
coi là món đặc sản dùng đểmời khách, hay những cuộc vui như giới thiệu nét văn
hoá của người dân đất Quảng. Mì được làm bằng bột gạo xay mịn, tráng thành
bánh, quét lớp dầu lạc mỏng, thái thành sợi. Nước dùng được làm từ thịt gà, có nơi
dùng thịt heo, tôm tươi. Nước dùng của mì Quảng ít chứ không như nước phở Bắc,
nhưng rất ngọt và đậm đà. Rau sống ăn kèm thường là rau thơm, bắp chuối non thái
mỏng. Trước khi cho mì vào bát, người ta lót xuống dưới một lớp rau sống, rồi trải
đều lên trên những sợi mì trắng. Nước chan nóng sốt được chan đều với những
miếng thịt gà hay thịt heo, tôm béo ngậy, thơm lừng. Có thể cho thêm ít hạt lạc
rang chín vàng, ít tiêu, vài lát ớt, vắt múi chanh, một chút mắm chiên… tùy theo
khẩu vị. Những người sành ăn mỳ Quảng còn yêu cầu thêm cái bánh tráng nướng
giòn, bóp vụn bỏ vào bát mỳ nóng hôi hổi, như thế mới ngon. Ngày nay, do khẩu vị
và nhu cầu của nhiều thực khách đến từ bốn phương, người ta có thể đề
i u chỉnh
một chút trong khâu chế biến như: cho thêm vào tô mì một số loại nhân, rau sống
hay gia vị khác, tuy nhiên không phải vì thế mà làm mất đi hương vị tô mì Quảng
truyền thống.
Cao lầu
Cao lầu, món ăn gắn liền với phố cổ Hội An, sợi cao lầu được chế biến công
phu. Dùng gạo tại địa phương, chọn gạo không cũ, không mới (tránh quá khô hoặc
quá dẻo). Gạo ngâm với nước tro lấy từ củi tràm ở Cù Lao Chàm. Dùng nước giếng
ở khu Bá Lễ để làm bột thì mới được sợi cao lầu dai và chắc. Sau đó gạo được xay,
bồng, rã nước, nhồi bột, hấp sơ qua rồi xắt sợi và hấp chín. Sợi cao lầu chỉ giữ được
trong ngày, khi ăn trụng với nước sôi, đểráo. Trong các công đoạn làm sợi, cách
nhồi đểcó bột dẻo và khô quyết định chất lượng sợi. Sợi cao lầu có màu gạo lứt
hoặc nhuộm vàng. Ðể làm nhân ăn với sợi cao lầu, chọn thịt đùi heo nạc, ướp gia vị
và ngũ vị hương đểlàm xá xíu. Dùng sợi cao lầu xắt từng đoạn dài cỡ ngón tay,
phơi khô rồi chiên giòn. Ðậu phộng rang giã nhỏ phi với tỏi. Các thứ này đặt trên
sợi cao lầu. Nước sốt khi làm xá xíu rưới lên, ai cần đậm đà thì thêm nước mắm
thấm. Cao lầu “kết bạn” cùng rau húng lủi. Kèm theo có bánh đa nướng, loại bánh
miền Trung tráng dày với nhiều mè trắng và một ít nước cốt dừa. Cũng không thể
thiếu rau đắng hoặc cải con (loại cải ngắn cỡ gang tay, cọng nhỏ, ăn giòn ngọt) đi
theo cho đủbộ. Ngày nay cao lầu được cải tiến thêm chén nước súp nấu từ xương
gà, phần nhân thêm thịt gà nạc xắt vuông xào cho thấm và tép bạc luộc lột vỏ đặt
lên.
Bánh Huế
Người Huế làm bánh không phải đểăn no, mà làm bánh đểthưởng thức hương
vị. Huế là xứ sở có hàng trăm loại bánh ngon, trong đó phải kể đến bánh bột lọc,
bánh bèo, bánh nậm, bánh ram ít… Mỗi loại bánh lại có một cách làm và mang ý
nghĩa riêng thể hiện tấm lòng của con người xứ Huế. Dạo quanh các con đường ở
thành phố Huế, chúng ta dễ dàng nhận thấy rất nhiều hàng bánh Huế tấp nập khách
du lịch và người Huế đến thưởng thức. Nói đến bánh Huế, trước tiên là món bánh
bèo, bánh được trình bày trong từng bát thật nhỏ và cạn. Theo quan niệm của người
Huế, mỗi chiếc bánh thanh tao, mỏng mảnh chính là yếu tố tạo nên sự ngon miệng.
Rồi đến bánh nậm, thứ bánh trắng ngần để
i m nhụy tôm hồng, mặt bằng hình chữ
nhật, lát mỏng thanh thanh, được bọc bằng lá dong ăn kèm với chả tôm, trở thành
một món ăn độc đáo, hòa hợp giữa cách ăn bình dân và quí tộc. Những món bánh
bèo, bánh nậm, bột lọc, bánh ram ít… thì bắt buộc phải có nước mắm chua chua
ngọt ngọt với vài lát ớt xanh, đỏthơm thơm mới đúng kiểu. Chỉ cần nhìn bát nước
chấm cũng đủ thấy được rằng sự hòa hợp sắc màu trong ẩm thực xứ Huế rất được
chú trọng. Các loại bánh thường được làm nhỏ và mỏng, tạo các hình hoa trái, làm
cho người ăn khi nhìn đã ngạc nhiên thích thú và muốn thưởng thức.
Đến Huế, ai cũng phải dành một khoảng thời gian để thưởng thức bánh Huế, ăn
bánh Huế là phải thưởng thức cả bằng miệng, bằng mắt và bằng tai nữa, như thế
mới có thể tận hưởng hết những hương vị đậm đà của nó. Bởi bánh Huế là những
tác phẩm vừa cầu kỳ sang trọng vừa dân dã làng quê, như một để
i m nhấn trong
nghệ thuật làm bếp của người nội trợ xứ Huế.
Cơm lam Tây Nguyên
Người ăn có thể cảm nhận cả mùi nếp thơm lẫn hương rừng trong miếng cơm
lam. Nó chắc mà lại dẻo, bùi mà không cứng, ăn không biết ngán. Nhiều khi không
có thức ăn kèm, người ta vẫn thấy rất rõ cái vị đậm đà của nó.
Cách làm món cơm lam không phức tạp nhưng cũng khá cầu kỳ. Bước đầu tiên
phải chọn ống lam là thân cây nứa non, dày (chỉ lấy cây mới mọc vài lá ngọn). Sau
đó, chặt ống nứa để lại một mấu, tránh làm giập ống lam. Gạo nếp làm cơm lam
phải chọn loại nếp trắng, dẻo, thơm, tốt nhất là “khảu tan” (nếp tan), rồi ngâm gạo,
vo sạch, rắc ít muối trộn đều rồi cho vào ống lam. Khi cho gạo vào ống lam không
được nén quá chặt, không đầy quá mà phải để cách miệng ống lam khoảng 4 – 6cm;
sau đó đổ nước cách miệng ống lam 2 – 4cm; lấy lá dong hay lá chuối làm vừa
miệng ống, đậy lên phía trên gạo, rồi lấy hai thanh nứa hoặc tre mềm cài hình chữ
thập đểgiữ cho gạo không bị bung ra, khi cơm lam chín kết dính chặt, dẻo.
Khi các công đoạn trên hoàn tất, đặt ống lam vào bếp lửa đang cháy, đốt ống
lam cho đều đểcơm lam chín ngon, không bị cháy. Cơm lam chín lấy ra đểnguội,
róc hết lớp vỏ cháy bên ngoài, dùng tay tước lớp vỏ mỏng, để lộ dần một lớp
“giấy” trắng ngà của ống nứa non bọc lấy những hạt cơm thơm dẻo. Khi ăn chú ý
nên ăn cả lớp “giấy” đó. Muốn đểcơm lam được lâu, dễ vận chuyển, giữ độ dẻo
của cơm, người ta chỉ bóc hết lóp vỏ cháy bên ngoài, khi ăn mới bóc tiếp lớp còn
lại, giữ được vị thơm ngon đặc biệt của cơm lam. Món ăn này nếu cùng thưởng
thức với thịt thú rừng xào, nộm thì ngon tuyệt.
3.3.
Ẩm th ực mi ền Nam
Do đặc điểm địa hình và sinh hoạt kinh tế, văn hóa Nam Bộ đã định hình nền
văn minh sông nước, ở đó nguồn lương thực – thực phẩm chính là lúa, cá và rau quả
kể cả các loại rau đồng, rau rừng. Từ sự phong phú, dư dật ấy mà trải suốt quá trình
khai hoang dựng nghiệp, món ăn, thức uống hàng ngày của người Nam Bộ cho dù
trong hoàn cảnh nào, thiếu thốn đạm bạc, hay đầy đủ thỏa thuê, họ không thể
không khám phá và sáng tạo nhiều phương thức nuôi trồng, đánh bắt để chế biến
vô số miếng ngon một cách có bài bản từ những đặc sản của địa phương.
Với phong cách thưởng thức “mùa nào thức nấy” và quan niệm “ăn để mà
sống” hầu có đủ dưỡng chất tái tạo sức lao động, họ đã tỏ ra rất sành trong việc
phối hợp các yêu cầu cao nhất của miếng ăn: thơm, ngon, bổ, khỏe. Câu nói “ăn
được ngủ được là tiên” rất được người Nam Bộ quan tâm, xem trọng, cho nên ngồi
vào bàn ăn, khi chủ nhà giới thiệu món nào, dù là cá th ịt hay rau quả, kể cả rượu,
họ thường nhắc nói: ăn món này bổ xương, hoặc tr ị suy dinh dưỡng, bổ gan, bổ
phổi…; rượu thuốc này giải quyết được bệnh “tê bại” nhức mỏi; tráng dương, bổ
thận v.v…
Khẩu vị của người Nam Bộ cũng rất đặc biệt: “gì ra nấy”. Mặn thì phải
mặn quéo lưỡi (như nước mắm phải nguyên chất và nhiều, chấm mới “dính”; kho
quẹt phải kho cho có cát tức có đóng váng muối); ăn cay thì phải gừng già, cũng
không thể thiếu ớt, mà ớt thì chọn loại ớt cay xé, hít hà (cắn trái ớt, nhai mà môi
không giựt giựt, lỗ tai không nghe kêu “cái rắc”, hoặc chưa chảy nước mắt thì
dường như chưa… đã!). Còn chua thì chua cho nhăn mặt mới “đã thèm”; ngọt (chè)
thì phải ngọt ngây, ngọt gắt; béo thì béo ngậy; đắng thì phải đắng như mật (thậm
chí ăn cả mật cá, cho là “ngọt”!); còn nóng thì phải “nóng hổi vừa thổi vừa ăn”…
Vì sao khẩu v ị người Nam Bộ lại “quyết liệt” như thế? Vấn đềđặt ra chẳng ai giải
thích được tại sao ngoại trừ người Nam Bộ lớp trước hoặc những nhà nghiên cứu về
văn hóa ẩm thực vùng đất này. Những trường hợp vừa nêu tuy cá biệt nhưng cũng
đã nói lên được đặc trưng khẩu vị con người của một vùng đất. Nhưng đó là khẩu
vị của ngày trước. Nay tuy Nam Bộ đã qua rồi giai đoạn cực kỳ gian nan khổ khó,
khẩu vị của họ cũng theo xu thế ăn sang mặc đẹp mà thay đổi: lạt hơn, ngọt hơn,
nhưng những món ăn ghi đậm dấu ấn thời khẩn hoang vẫn còn đó mà đại biểu là cá
lóc nướng trui, rắn nướng lèo, mắm kho, mắm sống… Người Nam Bộ chẳng những
không mặc cảm mà còn tự hào, phát huy để nhắc nhớ cội nguồn, tri ân người mở
cõi.
Nếu những món ăn độc đáo ấy vẫn tồn tại, vẫn hiện diện trong bữa cơm gia
đình và cả trong nhà hàng sang trọng thì khẩu v ị và cung cách thưởng thức c ố hữu
của người Nam Bộ vẫn được bảo lưu đến mức không thể không gây ngạc nhiên
người, thí dụ như khi ăn, nhiều người không ch ỉ chan nước mắm vào cơm mà còn
dùng muỗng húp, dường như như thế mới “đủ đô”. Và, đối với những người không
quen ăn mặn có những món không cần phải chấm nước mắm, nhưng nếu trên mâm
không có chén nước mắm họ sẽ cảm thấy bữa ăn mất ngon, b ởi chén nước mắm là
cái gì đó rất cần thiết. Cho nên phải có, và theo thói quen, họ vẫn đưa miếng đến
chấm nhưng đó chỉ là một “động tác giả” vì hoàn toàn chưa dính một chút nước
mắm nào, vậy mà ngon – không làm động tác giả như thế họ sẽ cảm thấy miếng ăn
bị nhạt nhẻo.
Về nơi ăn, với những bữa cơm thường ngày trong gia đình thì tùy điều kiện
không gian căn nhà rộng hay hẹp mà bố trí hợp lý: hoặc trên bàn, hoặc ngay trên
sàn nhà. Nếu là bạn thân rủ nhau nhậu chơi thì có thể trải đệm dưới gốc cây trong
sân vườn hay ngoài đồng, tùy thích. Nhưng khi nhà có đám tiệc thì không xuề xòa
mà bày biện cỗ bàn rất nghiêm ch ỉnh trong tinh thần quý trọng khách m ời, tạo nên
nét văn hóa rất riêng mà cũng rất chung, hài hòa giữa phong tục truyền thống với
đặc điểm văn minh vùng sông nước, hầu từng bước hoàn thiện nền văn hóa ẩm thực
độc đáo.
3.3.1.
Một vài món ăn đặc trưng ở miền Nam
Cá lóc …
Chỉ một loại cá lóc, mà người ta có thể chế biến ra hơn 20 món khác nhau.
Nhìn vào bảng thực đơn này, chúng ta không khỏi khâm phục tính sáng tạo trong
việc chế biến ra các món ăn vô cùng phong phú của người Nam Bộ. Sau đây là vài
món cá lóc tiêu biểu:
•
Cá lóc đắp bùn: Ăn cách này, người ta khỏi phải làm cá, ch ỉ rửa cho
sạch, đểsống nguyên con, sau đó người ta móc bùn đắp kín, phải là
loại bùn dẻo mới được, sau đó chất rơm rạ lên đốt, đến khi đất khô
nứt ra thì cá chín, có mùi thơm ngọt, phảng phất chút ít bùn làm cho
món ăn mang đậm chất dân dã. Món này người ta thường dùng chấm
với muối tiêu mới ngon.
•
Cá lóc nướng trui: Cá lóc còn sống để nguyên con, dùng cây hoặc
nẹp tre xỏ vào miệng cá theo bề dài rồi hơ trên đống lửa nướng.
Thông thường, người ta cắm cây xuống đất, cá lóc ngửa lên trời, rồi
lấy rơm chất lên đốt. Khi rơm cháy tàn cũng là lúc cá chín, có mùi
thơm của thịt cá và mùi hơi khét của da. Cá chín đem ra, đặt nguyên
con trên đĩa, nếu ngồi ăn ở sau vườn thì có thể đểcá lên tàu lá chuối.
Sau khi cạo bớt lớp vảy cá bị cháy ngoài da, lật ngửa cá, xẻ lằn dài
theo bụng cá, mở ra làm đôi là ăn được, không cần nêm gia vị, ăn với
rau sống. Nước chấm thường là nước mắm me chua hoặc muối ớt.
•
Canh chua cá lóc: Đây là một trong những món đặc trưng của người
Nam Bộ, mang tính tổng hợp và thể hiện được tư duy sáng tạo của họ
trong việc chế biến các món ăn. Cá lóc làm sạch, cắt ra từng khứa to
rồi mới để vào nồi canh. Người Nam bộ thường nấu canh chua với
me, có giá, bạc hà, ngò gai, cà chua…, phi chút tỏi mỡ cho thơm. Ăn
canh chua cá lóc, nước chấm phải là nước mắm trong (chưa pha chế),
loại ngon, dầm ớt vào cho cay thì mới ngon.
•
Cá lóc kho: Cá làm sạch, cắt ra từng khứa, cho vào mẻ kho. Đây là
cách ăn đơn giản và tiện. Kho cá lóc cũng như kho các loại cá khác,
có thể kho khô hoặc kho nước. Nếu kho khô thì đểtiêu nhiều, còn
kho nước thì có thể đểvào vài trái ớt sừng trâu. Dùng các loại rau,
dưa leo, chuối chát… chấm ăn. Đặc biệt bằm xoài sống đểvào thì ăn
ngon vô cùng.
Mắm
Nói đến món ăn Nam Bộ không thể không đềcập đến món mắm. Bởi lẽ, món
mắm mà đặc biệt là mắm của Nam Bộ có rất nhiều loại, được làm bằng nhiều loại
thủy – hải sản khác nhau, có những cách chế biến, “muối” cũng khác nhau và màu
sắc, hương thơm cũng không giống nhau. Sự đa dạng này làm phong phú thêm thực
đơn trong bữa ăn của người Nam Bộ, không cao sang, cầu kỳ nhưng “ai đi xa cũng
nhớ nhiều”. Món mắm thật sự là một sáng tạo độc đáo của người Nam Bộ. Mắm
chủ yếu được chế biến từ cá, ngoài ra còn có mắm rươi, mắm còng, mắm tôm, ba
khía…
Do có nguồn lợi dồi dào từ thủy sản nên người Nam Bộ đã chế biến nên rất
nhiều loại sản phẩm, trong đó kỹ thuật chế biến mắm rất đa dạng và có nhiều loại,
và là đặc sản cùa từng địa phương gắn liền với tên gọi, như: mắm thái Châu Đốc,
mắm ruột cá Đồng Tháp, mắm ruốc Kiên Giang, Vũng Tàu… mắm còng, mắm
tôm chà Gò Công… Dường như các loại mắm đều gắn liền với một loài cá, bởi cá
nào cũng có thể làm mắm được. Có thể kể như: mắm cá lóc, mắm cá linh, mắm cá
trèn, mắm cá sặc… Tùy từng loại cá mà sản phẩm làm ra có mùi hương và v ị ngon
khác nhau. Đến công đoạn chế biến đểăn cũng có nhiều cách thật nhiều vẻ, nào là
mắm chưng cách thủy; bằm nhuyễn chưng với trứng, thị heo; mắm kho; lẩu mắm…
Các loại bánh và chè
Ẩm thực miền Nam rất phong phú và đa dạng các loại bánh dân gian: bánh tét
nhưn đậu, nhưn chuối, bánh tét nước tro nhưn ngọt, nay có thêm bánh tét lá cẩm
nhưn đậu, thịt mỡ, trứng muối, tôm khô đặc sản của Cần Thơ; bánh ít nhưn đậu,
nhân dừa, bánh lá dừa, bánh bông lan, bánh bò, bánh da lợn, bánh tráng nước cốt
dừa Bến Tre, bánh nếp phồng, ….
– Các món chè chè chuối, chuối chưng, chè bà ba, chè thưng, chè đậu, chè
khoai môn, chè táo xọn, chè đậu đỏ, bánh lọt, sương sa hột lựu, chè đậu xanh nước
dừa, chè đậu trắng, chè bưởi món chè đặc trưng của Cần Thơ,…Chè thường được
ăn nóng hay ăn nguội, vì miền Nam nắng nóng nên món chè đôi khi còn cho thêm
đá vào ăn cũng rất tuyệt.
• Trái cây
Cây trái miền Nam rất đa dạng và phong phú, là sản vật nổi tiếng với mùa nào trái
ấy; đi đâu cũng thấy hoa thơm, trái chín, vườn trái xum xuê, trĩu quả.
Hầu hết, các nhà ở miệt vườn Nam Bộ đều có trồng cây ăn trái, phổ biến nhất là
chuối. Chuối là loại trái cây có hương vị ngọt ngào, bổ dưỡng, luôn có mặt trên thị
trường. Chuối có nhiều loại: chuối già, chuối sáp, chuối sứ hay còn gọi là chuối
xiêm …
Cam cũng là loại trái cây nổi tiếng ở Nam Bộ gồm có Cam sành, Cam mật, cam
xoàn. Bên cạnh đó, một thứ trái cũng bốn mùa hiện diện là bưởi, như bưởi đường,
bưởi thanh, bưởi ổi, bưởi năm roi, bưởi da xanh, bưởi bánh xe…
Ngoài ra còn có các loại quít miệt vườn thơm ngon, tươi vàng với các loại quít
đường, quít ta, quít tiêu.
Nam Bộ còn nổi tiếng về Xoài: xoài cát Hòa Lộc, xoài thanh ca, xoài tượng, xoài
tứ quý.
Vú sữa Cần Thơ ngon nhất ở Nam Bộ, vú sữa có hai loại: trắng và tím, mọng nước,
ngọt ngào và quyến rũ đúng với tên gọi của nó.
Trái sabôchê no tròn, nước ngọt lịm, nhiều dinh dưỡng thì ở vùng Cái Mơn, Chợ
Lách, nơi được mệnh danh là “cái nôi” trái cây Nam Bộ.
•
Ở vùng đất Cà Mau, Long An, Bạc Liêu, Kiên Giang, Hậu Giang trái khóm
(thơm,dứa) lại lên ngôi. Đây là loại cây dễ trồng, nhưng giá trị xuất khẩu cao.
Giữa tháng ba âm lịch trở đi, có thể nói, Nam Bộ là mùa trái cây dồi dào nhất trong
năm. Những quả măng cụt màu đỏ nâu sẫm, khi cắt đôi, để lộ ra những múi nhỏ
màu trắng ăn có vị ngọt lẫn chút chua đậm đà mà hấp dẫn.
Cần Thơ nổi tiếng với dâu Hạ Châu, được trồng nhiều tại các nhà vườn để phục vụ
du lịch vì sự hấp dẫn của những chùm dâu sum xuê sau một vài đám mưa đầu mùa
hạ. Ngoài dâu Hạ Châu còn có các loại dâu xanh, dâu xiêm cũng rất thơm ngon và
mọng nước.
Sầu riêng là một loại trái cây đặc sản ở Nam Bộ, với vỏ xù xì đầy gai nhọn, nhưng
tỏa ra mùi thơm nức được liệt vào loại trái quý, giá rất đắt. Mùi vị sầu riêng nhiều
người không chịu được vì mùi thơm hơi nồng nhưng ai ăn được sẽ rất ghiền.
Mít cũng là loại trái cây thơm ngon không kém. Có rất nhiều giống mít khác nhau:
Mít tố nữ, mít nghệ, mít ướt, nay có thêm mít ruột đỏ đặc sản của Cần Thơ.
Ngoài ra, còn một loại trái cây nữa cũng không kém phần hấp dẫn, đó là nhãn, thứ
quả vừa thơm vừa ngọt. Quý nhất là nhãn Bạc Liêu, cơm dày hột nhỏ. Nay có thêm
giống nhãn xuồng bò, trái to, cơm dày, ít nước, vị ngọt thanh ăn rất ngon.
Nam Bộ đúng là nơi đất lành sinh trái ngọt, là vựa trái cây lớn nhất và phong phú
nhất của ViệtNam.
• Thức uống
Thức uống của người miền Nam cũng rất phong phú và có nhiều điểm khác biệt
với các miền khác. Do thời tiết nắng nóng nên người Nam bộ thường uống trà đá.
Trà đá của người miềnNam thường đá nhiều, nước đun sôi pha thêm tí nước trà đặc
cho thơm và được uống trong ly cối lớn. Ngoài trà đá còn có các loại nước nấu từ
các loại cây, hoa của vùng đồng bằng Nam bộ này như nước rễ tranh, mía lau, lá
huyết dụ, bông ngò, lá thuốc dòi, râu bắp, các loại đậu rang lên cho thơm,… hay
các loại rong biển nấu lấy nước thêm đường phèn vào để có độ ngọt thanh cho loại
nước này. Các loại nước đá chanh, trà đá chanh đường, sô đa chanh đường, chanh
muối, mước mía ép, nước đá me, rau má, nước đậu xanh rau má hay nước ép trái
cây, sinh tố trái cây…. cũng được người dân Nam Bộ ưa thích.
3.4.
Vấn đề xúc tiến nhằm nâng cao hiệu quả của văn hóa ẩm thực trong
phát triển du lịch
Để triển khai và xúc tiến nhằm nâng cao hiệu quả của văn hóa ẩm thực trong
phát triển du lịch rất cần có sự phối hợp hành động của các chủ thể trong ngành du
lịch, trong đó cơ quan quản lý nhà nước về du lịch cả trung ương và địa phương
đóng vai trò làm đề
i u kiện tiên quyết. Cụ thể, cần sớm xây dựng đề án quảng bá
xúc tiến thương hiệu du lịch Việt Nam thông qua sản phẩm ẩm thực. Hướng tới đề
án trên, trước mắt cần nghiên cứu thị trường, đồng thời tiến hành rà soát, hệ thống
hóa lại những món ăn tiêu biểu của dân tộc Việt Nam, đặc trưng cho các vùng
miền, qua đó lựa chọn tích hợp vào sản phẩm du lịch, các công cụ quảng bá xúc
tiến du lịch; có biện pháp khôi phục những món ăn, ẩm thực tiêu biểu 3 miền ở cả
trong và ngoài nước; tôn vinh những đầu bếp tiêu biểu trong chế biến các món ăn
Việt về tay nghề cũng như nỗ lực gìn giữ và truyền bá ẩm thực Việt ở trong nước
và quốc tế; quảng bá rộng rãi ẩm thực Việt ra nước ngoài thông qua tổ chức các sự
kiện ẩm thực ở trong nước, trên từng địa phương, các hoạt động xúc tiến quảng bá
du lịch, ngày văn hóa Việt Nam ở nước ngoài, các sự kiện du lịch quốc tế tổ chức
tại một số nước là thị trường trọng để
i m của Du lịch Việt Nam, đặc biệt là nơi có
nhiều cộng đồng người Việt Nam sinh sống, học tập và làm việc; tăng cường đầu tư
kinh phí cho công tác quảng bá xúc tiến, bao gồm cả những hoạt động và sự kiện
ẩm thực. Làm tốt công tác trên, nhận thức và ấn tượng về những tinh hoa của văn
hóa ẩm thực Việt Nam ngày càng sâu đậm, được khách du lịch quốc tế gần xa yêu
thích và ngưỡng mộ; góp phần quan trọng vào việc củng cố và khẳng định vị trí
vững chắc của thương hiệu du lịch Việt Nam trên bản đồdu lịch thế giới, thúc đẩy
gia tăng lượng khách quốc tế đến Việt Nam.
Phần 3: KẾT LUẬN
Đất nước Việt Nam ta đã trải qua hang nghìn năm lịch sử, có lúc đau thương
nhưng cũng không thiếu những tháng ngày hào hùng, oanh liệt. Trải suốt thời gian
ấy, dân tộc ta đã không ngừng đúc kết, vun đắp cho riêng mình một nền văn hóa
2. Giới thiệu chung về văn hóa ẩm thực Việt Nam3. 2.1. Khái niệm văn hóa ẩm thực2. 2. Bản sắc văn hóa ẩm thực Việt Nam2. 2.1. Quan niệm của người Việt Nam về ẩm thực2. 2.2. Ẩm thực Việt Nam – m ột nền ẩm thực nhiều mẫu mã và đa dạngNét đẹp ẩm thực ba miền Bắc – Trung-Nam3. 1. Ẩm thực miền Bắc3. 1.1.3. 2. Ẩm thực miền Trung3. 2.1.3. 3. Một vài món ăn đặc trưng ở miền TrungẨm thực miền Nam3. 3.1.3. 4. Một vài món ăn đặc trưng ở miền BắcMột vài món ăn đặc trưng ở miền NamVấn đề triển khai nhằm mục đích nâng cao hiệu suất cao của văn hóa ẩm thựctrong tăng trưởng du lịchPhần 3 : K ẾT LU ẬNPhần 4 : PH Ụ L ỤC ẢNHPhần 5 : TÀI LI ỆU THAM KH ẢOPhần 1 : M Ở ĐẦ UGi ới thiệu : trong kho tàng văn hóa ẩm thực, Việt Nam là quê nhà của nhiều món ănngon, từ những món ăn dân giã trong ngày thường đến những món ăn cầu kỳ đểphục vụ tiệc tùng và cung đình đều mang những vẻ riêng. Mỗi vùng miền trên đấtnước lại có những món ăn khác nhau và mang ý nghĩ riêng không liên quan gì đến nhau tạo nên bản sắccủa từng dân tộc bản địa. Nó phản ánh truyền thống cuội nguồn và đặc trưng của mỗi dân cư sinhsống ở từng khu vực. Không chỉ vậy thời nay, ẩm thực còn đóng một vai trò hếtsức quan trọng so với ngành du lịch nói Việt Nam nói riêng và so với sự pháttriển quốc gia nói chung. 1. Lí do chọn đề tài1. 1. Lí do khách quanVăn hóa ẩm thực là nét văn hóa tự nhiên hình thành trong đời sống. Nhất làđối với người Việt Nam, ẩm thực không chỉ là nét văn hóa về vật chất mà còn làvăn hóa về ý thức. Qua ẩm thực người ta hoàn toàn có thể hiểu được nét văn hóa thể hiệnphẩm giá con người, trình độ văn hóa của dân tộc bản địa với những đạo lý, phép tắc, phong tục trong cách nhà hàng siêu thị … Tuy nhiên mỗi vùng miền trên quốc gia lại cónhững món ăn khác nhau và mang ý nghĩa riêng không liên quan gì đến nhau tạo nên truyền thống của từng dântộc. Nó phản ảnh truyền thống cuội nguồn và đặc trưng của mỗi dân cư sinh sống ở từng khuvực. Vì vậy tìm hiểu và khám phá về ẩm thực của một số ít dân tộc bản địa trong hội đồng những dân tộcViệt Nam không chỉ đểbiết về đặc thù những món ăn mà trải qua đó để hiểu vềtín ngưỡng, văn hóa và những nét rực rỡ tiêu biểu vượt trội c ủa m ỗi l ớp dân cư. Ẩm th ựctạo nên mùi vị của dân tộc bản địa Việt Nam, lịch sử vẻ vang đã hình thành nên ba miền với nétvăn hóa riêng và cũng chính vì vậy nên đã hình thành cho mỗi miền của đất nướcmột nét độc lạ và đặc trưng trong ẩm thực của ba miền. Hơn thế nữa, Trong xuthế tăng trưởng phong phú trong nhu yếu du lịch, ẩm thực không còn chỉ đóng vai trò làyếu tố tương hỗ, ship hàng cho nhu yếu của khách về siêu thị nhà hàng đơn thuần mà đã trởthành mục tiêu của những chuyến du lịch. Xuất phát từ lý do đó, trong những nămgần đây văn hoá ẩm thực đã trở thành một trong những yếu tố được khai thác và sửdụng trong hoạt động giải trí triển khai lôi cuốn khách du lịch. 1.2. Lí do chủ quanLà một công dân Việt Nam, sinh ra và lớn lên trên mảnh đất miền trung tuycằn cỗi nhưng mặn mà, bình dị và chân thực. nhưng tôi vẫn chưa hiểu hết đượcgiá trị nhân văn cũng như giá trị niềm tin của nền ẩm thực nước nhà – một nền ẩmthực vô cùng phong phú và đa dạng và rực rỡ trải dài từ Bắc đến Nam với rất nhiều món ănngon. Tuy sinh ra trên quốc gia mình nhưng tôi chỉ mới được nhìn qua sách báo, tạp chí về những món ngon của mỗi miền, điều nay thực sự đã tạo cho tôi một sựhiếu kì và muốn tìm hiểu và khám phá về đặc thù ẩm thực riêng của mỗi miền trên đất nướcmình. Mỗi vùng miền trên quốc gia với những đặc thù địa hình và khí hậu riêngđã sinh ra được những con người, họ tạo nên được rất nhiều món ăn ngon cho dântộc. Hơn thế nữa là một sinh viên ngành du lịch tôi càng phải hiểu rõ hơn về ẩmthực của dân tộc bản địa mình, của từng vùng miền trên quốc gia để sau này giới thiệucho khách du lịch, cho bè bạn quốc tế về những món ăn ngon, cũng như nhữngtinh hoa ẩm thực của dân tộc bản địa mình cho quốc tế biết đến con người và đát nướcViệt Nam không riêng gì với một lịch sử vẻ vang hào hùng mà còn được biết đến với nhữngmón ăn ngon, đậm đà truyền thống dân tộc bản địa. Điều này sẽ Giao hàng cho tôi rất nhiều tronghọc tập cũng như việc làm trong tương lai. 2. M ục tiêu nghiên c ứu v ấn đềĐất nước Việt Nam to lớn trải dài từ Bắc vào Nam với vô vàn món ăn. Cólẽ chính vì sự phong phú và đa dạng và phong phú về số lượng như vậy nên ít ai hoàn toàn có thể biết hết, hiểu hết được toàn bộ ý nghĩa những món ăn cũng như nguồn gốc lịch sử dân tộc của nhữngmón ăn đó. Chính thế cho nên qua bài tiểu luận này tôi kỳ vọng bạn đọc sẽ hiểu rõ hơnvề những đặc thù về ẩm thực của ba miền Bắc – Trung – Nam cũng như sự đặc sắctrong cách chế biến và ý nghĩa to lớn của chúng so với đời sống của dân cư mỗimiền trên quốc gia. Hơn thế nữa, họ sẽ hiểu hơn về con người cũng như phong tụctập quán trải qua cách siêu thị nhà hàng và chế biến món ăn, bởi trong những món ăn đólà cả một quy trình và biết bao công sức của con người, tận tâm của những đầu bếp, nhữngnghệ nhân. Không những thế, tôi kỳ vọng rằng không những bạn hữu trong nướcmà còn cả bè bạn năm châu đều biết đến nền ẩm thực Việt Nam với những ấntượng tuyệt vời. và đó cũng là một trong những điều kiện kèm theo to lớn đểthu hút kháchdu lịch đến với Việt Nam. 3. L ịch s ử nghiên c ứu v ấn đềẨm thực Việt Nam nói chung và ẩm thực ba miền nói riêng đã có rất nhiềucông trình điều tra và nghiên cứu và đạt được nhiều thành tựu to lớn. Nhiều tác có quy mômà tất cả chúng ta hoàn toàn có thể kể tên như : “ Thành Phố Hà Nội 36 phố phường ” của Thạch Lam, “ Miếng ngon Thành Phố Hà Nội, miếng lạ miền Nam ” của Vũ Bằng, “ văn hóa ẩm thực vàmón ăn Việt Nam ” của Xuân Huy, “ truyền thống ẩm thực Việt Nam ”, “ độc lạ ẩmthực Thăng Long Thành Phố Hà Nội ”, “ độc lạ ẩm thực Huế ” của Nguyễn Nhã, “ văn hóaẩm thực trong tiệc tùng truyền thống lịch sử Việt Nam ” của Nguyễn Quang Lê, “ Đặc sảnba miền ” của Băng Sơn ông có viết về những món ngon của TP.HN, Huế, SàiGòn. Còn trong cuốn “ TP.HN 36 phố phường ” thì tác giả nói tới những mónngon gắn liền với tên phố và địa chỉ để hành khách hoàn toàn có thể tới. Đặc biệt, Mai Khôi làcây bút xuất sắc viết về nghành ẩm thực. Ông khám phá về ẩm thực từ rất lâu vớinhiệt huyết và cả tâm hồn ông đã viết nên rất nhiều tác phẩm như : “ hương v ị quêhương ”, “ văn hóa ẩm thực Việt Nam – những món ăn miền Bắc ”, “ văn hóa ẩm thựcViệt Nam – những món ăn miền Nam ”, “ văn hóa ẩm thực Việt Nam – những món ănViệt Nam ”. Tuy nhiên thời nay, đời sống có nhiều đổi khác, nhu yếu thưởngthức của con người cũng biến hóa theo, vì thế đã sinh ra 1 số ít chuyên luận tạpchí nghiên cứu và điều tra về ẩm thực với mục tiêu giữ gìn truyền thống vốn có, mặt khác làm đadạng thêm sắc tố của nền ẩm thực Việt Nam. Hay thời nay khi mạng lưới côngnghệ thông tin văn minh đã góp thêm phần tiếp thị hình ảnh những món ăn trên khắp cảnước. Trong bài tiểu luận này tôi tập trung chuyên sâu điều tra và nghiên cứu về nét đặc trưng về ẩm thựccủa ba miền Bắc – Trung – Nam. Hi vọng sẽ góp thêm phần làm cho người đọc hiểu biếtrõ hơn về ẩm thực của mỗi miền trên quốc gia. 4. Phạm v i nghiên cứu và điều tra. Trong bài tiểu luận này tập trung chuyên sâu nghiên cứu và điều tra về nét đẹp ẩm thực trên cả bamiền : miền Bắc, miền Trung và Miền nam. Phần 2 : N ỘI DUNG1. Tên đề tài “ Nét đẹp v ăn hóa ẩm th ực ba mi ền B ắc, Trung, Nam ” 2. Khái quát chung v ề đặc thù v ăn hóa ẩm th ực Vi ệt Nam2. 1. Khái niệm v ề v ăn hóa ẩm th ựcTheo “ Từ điển Việt Nam thông dụng ” thì ẩm thực chính là ẩm thực ăn uống, là hoạtđộng để cung ứng nguồn năng lượng cho con người sống và hoạt động giải trí. chính vì thế nóiđến văn hóa ẩm thực là nói đến việc nhà hàng và những món nhà hàng cùng với lịch sửhình thành của nó. Cùng với sự tăng trưởng của xã hội loài người thì hoạt động giải trí ghệ thuật trong ănuống hay ẩm thực cũng biến hóa theo hướng tích cực với sự phong phú của những mónăn và cách chế biến. Trước đây, những món ăn chỉ cung ứng nhu yếu cơ bản của conngười là ăn no nhưng giờ đây đời sống văn minh thì nhu yếu của con người cũngthay đổi, con người chăm sóc đến thẩm mĩ của món ăn, ăn bằng mắt, bằng mũi vàăn bằng toàn bộ những giác quan. Vì thế, những món ăn đò uống được chế biến một cáchđặc sắc hơn, cầu kì hơn và nấu ăn cũng như chiêm ngưỡng và thưởng thức những món ăn trở thành mộtnghệ thuật. Ẩm thực không ch ỉ là sự tiếp cận về góc nhìn văn hóa vật chất mà cònchứa trong đó văn hóa ý thức. Theo nghĩa rộng, “ Văn hóa ẩm thực ” là một phần văn hóa trong tổng thể và toàn diện, phức thể những đặc trưng diện mạo về vật chất, ý thức, tri thức, tình cảm … khắchọa 1 số ít nét cơ bản và rực rỡ của một hội đồng, mái ấm gia đình, làng xóm, vùngmiền, vương quốc … nó chi phối một phần không nhỏ trong cách ứng xử và giao tiếpcủa một hội đồng, tạo nên đặc trưng của hội đồng ấy. Theo nghĩa hẹp, “ văn hóa ẩm thực ” là những tập quán và khẩu vị của conngười, những ứng xử của con người trong nhà hàng siêu thị ; những tập tục kiêng cự trongăn uống, những phương pháp chế biến, bày biện trong siêu thị nhà hàng và cách thưởngthức món ăn. Văn hóa ẩm thực là một biểu lộ quan trọng trong đời sống con người, nócũng hàm chứa những ý nghĩa triết lí, nhân văn thâm thúy. 2.2. Bản sắc v ăn hóa ẩm th ực Vi ệt Nam2. 2.1. Quan niệm c ủa ng ười V i ệt Nam v ề ẩm th ực. Văn hóa ẩm thực là một biểu lộ quan trọng trong đời sống con người, nócũng hàm chứa những ý nghĩa triết lí. Đối với dân tộc bản địa Việt Nam thì cái ăn là cáivăn hóa, nó có một ý nghĩa thâm thúy và tương quan đến mọi mặt của đời sống xã hội. người Việt cho rằng “ có thực mới vực được đạo ”, coi đó là một khởi đầu quantrọng, là tiền đềđểcon người bước vào những nghành hoạt động giải trí khác. Việc ăn làviệc quan trọng của mỗi người, kể cả trời, đất, thánh thần đều phải tôn trọng việcăn. Điều này biểu lộ ở việc người Việt biểu lộ sự tôn thờ so với thần thánhthông qua việc thờ cúng. Những thức ăn trong thờ cúng luôn chiếm vị trí quantrọng số một ; người trần gian, con cháu trong nhà không được phép ăn trước nếunhư chưa thờ cúng tổ tiên, thần thánh. Những đồăn, thức uống trong thờ cúngđược nấu rất là cẩn trọng, chu đáo và tươm tất, bày biện sang trọng và quý phái và thái độthành kính trong cử chỉ, lời nói và ánh mắt. Đối với người Việt Nam siêu thị nhà hàng có ý nghĩa nội tại trong mọi hoạt động giải trí đờisống, trong mọi hoạt động và sinh hoạt vật chất và tình cảm của con người, biểu lộ trong quanniệm ăn đúng, ăn ngon và ăn đẹp. người Việt tương đối hiếu khách, dù điều kiệnvật chất còn thiếu thốn nhưng trong bữa cơm có những vị khách thì mâm cơmcũng trở nên thịnh soạn hơn. Bữa ăn chính là bộc lộ sự cộng cảm của nhữngngười ngồi ăn với nhau. Mặc dù không phân loại quý phái, nhưng khi ngồi ăn, những vị trí bên mâm cơm, bàn ăn cũng biểu lộ vị trí, ngôi thứ, sự tôn trọngtrong mái ấm gia đình hay trong xã hội. Ngồi bên nồi cơm hay việc bổ trợ thức ăn chobữa ăn thường là người phụ nữ, người nội trợ chính trong mái ấm gia đình Việt. Và dù aicũng vậy, khi ngồi vào bàn ăn thì luôn có ý thức nhường nhịn nhau trong khi ăn : ăn trông nồi ngồi trông hướng là một tiêu chuẩn bắt buộc so với mỗi người Việt. Cũng như nhiều nước khác trong khu vực, ẩm thực Việt Nam biểu lộ sự hàihòa, cân đối giữa âm và dương, vạn vật thiên nhiên và con người. do đó đồ ăn thứcuống của người Việt thường có công dụng hỗ trợ nâng cao sức khỏe thể chất và chữa một sốbệnh thường thì như : cảm cúm, ho, những bệnh có tương quan đến dạ dày … Cuối cùng khi chuẩn bị sẵn sàng món ăn, người đầu bếp phải sắp xếp sao cho nguyênliệu vừa đủ với số lượng khách, những dụng cụ nấu ăn như nồi, niêu, xong, chảo, bát, đũa, thìa, dĩa, dao, thớt phải được vễ sinh thật sạch. Nấu món nào ăn trước, mónnào ăn sau phải phải chăng, thứ tự, thái độ nấu vui tươi, hứng khởi. Văn hóa ẩm thựcngày càng được phần đông quần chúng và những chuyên viên văn hóa quan tâm đến. vàkhi đời sống mọi người được nâng lên thì ẩm thực cũng là một tiêu chuẩn đánh giáchất lượng đời sống. 2.2.2. Ẩm th ực V i ệt Nam – m ột n ền v ăn hóa ẩm th ực nhiều mẫu mã và đadạngẨm thực Việt Nam mang nh ững nét văn hóa riêng v ới ba mi ền B ắc, Trung vàNam. Mỗi vùng miền có những món ăn mang đậm nét địa phương, ch ịu nhiều ảnhhưởng của tập quán dân cư và những điều kiện kèm theo tự nhiên đa dạng và phong phú, tạo ra sự đa dạngcho văn hoá ẩm thực của cả nước. Văn hóa ẩm thực Việt Nam còn được hình thành và tăng trưởng gắn v ới sự pháttriển của xã hội. Món ăn Việt ngày này, do đã trải qua quy trình tăng trưởng lâu dàicủa lịch sử dân tộc dân tộc bản địa rất phong phú, hài hòa. Có những món ăn thuần Việt, có nhữngmón ăn ảnh hưởng của những nền văn hóa khác. Trong quy trình tiến độ lúc bấy giờ, toàn cảnh toàn thế giới hóa và hội nhập kinh tế tài chính quốc tếđang diễn ra sâu rộng, văn hóa ẩm thực Việt lại càng có nhiều điều kiện kèm theo để tiếpbiến và tăng trưởng. Văn hóa ẩm thực được cấu thành cơ bản bởi những yếu tố hữu hìnhvà vô hình dung. Trong đó, hình thức bộc lộ mang tính phi vật chất của hoạt động giải trí ẩmthực là : những nghi thức, phương pháp triển khai hoạt động giải trí ẩm thực ; phương pháp lựachọn nguyên vật liệu, gia v ị trong chế biến ; phương pháp sắp xếp c ơ cấu bữa ăn trongngày … Yếu tố hữu hình bao gồm những món ăn thức uống đã hình thành và phát triểnvà định hình với những đặc thù rất phong phú và nhiều mẫu mã. Trong mạng lưới hệ thống cácmón ăn Việt Nam sống sót bốn loại chính : – Món ăn thuần Việt, những món ăn này mặc dầu trải qua nhiều biến cố thăngtrầm của lịch sử vẻ vang, vẫn không biến hóa, mang đậm nét Việt Nam. – Món ăn ảnh hưởng tác động của văn hóa ẩm thực Trung Quốc : phương pháp chế biến sửdụng nhiều mỡ hoặc dầu thực vật đã ảnh hưởng tác động can đảm và mạnh mẽ từ Trung Quốc, cách điềuvị đặc trưng ( dùng những vị thuốc bắc ). – Món ăn ảnh hưởng tác động của văn hóa ẩm thực Pháp : phương pháp chế biến có sử dụngcác loại sốt. Các món ăn được sử dụng nhiều loại sốt và nước dùng : sốt chua ngọt, sốt chua cay, nước dùng trong. – Món ăn ảnh hưởng tác động của văn hóa ẩm th ực Ấn Độ và những n ước Khu vực Đông Nam Á doch ịu tác động ảnh hưởng của những gia v ị có ngu ồn g ốc từẤn Độ. Các nét văn hóa ẩm thực, đặc biệt quan trọng là phương pháp chế biến, điều v ị và những giátrị về mặt cảm quan được người Việt tiếp thu và biến hóa cho tương thích v ới nhucầu, điều kiện kèm theo sống và sở trường thích nghi. Mặc dù văn hóa ẩm thực ch ịu tác động ảnh hưởng từ TrungQuốc nhưng món ăn không có quá nhiều chất béo trong chế biến. Mặt khác, vănhóa ẩm thực Việt chịu tác động ảnh hưởng của văn hóa ẩm thực Pháp nhưng không quá cầuk ỳ trong việc sử dụng những loại s ốt nh ư ng ười Pháp ; ch ịu ảnh h ưởng c ủa Ấn Độ, xứ sở của những nụ cười thân thiện … nhưng vị của món ăn không quá cay … Món ăn Việt Nam được chế biến theo nguyên tắc hòa giải âm khí và dương khí. Đặcđiểm này được Trần Ngọc Thêm cho rằng người Việt Nam phân biệt thức ăn theonăm mức âm khí và dương khí, ứng với ngũ hành : Hàn ( Thủy ), nhiệt ( Hỏa ), ôn ( Mộc ), lương ( Kim ) và bình ( Thổ ). Để tạo ra sự hòa giải âm khí và dương khí đó, có vai trò của nhiều loạigia vị khác nhau : chua, cay, mặn, ngọt và những loại rau gia vị khác. Các món ăn miền Bắc có v ị tương đối hài hoà giữa cay, chua, mặn, ngọt. Mónăn miền Trung có vị cay nóng và mặn. Món ăn miền Nam có v ị cay, ngọt và béongậy của nước cốt dừa. Các đặc thù độc lạ này do ảnh hưởng tác động của khí hậuvùng miền. Cách thức ăn uống của người Việt cũng có những độc lạ so với hầu hết cácquốc gia trên quốc tế. Đặc điểm ăn chung mâm, sử dụng nước chấm chung, ănbằng đũa … đã biểu lộ cách thức ăn uống mang đậm nét truyền thống cuội nguồn văn hóa dântộc. Các loại đồuống cũng rất phong phú nhiều mẫu mã, biểu lộ theo mùa, gắn với hiệntrạng thời tiết và với những điều kiện kèm theo về vạn vật thiên nhiên và phong tục tập quán theotừng vùng miền. 3. Nét đẹp ẩm thực ba mi ền B ắc, Trung, NamẨm thực Việt Nam có đặc thù khác nhau theo từng vùng, mặc dầu trong từngvùng này ẩm thực của những tiểu vùng cũng biểu lộ nét đặc trưng. 3.1. Ẩm th ực mi ền B ắcCó thể nói Bắc bộ là chiếc nôi của văn hóa ẩm thực trên quốc gia Việt Nam. Và lịch sử vẻ vang đã chứng tỏ điều đó, trong văn hóa dân gian đã lưu truyền tự baođời câu ca dao : “ ăn Bắc mặc Nam ” và thực sự là như vậy. Suốt quy trình Namtiến, ông cha ta đã giữ cái hồn của nền nhà hàng siêu thị Việt Nam và không ngừng sángtạo, thích nghi điều kiện kèm theo ở vùng đất mới, đem lại sự phong phú, rực rỡ cho mốimón ăn. Các vùng châu thổ phía Bắc là nơi tổ tiên ta s ớm định cư truyền kiếp, mọi cáiăn, cái mặc đều được sàng lọc, đúc rút để trở thành chuẩn mực của làng, củanước. Gia v ị là h ương hoa tinh tuý c ủa ẩm th ực. Ẩm th ực mi ền B ắc còn đặc tr ưngvới cách phối trộn gia v ị không quá cay, quá ngọt hay quá béo. Sự tài tình trongviệc phối hợp gia vị khi chế biến món ăn của người dân miền Bắc không nhữnggiúp làm mất đi mùi tanh của thức ăn mà còn làm tăng thêm hương v ị của mónăn. Các loại gia vị trong ẩm thực miền Bắc rất đa dạng chủng loại và riêng không liên quan gì đến nhau cho từngmón ăn, gồm có nhiều loại rau thơm như tía tô, hành cho bát cháo giải cảm ; thìalà cho món riêu cá hay bún chả cá Lã Vọng ; húng Láng là loại rau có được mùi v ịđặc trưng, lá mơ ăn kèm thịt chó ; gừng, riềng luôn có trong mẻ cá kho ; lá chanhnon xanh mởn được xắt nhuyễn và rắc trên d ĩa gà luộc ; những gia v ị lên men nhưmắm tôm, mẻ hoặc giấm bổng là gia v ị không hề thiếu của món bún riêu, búnốc. và nhìn chung, do truyền thống lịch sử rất lâu rồi có nền nông nghiệp nghèo nàn, ẩmthực miền Bắc trước kia ít thông dụng những món ăn với nguyên vật liệu chính là thịt, cá. Các loại thức uống trong ẩm thực miền Bắc cũng khá phong phú và đa dạng với nướcchè ( trà ) tươi được bán ở từng gốc đa đầu làng, từng góc ngõ phố. Cô hàng chèxinh xắn, giọng nói thỏ thẻ ngọt ngào luôn là đềtài muôn thuở cho những thi sĩ miềnBắc. Hàng chè tuy nhỏ nhưng có đầy đủcác thức uống và những món hút đặc trưngcủa miền Bắc : nước chè tươi được đựng trong ấm đun nhẹ trên nhà bếp than hồnghoặc được ủ trong chiếc bình tích, ấm nước vối mát lành từ những nụ và lá vốiphơi khô, chai rượu nếp sủi tăm, lọ kẹo lạc ( đậu phộng ) hoặc kẹo vừng ( mè ), mấyđếi u thuốc vấn bằng lá, chiếc đếi u cày và hộp thuốc sợi để hút thuốc lào. Nhiều người nhìn nhận cao Ẩm thực Thành Phố Hà Nội một thời, cho rằng nó đại diện thay mặt tiêubiểu nhất của tinh hoa ẩm thực miền Bắc Việt Nam với những món phở, búnthang, bún chả, những món quà như cốm Vòng, bánh cuốn Thanh Trì v.v. và gia vịđặc sắc như tinh dầu cà cuống, rau húng Láng. 3.1.2. Một vài món ăn đặc trưngở miền Bắc Phở Hà NộiPhở là một món ăn truyền thống cuội nguồn của Việt Nam, cũng hoàn toàn có thể xem là một trongnhững món ăn đặc trưng nhất cho ẩm thực Việt Nam. Thành phần chính của phởlà bánh phở và nước dùng ( hay nước lèo theo cách gọi miền Nam ) cùng vớithịt bò hoặc gà cắt lát mỏng dính. Ngoài ra còn kèm theo những gia vị như : tương, tiêu, chanh, nước mắm, ớt, … Những gia vị này được thêm vào tùy theo khẩuvị của từng người dùng. Phở thường thì dùng làm món ăn đểi m tâm, hoặc ăn tối. Ở những tỉnh phía Nam Việt Nam, phở được bày biện với những thành phần phụ gọilà rau thơm như hành, giá và những lá cây rau mùi, rau húng, trong đó ngò gai làloại lá đặc trưng của phở. Phở thường là phở bò, nhưng cũng có phở gà, phở heo, phở tôm, … Nước dùng nói chung được làm bằng việc hầm xương bò, thịt dùng cho món phở làthịt bò hoặc gà và gia vị gồm có quế, hồi, gừng, thảo quả, đinh hương, hạt mùi, … ” Bánh phở “, theo truyền thống cuội nguồn, được làm từ bột gạo, tráng thành tấm mỏng mảnh rồi cắtthành sợi. Phở luôn phải ăn nóng mới ngon, tuy nhiên, đểcó được những bát phởngon còn tùy thuộc vào kinh nghiệm tay nghề và tuyệt kỹ truyền thống lịch sử của nghề nấu phở. Từ những năm 1930 lại đây, phở đã tới đỉnh điểm của văn hóa ẩm thực Việt Namvới nghệ thuật và thẩm mỹ lóc thịt, hầm xương và gia giảm gia vị : thảo quả, quế chi … thànhmón đặc sản nổi tiếng của đất Thành Phố Hà Nội : ” phở TP.HN “. XôiXôi Thành Phố Hà Nội có một phong vị riêng mà không trùng với bất kỳ xôi ở nơi nàokhác. Mỗi loại xôi có một mùi vị khác nhau và được ăn kèm với những loại thức ănkhác nhau. Chẳng hạn như xôi trắng ăn kèm với ruốc, thịt kho tàu, giò chả, lạpxường vừa thơm, vừa mềm. Xôi gấc có vị ngọt được ăn kèm với chả mỡ. Xôi lạc, xôi đỗ xanh ăn kèm với vừng và ruốc. Còn xôi xéo, chắc như đinh phải có thêm đậuxanh xắt lát mỏng dính và trên bát có hành phi thơm vàng ngậy … Thật ra, việc nấu xôi cũng chẳng mấy khó khǎn và bất kể ai cũng nấu được. Chẳnghạn như muốn nấu xôi đậu xanh, chỉ cần chọn loại gạo nếp cái hoa vàng, ngâmgạo, đậu xanh từ tối hôm trước, để qua đêm cho mềm. Sau đó, vo gạo, đãi đậu thậtkỹ rồi trộn đều. Cho thêm một chút ít muối, xóc lẫn vào gạo, đậu rồi đổ vào chõ đồcho đến khi hạt gạo dẻo trong và hạt đậu nở bung là được. Riêng xôi gấc, thay vìcho muối, người nấu cần cho thêm đường. Trong những loại xôi, xôi xéo được coi làkhó nấu nhất. Sau khi xôi chín, người nấu phải xới xôi cho tơi, để nguội rồi trộnvới đậu xanh nấu chín. Đến lúc ăn xôi, phải xắt mỏng dính nắm đậu xanh đã được đồchín, thêm chút mỡ nước, hành phi vàng thơm phủ lên trên. Khi đó, bát xôi xéo củasẽ có được vị ngọt của gạo nếp, vị bùi của đậu xanh, vị béo của mỡ nước và vịthơm của hành phi, ăn ngon tuyệt. Bánh cuốn Thanh TrìBánh cuốn Thanh Trì được tráng một cách khôn khéo, người ta tráng bánh rấtmỏng, bánh có màu trắng trong, dẻo và thơm. Chất liệu hầu hết đểlàm bánh cuốnlà gạo, gạo được xay hoặc xát ra hoà cùng với một lượng nước vừa phải. Bánhcuốn thường thường được tráng trên miếng vải trắng, viền được làm bằng tre, phủlên nồi nước nóng, nước ấy phải luôn sôi và nhiệt độphai bảo vệ ở 100 độC mớicó thể làm chín bột gạo. Người làm bánh cho từng môi bột nhỏ vào trên tấm vảitrắng ấy, láng mỏng dính rồi đậy vung lại khoảng chừng 2 phút bánh chín đặt một thanhtre nhỏ vào một đầu đểcho bánh dính lại, sau đó cuộn một vòng rồi trảm tấm bánhra bàn, cắt làm đôi và cuộn lại. Bánh cuốn Thanh Trì có những loại khác nhau, thườnglà loại không nhân, người ta chỉ xoa một lần mỡ phi hành, hành phải là hành látươi mới đúng chất. Cũng có khi người ta làm bánh có nhân, nhân bánh có nhiềuloại : bánh cuốn nhân hành, bánh cuốn nhân tôm bóc nõn giã bông, bánh cuốn nhânthịt mà thường được làm bằng thịt băm với mộc nhĩ, nấm hương, hành đã xào chínvà cho thêm chút hồ tiêu đểtăng thêm vị ngon và mùi mê hoặc. Nước chấm bánhcuốn được pha chế không quá cầu kỳ, nhưng phải làm nhiều lần lắm người ta mớicó thể ước đạt được thế nào là ngon. 3.2. Ẩm thực miền TrungTrong kho tàng ẩm thực miền Trung phong phú và rực rỡ, không riêng gì vậy đặcsản miền Trung cũng nhiều vô kể, mỗi vùng, mỗi miền đều có những nét tinh tếmang theo niềm tự hào riêng. Ẩm thực miền Trung được phát minh sáng tạo, góp nhặt từ sựgian khổ, khó nghèo của từng vùng đất khô cằn nhưng vẫn mang hơi thở Việt vàđược lưu truyền ra cả mọi miền quốc gia. Vì vậy mà người miền Trung đã hìnhthành nên một vùng văn hóa ẩm thực miền Trung truyền thống cuội nguồn vô cùng phongphú, phong phú và rực rỡ. Nói đến ẩm thực miền Trung là nói đến cái bình dị, dân dã nhưng manghương vị rất riêng không lẫn vào đâu được. Nhiều thực khách đã rất ngỡ ngàng vàxuýt xoa khi được chiêm ngưỡng và thưởng thức những món bún thang, bún chả, bún ốc TP. Hà Nội, mỳ Quảng và nhất là, bánh đa cua Hải Phòng Đất Cảng. Chính sắc tố đẹp mắt của gạchcua, bánh đa, màu xanh mướt của lá lốt, rau muống, hành lá, màu đỏ tươi nơi tráiớt và vàng rộm của hành khô tích hợp với mùi vị thơm ngon, béo ngậy của cuađồng đã làm say lòng thực khách khi có dịp được chiêm ngưỡng và thưởng thức. Với lối ẩm thực riêng mang sắc thái đặc trưng của mỗi vùng đất, ẩm thựcmiền Trung có sự hoà trộn giữa cái chung, cái riêng là yếu tố tạo ra sự phong cáchẩm thực miền Trung vô cùng đa dạng và phong phú, phong phú và rất là tinh xảo. Trong ẩm thực miền Trung, người miền Trung lại ưa dùng những món ăn có vịđậm hơn, nồng độ mạnh. Tính rực rỡ bộc lộ qua mùi vị đặc biệt quan trọng, nhiều móncay hơn đồ ăn miền Bắc và miền nam. Màu sắc được phối trộn đa dạng chủng loại, rực rỡ tỏa nắng, thiên về màu đỏ và nâu sậm. Ẩm thực miền Trung nổi tiếng với mắm tôm chua, những loại mắm ruốc. Ẩm thực cung đình Huế với phong thái ẩm thực hoàng giakhông chỉ rất cay, rất nhiều sắc tố mà còn chú trọng vào số lượng những món ăn, cách bày trí món. Nhiều nguyên vật liệu như mắm ruốc, nghệ, sả, được sử dụng trong món ăn đó làđặc trưng của những món ăn của ẩm thực miền Trung. Đơn giản vậy đó mà không ítngười đã ghiền cái mùi vị quê mùa, dân dã ấy của những món ăn này. Ai có dịp ghé qua và chiêm ngưỡng và thưởng thức mùi vị đậm đà, dân dã của ẩm thực miềnTrung không thể nào không nhắc đến những món ăn nổi tiếng như : Bánh bột lọcHuế, với cái vị giòn giòn, dai dai với nhân tôm ở giữa, chấm với nước chấm ngònngọt cay cay thì ăn mãi mà không chán. Hay món nem nướng Nha Trang với từngcuốn thịt vàng, thơm nồng, ăn cùng với những loại rau xa lách tạo nên mùi vị vôcùng đặc biệt quan trọng. Thanh Hoá cũng có nhiều món ăn truyền thống lịch sử địa phương nhưnem chua, bánh răng bừa, bánh gai Tứ Trụ, rượu Chi Nê Hậu Lộc … Nghệ Ancũng đem đến nhiều đặc sản nổi tiếng từ tương Nam Đàn, nhút Thanh Chương, bánh đa ĐôLương, nước mắm Quỳnh Lưu cho đến gà xáo Thanh Chương và lươn xứ Nghệ … Và còn nhiều nhiều những món ăn khác nữa trong ẩm thực miền Trung, khiếndu khách đã một lần nếm thử thì sẽ không khi nào quên. Với ẩm thực miền Trung, đồ uống cũng rất phong phú với rượu, trà, chè, bia, … Miền Trung nổi tiếng với những loại rượu chưng như rượu Hồng Đào ở Quảng Nam, rượu Bầu Đá ở Tỉnh Bình Định. Trà là một thức uống đại trà phổ thông trong ẩm thực miềnTrung. Ẩm th ực miền Trung không chỉ dừng lại ở đó mà còn rất nhiều món ngon, nhiều đặc sản nổi tiếng mang truyền thống riêng của từng vùng miền. Và hành khách khi đã đếnvới ẩm thực miền Trung, đã một lần chiêm ngưỡng và thưởng thức chúng thì sẽ không khi nào quênđược. Và khi nói đến ẩm thực miền Trung thì người ta không hề không nhắc đến ẩmthực xứ Huế – cái nôi của ẩm thực miền Trung. Trà cung đình Huế được những vị vuaxem như một trong những vị ẩm thực Đệ Nhất Đế Vương trong hoàng cung. Ngoàira, Bia Huda Huế – một tên thương hiệu nổi tiếng, cùng với ẩm thực miền Trung làniềm tự hào của người miền Trung. Ngoài ra, xứ Huế có rất nhiều loại chè. 3.2.1. Mộ t vài món ăn đặc trưng ở miền Trung Mì QuảngNhắc đến Quảng Nam là người ta liên tưởng tới món ăn rất đặc trưng của vùngđất này, đó là mỳ Quảng. Mì Quảng sinh từ đất Quảng đúng như tên gọi. Nó đượccoi là món đặc sản nổi tiếng dùng đểmời khách, hay những cuộc vui như ra mắt nét vănhoá của người dân đất Quảng. Mì được làm bằng bột gạo xay mịn, tráng thànhbánh, quét lớp dầu lạc mỏng dính, thái thành sợi. Nước dùng được làm từ thịt gà, có nơidùng thịt heo, tôm tươi. Nước dùng của mì Quảng ít chứ không như nước phở Bắc, nhưng rất ngọt và đậm đà. Rau sống ăn kèm thường là rau thơm, bắp chuối non tháimỏng. Trước khi cho mì vào bát, người ta lót xuống dưới một lớp rau sống, rồi trảiđều lên trên những sợi mì trắng. Nước chan nóng giãy được chan đều với nhữngmiếng thịt gà hay thịt heo, tôm béo ngậy, thơm lừng. Có thể cho thêm ít hạt lạcrang chín vàng, ít tiêu, vài lát ớt, vắt múi chanh, một chút ít mắm chiên … tùy theokhẩu vị. Những người sành ăn mỳ Quảng còn nhu yếu thêm cái bánh tráng nướnggiòn, bóp vụn bỏ vào bát mỳ nóng hôi hổi, như vậy mới ngon. Ngày nay, do khẩu vịvà nhu yếu của nhiều thực khách đến từ bốn phương, người ta hoàn toàn có thể đềi u chỉnhmột chút trong khâu chế biến như : cho thêm vào tô mì một số ít loại nhân, rau sốnghay gia vị khác, tuy nhiên không phải vì vậy mà làm mất đi mùi vị tô mì Quảngtruyền thống. Cao lầuCao lầu, món ăn gắn liền với phố cổ Hội An, sợi cao lầu được chế biến côngphu. Dùng gạo tại địa phương, chọn gạo không cũ, không mới ( tránh quá khô hoặcquá dẻo ). Gạo ngâm với nước tro lấy từ củi tràm ở Cù Lao Chàm. Dùng nước giếngở khu Bá Lễ để làm bột thì mới được sợi cao lầu dai và chắc. Sau đó gạo được xay, bồng, rã nước, nhồi bột, hấp sơ qua rồi xắt sợi và hấp chín. Sợi cao lầu chỉ giữ đượctrong ngày, khi ăn trụng với nước sôi, đểráo. Trong những quy trình làm sợi, cáchnhồi đểcó bột dẻo và khô quyết định hành động chất lượng sợi. Sợi cao lầu có màu gạo lứthoặc nhuộm vàng. Ðể làm nhân ăn với sợi cao lầu, chọn thịt đùi heo nạc, ướp gia vịvà ngũ vị hương đểlàm xá xíu. Dùng sợi cao lầu xắt từng đoạn dài cỡ ngón tay, phơi khô rồi chiên giòn. Ðậu phộng rang giã nhỏ phi với tỏi. Các thứ này đặt trênsợi cao lầu. Nước sốt khi làm xá xíu rưới lên, ai cần đậm đà thì thêm nước mắmthấm. Cao lầu ” kết bạn ” cùng rau húng lủi. Kèm theo có bánh đa nướng, loại bánhmiền Trung tráng dày với nhiều mè trắng và một chút ít nước cốt dừa. Cũng không thểthiếu rau đắng hoặc cải con ( loại cải ngắn cỡ gang tay, cọng nhỏ, ăn giòn ngọt ) đitheo cho đủbộ. Ngày nay cao lầu được nâng cấp cải tiến thêm chén nước súp nấu từ xươnggà, phần nhân thêm thịt gà nạc xắt vuông xào cho thấm và tép bạc luộc lột vỏ đặtlên. Bánh HuếNgười Huế làm bánh không phải đểăn no, mà làm bánh đểthưởng thức hươngvị. Huế là xứ sở có hàng trăm loại bánh ngon, trong đó phải kể đến bánh bột lọc, bánh bèo, bánh nậm, bánh ram ít … Mỗi loại bánh lại có một cách làm và mang ýnghĩa riêng biểu lộ tấm lòng của con người xứ Huế. Dạo quanh những con đường ởthành phố Huế, tất cả chúng ta thuận tiện nhận thấy rất nhiều hàng bánh Huế sinh động kháchdu lịch và người Huế đến chiêm ngưỡng và thưởng thức. Nói đến bánh Huế, thứ nhất là món bánhbèo, bánh được trình diễn trong từng bát thật nhỏ và cạn. Theo ý niệm của ngườiHuế, mỗi chiếc bánh thanh tao, mỏng mảnh chính là yếu tố tạo nên sự ngon miệng. Rồi đến bánh nậm, thứ bánh trắng ngần đểi m nhụy tôm hồng, mặt phẳng hình chữnhật, lát mỏng mảnh thanh thanh, được bọc bằng lá dong ăn kèm với chả tôm, trở thànhmột món ăn độc lạ, hòa hợp giữa cách ăn tầm trung và quí tộc. Những món bánhbèo, bánh nậm, bột lọc, bánh ram ít … thì bắt buộc phải có nước mắm chua chuangọt ngọt với vài lát ớt xanh, đỏthơm thơm mới đúng kiểu. Chỉ cần nhìn bát nướcchấm cũng đủ thấy được rằng sự hòa hợp sắc màu trong ẩm thực xứ Huế rất đượcchú trọng. Các loại bánh thường được làm nhỏ và mỏng dính, tạo những hình hoa trái, làmcho người ăn khi nhìn đã kinh ngạc thú vị và muốn chiêm ngưỡng và thưởng thức. Đến Huế, ai cũng phải dành một khoảng chừng thời hạn để chiêm ngưỡng và thưởng thức bánh Huế, ănbánh Huế là phải chiêm ngưỡng và thưởng thức cả bằng miệng, bằng mắt và bằng tai nữa, như thếmới hoàn toàn có thể tận thưởng hết những mùi vị đậm đà của nó. Bởi bánh Huế là nhữngtác phẩm vừa cầu kỳ sang trọng và quý phái vừa dân dã làng quê, như một đểi m nhấn trongnghệ thuật làm bếp của người nội trợ xứ Huế. Cơm lam Tây NguyênNgười ăn hoàn toàn có thể cảm nhận cả mùi nếp thơm lẫn hương rừng trong miếng cơmlam. Nó chắc mà lại dẻo, bùi mà không cứng, ăn không biết ngán. Nhiều khi khôngcó thức ăn kèm, người ta vẫn thấy rất rõ cái vị đậm đà của nó. Cách làm món cơm lam không phức tạp nhưng cũng khá cầu kỳ. Bước đầu tiênphải chọn ống lam là thân cây nứa non, dày ( chỉ lấy cây mới mọc vài lá ngọn ). Sauđó, chặt ống nứa để lại một mấu, tránh làm giập ống lam. Gạo nếp làm cơm lamphải chọn loại nếp trắng, dẻo, thơm, tốt nhất là ” khảu tan ” ( nếp tan ), rồi ngâm gạo, vo sạch, rắc ít muối trộn đều rồi cho vào ống lam. Khi cho gạo vào ống lam khôngđược nén quá chặt, không đầy quá mà phải để cách miệng ống lam khoảng chừng 4 – 6 cm ; sau đó đổ nước cách miệng ống lam 2 – 4 cm ; lấy lá dong hay lá chuối làm vừamiệng ống, đậy lên phía trên gạo, rồi lấy hai thanh nứa hoặc tre mềm cài hình chữthập đểgiữ cho gạo không bị bung ra, khi cơm lam chín kết dính chặt, dẻo. Khi những quy trình trên hoàn tất, đặt ống lam vào nhà bếp lửa đang cháy, đốt ốnglam cho đều đểcơm lam chín ngon, không bị cháy. Cơm lam chín lấy ra đểnguội, róc hết lớp vỏ cháy bên ngoài, dùng tay tước lớp vỏ mỏng dính, để lộ dần một lớp ” giấy ” trắng ngà của ống nứa non bọc lấy những hạt cơm thơm dẻo. Khi ăn chú ýnên ăn cả lớp ” giấy ” đó. Muốn đểcơm lam được lâu, dễ luân chuyển, giữ độ dẻocủa cơm, người ta chỉ bóc hết lóp vỏ cháy bên ngoài, khi ăn mới bóc tiếp lớp cònlại, giữ được vị thơm ngon đặc biệt quan trọng của cơm lam. Món ăn này nếu cùng thưởngthức với thịt thú rừng xào, nộm thì ngon tuyệt. 3.3. Ẩm th ực mi ền NamDo đặc thù địa hình và hoạt động và sinh hoạt kinh tế tài chính, văn hóa Nam Bộ đã định hình nềnvăn minh sông nước, ở đó nguồn lương thực – thực phẩm chính là lúa, cá và rau quảkể cả những loại rau đồng, rau rừng. Từ sự đa dạng chủng loại, dư dật ấy mà trải suốt quá trìnhkhai hoang dựng nghiệp, món ăn, thức uống hàng ngày của người Nam Bộ cho dùtrong thực trạng nào, thiếu thốn đạm bạc, hay vừa đủ thỏa thuê, họ không thểkhông mày mò và phát minh sáng tạo nhiều phương pháp nuôi trồng, đánh bắt cá để chế biếnvô số miếng ngon một cách có chuyên nghiệp và bài bản từ những đặc sản nổi tiếng của địa phương. Với phong thái chiêm ngưỡng và thưởng thức “ mùa nào thức nấy ” và ý niệm “ ăn để màsống ” hầu có đủ dưỡng chất tái tạo sức lao động, họ đã tỏ ra rất sành trong việcphối hợp những nhu yếu cao nhất của miếng ăn : thơm, ngon, bổ, khỏe. Câu nói “ ănđược ngủ được là tiên ” rất được người Nam Bộ chăm sóc, xem trọng, cho nên vì thế ngồivào bàn ăn, khi chủ nhà ra mắt món nào, dù là cá th ịt hay rau quả, kể cả rượu, họ thường nhắc nói : ăn món này bổ xương, hoặc tr ị suy dinh dưỡng, bổ gan, bổphổi … ; rượu thuốc này xử lý được bệnh “ tê bại ” nhức mỏi ; tráng dương, bổthận v.v… Khẩu vị của người Nam Bộ cũng rất đặc biệt quan trọng : “ gì ra nấy ”. Mặn thì phảimặn quéo lưỡi ( như nước mắm phải nguyên chất và nhiều, chấm mới “ dính ” ; khoquẹt phải kho cho có cát tức có đóng váng muối ) ; ăn cay thì phải gừng già, cũngkhông thể thiếu ớt, mà ớt thì chọn loại ớt cay xé, hít hà ( cắn trái ớt, nhai mà môikhông giựt giựt, lỗ tai không nghe kêu “ cái rắc ”, hoặc chưa chảy nước mắt thìdường như chưa … đã ! ). Còn chua thì chua cho nhăn mặt mới “ đã thèm ” ; ngọt ( chè ) thì phải ngọt ngây, ngọt gắt ; béo thì béo ngậy ; đắng thì phải đắng như mật ( thậmchí ăn cả mật cá, cho là “ ngọt ” ! ) ; còn nóng thì phải “ nóng nực vừa thổi vừa ăn ” … Vì sao khẩu v ị người Nam Bộ lại “ kinh khủng ” như thế ? Vấn đềđặt ra chẳng ai giảithích được tại sao ngoại trừ người Nam Bộ lớp trước hoặc những nhà nghiên cứu vềvăn hóa ẩm thực vùng đất này. Những trường hợp vừa nêu tuy riêng biệt nhưng cũngđã nói lên được đặc trưng khẩu vị con người của một vùng đất. Nhưng đó là khẩuvị của ngày trước. Nay tuy Nam Bộ đã qua rồi tiến trình cực kỳ nguy hiểm khổ khó, khẩu vị của họ cũng theo xu thế ăn sang mặc đẹp mà đổi khác : lạt hơn, ngọt hơn, nhưng những món ăn ghi đậm dấu ấn thời khẩn hoang vẫn còn đó mà đại biểu là cálóc nướng trui, rắn nướng lèo, mắm kho, mắm sống … Người Nam Bộ chẳng nhữngkhông mặc cảm mà còn tự hào, phát huy để nhắc nhớ cội nguồn, tri ân người mởcõi. Nếu những món ăn độc lạ ấy vẫn sống sót, vẫn hiện hữu trong bữa cơm giađình và cả trong nhà hàng quán ăn sang trọng và quý phái thì khẩu v ị và cung cách chiêm ngưỡng và thưởng thức c ố hữucủa người Nam Bộ vẫn được bảo lưu đến mức không hề không gây ngạc nhiênngười, thí dụ như khi ăn, nhiều người không ch ỉ chan nước mắm vào cơm mà còndùng muỗng húp, có vẻ như như thế mới “ đủ đô ”. Và, so với những người khôngquen ăn mặn có những món không cần phải chấm nước mắm, nhưng nếu trên mâmkhông có chén nước mắm họ sẽ cảm thấy bữa ăn mất ngon, b ởi chén nước mắm làcái gì đó rất thiết yếu. Cho nên phải có, và theo thói quen, họ vẫn đưa miếng đếnchấm nhưng đó chỉ là một “ động tác giả ” vì trọn vẹn chưa dính một chút ít nướcmắm nào, vậy mà ngon – không làm động tác giả như thế họ sẽ cảm thấy miếng ănbị nhạt nhẻo. Về nơi ăn, với những bữa cơm thường ngày trong mái ấm gia đình thì tùy điều kiệnkhông gian căn nhà rộng hay hẹp mà sắp xếp hài hòa và hợp lý : hoặc trên bàn, hoặc ngay trênsàn nhà. Nếu là bạn thân rủ nhau nhậu chơi thì hoàn toàn có thể trải đệm dưới gốc cây trongsân vườn hay ngoài đồng, tùy thích. Nhưng khi nhà có đám tiệc thì không xuề xòamà bày biện cỗ bàn rất nghiêm ch ỉnh trong niềm tin quý trọng khách m ời, tạo nênnét văn hóa rất riêng mà cũng rất chung, hòa giải giữa phong tục truyền thống lịch sử vớiđặc điểm văn minh vùng sông nước, hầu từng bước hoàn thành xong nền văn hóa ẩm thựcđộc đáo. 3.3.1. Một vài món ăn đặc trưng ở miền Nam Cá lóc … Chỉ một loại cá lóc, mà người ta hoàn toàn có thể chế biến ra hơn 20 món khác nhau. Nhìn vào bảng thực đơn này, tất cả chúng ta không khỏi khâm phục tính phát minh sáng tạo trongviệc chế biến ra những món ăn vô cùng đa dạng chủng loại của người Nam Bộ. Sau đây là vàimón cá lóc tiêu biểu vượt trội : Cá lóc đắp bùn : Ăn cách này, người ta khỏi phải làm cá, ch ỉ rửa chosạch, đểsống nguyên con, sau đó người ta móc bùn đắp kín, phải làloại bùn dẻo mới được, sau đó chất rơm rạ lên đốt, đến khi đất khônứt ra thì cá chín, có mùi thơm ngọt, phảng phất chút ít bùn làm chomón ăn mang đậm chất dân dã. Món này người ta thường dùng chấmvới muối tiêu mới ngon. Cá lóc nướng trui : Cá lóc còn sống để nguyên con, dùng cây hoặcnẹp tre xỏ vào miệng cá theo bề dài rồi hơ trên đống lửa nướng. Thông thường, người ta cắm cây xuống đất, cá lóc ngửa lên trời, rồilấy rơm chất lên đốt. Khi rơm cháy tàn cũng là lúc cá chín, có mùithơm của thịt cá và mùi hơi khét của da. Cá chín đem ra, đặt nguyêncon trên đĩa, nếu ngồi ăn ở sau vườn thì hoàn toàn có thể đểcá lên tàu lá chuối. Sau khi cạo bớt lớp vảy cá bị cháy ngoài da, lật ngửa cá, xẻ lằn dàitheo bụng cá, mở ra làm đôi là ăn được, không cần nêm gia vị, ăn vớirau sống. Nước chấm thường là nước mắm me chua hoặc muối ớt. Canh chua cá lóc : Đây là một trong những món đặc trưng của ngườiNam Bộ, mang tính tổng hợp và bộc lộ được tư duy phát minh sáng tạo của họtrong việc chế biến những món ăn. Cá lóc làm sạch, cắt ra từng khứa torồi mới để vào nồi canh. Người Nam bộ thường nấu canh chua vớime, có giá, bạc hà, ngò gai, cà chua …, phi chút tỏi mỡ cho thơm. Ăncanh chua cá lóc, nước chấm phải là nước mắm trong ( chưa pha chế ), loại ngon, dầm ớt vào cho cay thì mới ngon. Cá lóc kho : Cá làm sạch, cắt ra từng khứa, cho vào mẻ kho. Đây làcách ăn đơn thuần và tiện. Kho cá lóc cũng như kho những loại cá khác, hoàn toàn có thể kho khô hoặc kho nước. Nếu kho khô thì đểtiêu nhiều, cònkho nước thì hoàn toàn có thể đểvào vài trái ớt sừng trâu. Dùng những loại rau, dưa leo, chuối chát … chấm ăn. Đặc biệt bằm xoài sống đểvào thì ănngon vô cùng. MắmNói đến món ăn Nam Bộ không hề không đềcập đến món mắm. Bởi lẽ, mónmắm mà đặc biệt quan trọng là mắm của Nam Bộ có rất nhiều loại, được làm bằng nhiều loạithủy – món ăn hải sản khác nhau, có những cách chế biến, “ muối ” cũng khác nhau và màusắc, hương thơm cũng không giống nhau. Sự phong phú này làm đa dạng chủng loại thêm thựcđơn trong bữa ăn của người Nam Bộ, không cao sang, cầu kỳ nhưng “ ai đi xa cũngnhớ nhiều ”. Món mắm thật sự là một phát minh sáng tạo độc lạ của người Nam Bộ. Mắmchủ yếu được chế biến từ cá, ngoài những còn có mắm rươi, mắm còng, mắm tôm, bakhía … Do có nguồn lợi dồi dào từ thủy hải sản nên người Nam Bộ đã chế biến nên rấtnhiều loại mẫu sản phẩm, trong đó kỹ thuật chế biến mắm rất phong phú và có nhiều loại, và là đặc sản nổi tiếng cùa từng địa phương gắn liền với tên gọi, như : mắm thái Châu Đốc, mắm ruột cá Đồng Tháp, mắm ruốc Kiên Giang, Vũng Tàu … mắm còng, mắmtôm chà Gò Công … Dường như những loại mắm đều gắn liền với một loài cá, bởi cánào cũng hoàn toàn có thể làm mắm được. Có thể kể như : mắm cá lóc, mắm cá linh, mắm cátrèn, mắm cá sặc … Tùy từng loại cá mà mẫu sản phẩm làm ra có mùi hương và v ị ngonkhác nhau. Đến quy trình chế biến đểăn cũng có nhiều cách thật nhiều vẻ, nào làmắm chưng cách thủy ; bằm nhuyễn chưng với trứng, thị heo ; mắm kho ; lẩu mắm … Các loại bánh và chèẨm thực miền Nam rất phong phú và đa dạng và phong phú những loại bánh dân gian : bánh tétnhưn đậu, nhưn chuối, bánh tét nước tro nhưn ngọt, nay có thêm bánh tét lá cẩmnhưn đậu, thịt mỡ, trứng muối, tôm khô đặc sản nổi tiếng của Cần Thơ ; bánh ít nhưn đậu, nhân dừa, bánh lá dừa, bánh bông lan, bánh bò, bánh da lợn, bánh tráng nước cốtdừa Bến Tre, bánh nếp phồng, …. – Các món chè chè chuối, chuối chưng, chè bà ba, chè thưng, chè đậu, chèkhoai môn, chè táo xọn, chè đậu đỏ, bánh lọt, sương sa hột lựu, chè đậu xanh nướcdừa, chè đậu trắng, chè bưởi món chè đặc trưng của Cần Thơ, … Chè thường đượcăn nóng hay ăn nguội, vì miền Nam nắng nóng nên món chè nhiều lúc còn cho thêmđá vào ăn cũng rất tuyệt. • Trái câyCây trái miền Nam rất phong phú và đa dạng và phong phú, là sản vật nổi tiếng với mùa nào tráiấy ; đi đâu cũng thấy hoa thơm, trái chín, vườn trái sum sê, trĩu quả. Hầu hết, những nhà tại miệt vườn Nam Bộ đều có trồng cây ăn trái, phổ cập nhất làchuối. Chuối là loại trái cây có mùi vị ngọt ngào, bổ dưỡng, luôn xuất hiện trên thịtrường. Chuối có nhiều loại : chuối già, chuối sáp, chuối sứ hay còn gọi là chuốixiêm … Cam cũng là loại trái cây nổi tiếng ở Nam Bộ gồm có Cam sành, Cam mật, camxoàn. Bên cạnh đó, một thứ trái cũng bốn mùa hiện hữu là bưởi, như bưởi đường, bưởi thanh, bưởi ổi, bưởi năm roi, bưởi da xanh, bưởi bánh xe … Ngoài ra còn có những loại quít miệt vườn thơm ngon, tươi vàng với những loại quítđường, quít ta, quít tiêu. Nam Bộ còn nổi tiếng về Xoài : xoài cát Hòa Lộc, xoài thanh ca, xoài tượng, xoàitứ quý. Vú sữa Cần Thơ ngon nhất ở Nam Bộ, vú sữa có hai loại : trắng và tím, mọng nước, ngọt ngào và điệu đàng đúng với tên gọi của nó. Trái sabôchê no tròn, nước ngọt lịm, nhiều dinh dưỡng thì ở vùng Cái Mơn, ChợLách, nơi được ca tụng là “ cái nôi ” trái cây Nam Bộ. Ở vùng đất Cà Mau, Long An, Bạc Liêu, Kiên Giang, Hậu Giang trái khóm ( thơm, dứa ) lại lên ngôi. Đây là loại cây dễ trồng, nhưng giá trị xuất khẩu cao. Giữa tháng ba âm lịch trở đi, hoàn toàn có thể nói, Nam Bộ là mùa trái cây dồi dào nhất trongnăm. Những quả măng cụt màu đỏ nâu sẫm, khi cắt đôi, để lộ ra những múi nhỏmàu trắng ăn có vị ngọt lẫn chút chua đậm đà mà mê hoặc. Cần Thơ nổi tiếng với dâu Hạ Châu, được trồng nhiều tại những nhà vườn để phục vụdu lịch vì sự mê hoặc của những chùm dâu sum xuê sau một vài đám mưa đầu mùahạ. Ngoài dâu Hạ Châu còn có những loại dâu xanh, dâu xiêm cũng rất thơm ngon vàmọng nước. Sầu riêng là một loại trái cây đặc sản nổi tiếng ở Nam Bộ, với vỏ xù xì đầy gai nhọn, nhưngtỏa ra mùi thơm nức được liệt vào loại trái quý, giá rất đắt. Mùi vị sầu riêng nhiềungười không chịu được vì mùi thơm hơi nồng nhưng ai ăn được sẽ rất ghiền. Mít cũng là loại trái cây thơm ngon không kém. Có rất nhiều giống mít khác nhau : Mít tố nữ, mít nghệ, mít ướt, nay có thêm mít ruột đỏ đặc sản nổi tiếng của Cần Thơ. Ngoài ra, còn một loại trái cây nữa cũng không kém phần mê hoặc, đó là nhãn, thứquả vừa thơm vừa ngọt. Quý nhất là nhãn Bạc Liêu, cơm dày hột nhỏ. Nay có thêmgiống nhãn xuồng bò, trái to, cơm dày, ít nước, vị ngọt thanh ăn rất ngon. Nam Bộ đúng là nơi đất lành sinh trái ngọt, là vựa trái cây lớn nhất và phong phúnhất của ViệtNam. • Thức uốngThức uống của người miền Nam cũng rất nhiều mẫu mã và có nhiều điểm khác biệtvới những miền khác. Do thời tiết nắng nóng nên người Nam bộ thường uống trà đá. Trà đá của người miềnNam thường đá nhiều, nước đun sôi pha thêm tí nước trà đặccho thơm và được uống trong ly cối lớn. Ngoài trà đá còn có những loại nước nấu từcác loại cây, hoa của vùng đồng bằng Nam bộ này như nước rễ tranh, mía lau, láhuyết dụ, bông ngò, lá thuốc dòi, râu bắp, những loại đậu rang lên cho thơm, … haycác loại rong biển nấu lấy nước thêm đường phèn vào để có độ ngọt thanh cho loạinước này. Các loại nước đá chanh, trà đá chanh đường, sô đa chanh đường, chanhmuối, mước mía ép, nước đá me, rau má, nước đậu xanh rau má hay nước ép tráicây, sinh tố trái cây …. cũng được người dân Nam Bộ ưa thích. 3.4. Vấn đề triển khai nhằm mục đích nâng cao hiệu suất cao của văn hóa ẩm thực trongphát triển du lịchĐể tiến hành và thực thi nhằm mục đích nâng cao hiệu suất cao của văn hóa ẩm thực trongphát triển du lịch rất cần có sự phối hợp hành vi của những chủ thể trong ngành dulịch, trong đó cơ quan quản trị nhà nước về du lịch cả TW và địa phươngđóng vai trò làm đềi u kiện tiên quyết. Cụ thể, cần sớm thiết kế xây dựng đề án quảng báxúc tiến tên thương hiệu du lịch Việt Nam trải qua loại sản phẩm ẩm thực. Hướng tới đềán trên, trước mắt cần điều tra và nghiên cứu thị trường, đồng thời triển khai thanh tra rà soát, hệ thốnghóa lại những món ăn tiêu biểu vượt trội của dân tộc bản địa Việt Nam, đặc trưng cho những vùngmiền, qua đó lựa chọn tích hợp vào mẫu sản phẩm du lịch, những công cụ tiếp thị xúctiến du lịch ; có giải pháp Phục hồi những món ăn, ẩm thực tiêu biểu vượt trội 3 miền ở cảtrong và ngoài nước ; tôn vinh những đầu bếp tiêu biểu vượt trội trong chế biến những món ănViệt về kinh nghiệm tay nghề cũng như nỗ lực gìn giữ và truyền bá ẩm thực Việt ở trong nướcvà quốc tế ; tiếp thị thoáng rộng ẩm thực Việt ra quốc tế trải qua tổ chức triển khai những sựkiện ẩm thực ở trong nước, trên từng địa phương, những hoạt động giải trí thực thi quảng bádu lịch, ngày văn hóa Việt Nam ở quốc tế, những sự kiện du lịch quốc tế tổ chứctại một số ít nước là thị trường trọng đểi m của Du lịch Việt Nam, đặc biệt quan trọng là nơi cónhiều hội đồng người Việt Nam sinh sống, học tập và thao tác ; tăng cường đầu tưkinh phí cho công tác làm việc tiếp thị triển khai, gồm có cả những hoạt động giải trí và sự kiệnẩm thực. Làm tốt công tác làm việc trên, nhận thức và ấn tượng về những tinh hoa của vănhóa ẩm thực Việt Nam ngày càng sâu đậm, được khách du lịch quốc tế gần xa yêuthích và ngưỡng mộ ; góp thêm phần quan trọng vào việc củng cố và khẳng định vị trívững chắc của tên thương hiệu du lịch Việt Nam trên bản đồdu lịch quốc tế, thúc đẩygia tăng lượng khách quốc tế đến Việt Nam. Phần 3 : KẾT LUẬNĐất nước Việt Nam ta đã trải qua hang nghìn năm lịch sử dân tộc, có lúc đau thươngnhưng cũng không thiếu những tháng ngày hào hùng, oanh liệt. Trải suốt thời gianấy, dân tộc bản địa ta đã không ngừng đúc rút, vun đắp cho riêng mình một nền văn hóa
Source: https://vh2.com.vn
Category: Ẩm Thực