Networks Business Online Việt Nam & International VH2

Sáng kiến kinh nghiệm Đổi mới phương pháp dạy Tập làm văn lớp 3

Đăng ngày 14 January, 2023 bởi admin

Bạn đang xem

20 trang mẫu

của tài liệu “Sáng kiến kinh nghiệm Đổi mới phương pháp dạy Tập làm văn lớp 3”, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Tiếng Việt là môn học nền tảng trong trường Tiểu học. Môn Tiếng Việt cùng với các môn học khác, có nhiệm vụ cung cấp cho học sinh 4 kĩ năng đó là: “nghe – nói - đọc - viết”.Trong đó môn Tiếng Việt có các phân môn như: Tập đọc, Kể chuyện, Chính tả, Luyện từ và câu, Tập viết, Tập làm vănTrong đó Tập làm văn là phân môn có tính chất tích hợp của các phân môn khác. Qua tiết Tập làm văn, học sinh có khả năng xây dựng một văn bản, đó là bài nói, bài viết. Nói và viết là những hình thức giao tiếp rất quan trọng, thông qua đó con người thực hiện quá trình tư duy - chiếm lĩnh tri thức, trao đổi tư tưởng, tình cảm, quan điểm, giúp mọi người hiểu nhau, cùng hợp tác trong cuộc sống lao động.
Ngôn ngữ (dưới dạng nói- ngôn bản, và dưới dạng viết - văn bản) giữ vai trò quan trọng trong sự tồn tại và phát triển xã hội. Chính vì vậy, hướng dẫn cho học sinh nói đúng và viết đúng là hết sức cần thiết. Nhiệm vụ nặng nề đó phụ thuộc phần lớn vào việc giảng dạy môn Tiếng Việt nói chung và phân môn Tập làm văn lớp 3 nói riêng. Vấn đề đặt ra là: người giáo viên dạy Tập làm văn theo hướng đổi mới như thế nào để đáp ứng được khả năng tiếp thu của học sinh? Cách thức tổ chức, tiến hành tiết dạy Tập làm văn ra sao để đạt hiệu quả như mong muốn.
Qua thực tế giảng dạy chúng tôi nhận thấy Tập làm văn là phân môn khó trong các phân môn Tiếng Việt. Do đặc trưng phân môn Tập làm văn với mục tiêu cụ thể là: hình thành và rèn luyện cho học sinh khả năng trình bày văn bản (nói và viết) ở nhiều thể loại khác nhau như: miêu tả, kể ,viết thư, tường thuật, kể lại bản tin, tập tổ chức cuộc họp, giới thiệu về mình và những người xung quanh.Trong quá trình tham gia vào các hoạt động học tập này, học sinh với vốn kiến thức còn hạn chế nên thường ngại nói. Nếu bắt buộc phải nói, các em thường đọc lại bài viết đã chuẩn bị trước. Rất ít học sinh làm bài Tập làm văn biết sử dụng biện pháp so sánh, nhân hoá cho câu văn sinh động,có hình ảnh. Các em viết theo văn mẫu không có sự sáng tạo, ngoài văn mẫu ra để tự viết thì các em viết rất lủng củng ,câu văn rời rạc, không đạt yêu cầu. Vốn từ học sinh còn nghèo nàn dẫn đến việc sử dụng từ còn lặp, vụng, chưa đúng. Viết câu không đúng do chưa nắm chắc được cấu tạo câu. Hiện nay đa số học sinh “ ngại” học phân môn Tập làm văn.Thực tế cho thấy nhận thức của cha mẹ học sinh cho đến các em đều cho rằng: Chỉ cần học Tập đọc và viết Chính tả đúng là đạt yêu cầu môn Tiếng Việt, còn tập trung học Toán nhiều hơn để lên lớp trên theo học các môn Tự nhiên là chính. Là một giáo viên đứng lớp trực tiếp giảng dạy lớp 3, tôi không khỏi băn khoăn lo lắng trước tình hình học sinh như vậy. Tôi rất mong muốn học sinh của mình ngay từ lớp 3 đã có ý thức biết viết văn đúng yêu cầu và có sáng tạo. Chính vì vậy tôi đã tìm tòi, nghiên cứu tài liệu và 
học hỏi các bậc thầy cô đi trước để quyết định đưa ra đề tài: Đổi mới phương pháp dạy Tập làm văn lớp 3. Kinh nghiệm nhỏ này tôi đã thử nghiệm thành công tại lớp dạy của mình. Để góp phần nâng cao chất lượng dạy và học phân môn Tập làm văn ở lớp 3, tôi xin viết thành sáng kiến kinh nghiệm, rất mong được sự góp ý của cấp trên, của các bậc thầy cô và bạn bè đồng nghiệp để sáng kiến của tôi ngày càng hoàn thiện hơn.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
 Việc dạy cho học sinh nắm được cách nghe, kể lại được nội dung câu chuyện và nói, viết về một chủ đề có hiệu quả trong phân môn Tập làm văn ở lớp 3 là rất quan trọng. Dạy tốt vấn đề này giúp học sinh rèn luyện các kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết một cách linh hoạt để biết kể lại câu chuyện đã nghe hay làm bài văn nói, viết về một chủ đề cho trước có hiệu quả. Giúp học sinh mạnh dạn, tự tin và ham thích học văn. Vậy mục đích nghiên cứu trong đề tài này tập trung vào các nội dung chủ yếu sau:
 - Thực trạng việc dạy của giáo viên và việc học của học sinh về phân môn Tập làm văn lớp 3 ở trường Tiểu học hiện nay.
 - Nghiên cứu tìm ra một số phương pháp nhằm nâng cao hiệu quả giờ học Tập làm văn ở lớp 3 
3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
Học sinh lớp 3B Trường Tiểu học Thiệu Dương năm học: 2016 – 2017, lớp mà tôi trực tiếp chủ nhiệm.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Trong qua trình nghiên cứu, tôi đã áp dụng một số phương pháp sau:
1 - Phương pháp nghiên cứu tài liệu :Tiến hành đọc một số tài liệu về phương pháp dạy Tập làm văn ở Tiểu học để từ đó xây dựng cơ sở lí thuyết
2 - Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế: Tiến hành khảo sát thực tế về khả năng tiếp thu phân môn Tập làm văn của học sinh lớp 3B qua các bài kiểm tra
3 - Phương pháp luyện tập, thực hành:Tiến hành cho học sinh làm các bài tập làm văn trong sách giáo khoa để kiểm tra năng lực của các em
4 - Phương pháp trao đổi, tranh luận:Trao đổi với đồng nghiệp trong các buổi họp chuyên môn vào thứ 7 để tìm ra biện pháp dạy học phân môn Tập làm văn tốt nhất.
5 - Phương pháp phân tích, tổng hợp:Phân tích để từ đó tổng hợp các biện pháp dạy môn Tập làm văn lớp 3
6 - Phương pháp thống kê:Thống kê sự tiến bộ của học sinh về cách viết đoạn văn so với đầu năm học
Trong các phương pháp trên, khi nghiên cứu tôi vận dụng hài hoà các phương pháp để tìm ra các giải pháp của mình đạt kết quả tối ưu nhất.
 II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1 CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
Tập làm văn là một trong những phân môn có vị trí quan trọng của môn Tiếng Việt. Phân môn này đòi hỏi học sinh phải vận dụng những kiến thức tổng hợp từ nhiều phân môn. Để làm được một bài văn, học sinh phải sử dụng cả bốn kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết; phải vận dụng các kiến thức về Tiếng Việt, về cuộc sống thực tiễn.
Phân môn Tập làm văn rèn luyện cho học sinh các kỹ năng tạo lập văn bản, trong quá trình lĩnh hội các kiến thức khoa học, góp phần dạy học sinh sử dụng Tiếng Việt trong đời sống sinh hoạt. Vì vậy, Tập làm văn được coi là phân môn có tính tổng hợp, có liên quan mật thiết đến các môn học khác. Trên cơ sở nội dung, chương trình phân môn Tập làm văn có rất nhiều đổi mới, nên đòi hỏi tiết dạy Tập làm văn phải đạt được mục đích cụ thể hơn, rõ nét hơn. Ngoài phương pháp của thầy, học sinh cần có vốn kiến thức, ngôn ngữ về đời sống thực tế. Chính vì vậy, việc dạy tốt các phân môn khác không chỉ là nguồn cung cấp kiến thức mà còn là phương tiện rèn kỹ năng nói, viết, cách hành văn cho học sinh.
Phân môn Tập làm văn có nhiệm vụ quan trọng đó là: Bồi dưỡng óc thẩm mĩ, sự say mê văn học cho các em là cơ sở ban đầu và nền móng cho việc học văn của các em ở những lớp học, bậc học tiếp theo.
Tóm lại: Dạy Tập làm văn theo hướng đổi mới phải khích lệ học sinh tích cực, sáng tạo, chủ động trong học tâp; biết diễn đạt suy nghĩ của mình thành ngôn bản, văn bản. Nói cách khác, các phân môn trong môn Tiếng Việt là phương tiện để hỗ trợ cho việc dạy Tập làm văn được tốt.
2. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ TRƯỚC KHI ÁP DỤNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
2.1.Thuân lợi việc dạy học phân môn Tập làm văn
* Đối với giáo viên:
- Sau một thời gian tiến hành chương trình thay sách, giáo viên đã nắm được yêu cầu của việc đổi mới phương pháp một cách cơ bản, việc sử dụng đồ dùng tương đối có hiệu quả.
- Sự chỉ đạo chuyên môn của phòng giáo dục, trường, tổ chuyên môn có vai trò tích cực, giúp giáo viên đi đúng nội dung, chương trình phân môn Tập làm văn.
- Qua các phương tiện thông tin đại chúng: máy tinh, ti vi, đài, sách, báo giáo viên tiếp cận với phương pháp đổi mới Tập làm văn thường xuyên hơn.
* Đối với học sinh
- Học sinh lớp 3 đang ở lứa tuổi rất thích học và ham học.
- Môn Tiếng Việt nói chung và phân môn Tập làm văn nói riêng có nội dung phong phú, sách giáo khoa được trình bày với kênh hình đẹp, trang thiết bị dạy học hiện đại, hấp dẫn học sinh, phù hợp với tâm sinh lý lứa tuổi các em.Các em đã được học chương trình thay sách từ lớp 1, đặc biệt là các em ở lớp 2 đã nắm 
vững kiến thức, kỹ năng của phân môn Tập làm văn như kỹ năng giao 
tiếp, kỹ năng tạo lập ngôn bản, kỹ năng kể chuyện miêu tả. Đây là cơ sở giúp các em học tốt phân môn Tập làm văn ở lớp 3.
2.2. Khó khăn việc dạy học phân môn Tập làm văn
+ Đối với giáo viên:
 Tiếng Việt là môn học khó, nhất là phân môn Tập Làm Văn đòi hỏi người giáo viên phải có kiến thức sâu rộng, phong phú. Cần phải có vốn sống thực tế, người giáo viên biết kết hợp linh hoạt các phương pháp trong giảng dạy. Biết gợi mở óc tò mò, khả năng sáng tạo, độc lập ở học sinh, giúp cho các em nói viết thành văn bản, ngôn ngữ quả không dễ. Phần đông giáo viên còn thiếu chú ý đến việc dạy Tiếng Việt trên quan điểm giao tiếp - tích hợp nên kết quả viết đoạn văn của học sinh chưa cao.
	Ví dụ : Khi viết đoạn văn thì việc sử dụng từ để viết câu rất quan trọng nhưng khi dạy Tập đọc giáo viên quên đi việc cho học sinh cảm nhận, chỉ ra những từ hay, cách viết câu đặc biệt, câu giàu hình ảnh của tác giả bài viết.
Về cơ sở vật chất phần nào chưa đáp ứng được đầy đủ cho việc nghiên cứu, giảng dạy học tập của giáo viên, một số bài dạy còn thiếu tranh ảnh, nên giáo viên dùng lời nói mô tả khiến học sinh tiếp thu trừu tượng. Kết quả giờ dạy còn hạn chế.
+ Đối với học sinh:
- Do đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi, các em nhanh nhớ nhưng cũng mau quên, mức độ tập trung thực hiện các yêu cầu của bài học chưa cao.
- Sự hiểu biết của hoc sinh lớp 3 về phân môn Tập làm văn còn hạn chế. Bước đầu kế thừa, tập làm quen phân môn Tập làm văn của lớp 2.
- Kiến thức về cuộc sống thực tế của học sinh còn hạn chế, ảnh hưởng đến việc tiếp thu bài học.Vốn từ vựng của học sinh chưa nhiều cũng ảnh hưởng đến việc thực hành độc lập. Cụ thể là: các em viết câu rời rạc, chưa liên kết, thiếu lôgic; tính sáng tạo trong thực hành viết văn chưa cao. Cách bố cục bài văn, cách chấm câu chưa hợp lí, sử dụng hình ảnh gợi tả chưa linh hoạt, sinh động. Một số học sinh còn phụ thuộc vào bài văn mẫu, áp dụng một cách máy móc, chưa biết vận dụng bài mẫu để hình thành lối hành văn của riêng mình. Ví dụ: phần lớn học sinh dùng luôn lời cô hướng dẫn để viết bài của mình.Nhiều học sinh thuộc bài của cô một cách trôi chảy để làm văn.
 Với những thuận lợi và khó khăn trên, tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng môn Tập làm văn lớp 3 vào tháng 9 - tuần 3 với học sinh lớp 3B (năm học 2016-2017) với đề bài như sau:Hãy kể về gia đình em với người bạn mới quen.
 Kết quả khảo sát như sau: Tổng số học sinh lớp 3B: 30 em.
TT
Nội dung khảo sát
Số học sinh
Tỷ lệ %
1
Biết viết câu, dùng từ hợp lý
14/30
46,6%
2
Biết nói - viết thành câu. 
15/30
 50%
3
Biết dùng từ ngữ, câu văn có hình ảnh. 
10/30
33,3%
4
Biết trình bày đoạn văn
15/30
50%
5
Bài viết học sinh đạt từ trung bình trở lên 
20/30
66,6%
Qua khảo sát cho thấy học sinh chưa biết cách diễn đạt câu văn có hình ảnh, vốn từ vựng chưa nhiều, hiểu biết thực tế còn ít. Do vậy chất lượng bài viết của các em chưa cao, ý văn nghèo nàn, câu văn lủng củng. Kết quả này cũng thể hiện phương pháp giảng dạy của giáo viên chưa phát huy được tính tích cực của học sinh trong giờ học.
3. CÁC GIẢI PHÁP DẠY TẬP LÀM VĂN LỚP 3 THEO HƯỚNG ĐỔI MỚI
 Tùy theo nội dung, yêu cầu của mỗi đơn vị kiến thưc bài học và từng đối tượng học sinh, giáo viên có thể áp dụng nhóm các biện pháp, hoặc một biện pháp chủ đạo kết hợp với một số biện pháp bổ trợ khác. Về cơ bản có những biện pháp sau
3.1Luôn chú trọng “tích hợp-lồng ghép”khi dạy phân môn Tập làm văn 
 Khi dạy Tập làm văn giáo viên cần hiểu rõ tính tích hợp kiến thức giữa các phân môn trong môn Tiếng Việt như: Tập đọc, Kể chuyện, Chính tả, Luyện từ và câu, Tập viết để giảng dạy và tạo đà cho học sinh học tập tốt phân môn Tập làm văn. Mối quan hệ này thể hiện rất rõ trong cấu trúc của sách giáo khoa: các bài học được biên soạn theo chủ đề, chủ điểm, hai tuần học xoay quanh một chủ điểm ở tất cả các phân môn.
Ví dụ: Chủ đề Cộng đồng dạy trong 2 tuần gồm các bài Tập đọc, Luyện từ và câuTrong quá trình rèn đọc, khai thác nội dung các bài Tậpđọc cung cấp cho học sinh vốn từ về chủ đề Cộng đồng, những câu văn có hình ảnh về chủ đề Cộng đồng. Cụ thể khi dạy bài tập đọc: Kể chuyện: Các em nhỏ và cụ già-Tuần 8, giáo viên khai thác nội dung bài theo hệ thống câu hỏi sau:
+ Điều gì gặp bên đường khiến các bạn nhỏ phải dừng lại?
(Các bạn gặp một cụ già đứng ven đường, vẻ mặt mệt mỏi, cặp mắt lộ vẻ u sầu)
+Các bạn quan tâm đến ông cụ như thế nào?
(Các bạn băn khoăn và trao đổi với nhau. Có bạn đoán: a) Hay ông cụ bị ốm.
b) Hay cụ bị mất cái gì đó. Cuối cùng cả tốp đến tận nơi để hỏi thăm ông cụ)
+Vì sao các bạn quan tâm đến ông cụ?
Với câu hỏi này có thể các em sẽ trả lời như sau:
- Vì các bạn là những trẻ ngoan. Vì các bạn là những người nhân hậu.
- Vì các bạn muốn quan tâm, giúp đỡ ông cụ.
+ Ông cụ gặp chuyện gì buồn?
(Cụ bà bị ốm nặng đang nằm trong bệnh viện, khó mà qua khỏi)
+Vì sao khi trò chuyện với các bạn nhỏ ông cụ thấy lòng nhẹ hơn?
Với câu hỏi này có thể các em sẽ trả lời như sau:
- Ông cảm thấy nỗi buồn được chia sẻ.
 - Ông cảm thấy đỡ cô đơn vì có người trò chuyện.
- Ông cảm thấy lòng ấm lại vì tình cảm của các bạn nhỏ dành cho mình. Qua các câu trả lời của học sinh, giáo viên định hướng cho các em ý thức biết quan tâm chia sẻ với những người trong cộng đồng, giúp cho các em khi viết đoạn văn kể về những người thân, hoặc người hàng xóm, đoạn văn toát lên được nội dung: con người phải biết yêu thương nhau, sự quan tâm chia sẻ của những người xung quanh làm cho mỗi người dịu bớt những nỗi lo lắng, buồn phiền, và cảm thấy cuộc sống tốt đẹp hơn.
Qua hệ thống câu hỏi, giáo viên giúp cho học sinh bày tỏ được thái độ, tình cảm, ý kiến nhận xét, đánh giá của mình về vấn đề nêu ra trong bài học. Song song với quá trình đó, giáo viên cần hỏi ý kiến nhận xét của học sinh về câu trả lời của bạn để học sinh rút ra được câu trả lời đúng, cách ứng xử hay. Như vậy, qua tiết học này, học sinh được mở rộng vốn từ, rèn lối diễn đạt mạch lạc, lôgic, câu văn có hình ảnh, cảm xúc. Trên cơ sở đó, bài luyện nói của các em sẽ trôi chảy, sinh động, giàu cảm xúc, đồng thời hình thành cho các em cách ứng xử linh hoạt trong cuộc sống; hình thành cho học sinh kiến thức về mối quan hệ tương thân tương ái giữa mọi người trong cộng đồng; rèn cho học sinh thói quen quan tâm, chia sẻ giúp đỡ những người trong cộng đồng. Cũng với chủ đề này thì phân môn Luyện từ và câu-Tuần 8 cũng cung cấp cho học sinh vốn từ về chủ đề Cộng đồng thông qua hệ thống các bài tập. Cụ thể:
Bài 1: Sắp xếp những từ ngữ vào ô trống trong bảng phân loại sau.
 Các từ: Cộng đồng, cộng tác, đồng bào, đồng đội, đồng tâm, đồng hương
 Giáo viên giúp các em hiểu nghĩa các từ trên và sắp xếp vào các nhóm từ:
Nhóm 1: Những người trong cộng đồng
Nhóm 2: Thái độ hoạt động trong cộng đồng
Từ việc hiểu nghĩa của từ ở bài tập 1, học sinh hiểu ý nghĩa các thành ngữ ở bài tập 2 và bày tỏ thái độ tán thành hay không tán thành thái độ ứng xử trong cộng đồng thể hiện trong các thành ngữ đó:
 “ Chung lưng đấu cật.”
(Mọi người cùng chung sức chung lòng để thực hiện một công việc có nhiều khó khăn trở ngại)
 “Cháy nhà hàng xóm bình chân như vại.”
(Phê phán thái độ thờ ơ, không quan tâm, tương trợ người khác lúc khó khăn)
 “ Ăn ở như bát nước đầy.”
(Ca ngợi con người ăn ở, cư xử với mọi người có tình có nghĩa, trước sau không thay đổi).
 	Như vậy học sinh biết vận dụng những câu thành ngữ về thái độ ứng xử trong cộng đồng khi nói-viết Tập làm văn giao tiếp, ứng xử trong cuộc sống. ở phân môn Chính tả Tuần 8, các em cũng được luyện viết các bài trong chủ đề Cộng đồng.
Ví dụ: Viết đoạn 4 trong bài các em nhỏ và cụ già.
 Cụ ngừng lại và nghẹn ngào nói tiếp: Ông đang rất buồn. Bà lão nhà ông nằm bệnh viện mấy tháng nay rồi. Bà ốm nặng lắm, khó mà qua khỏi. Ông ngồi đây chờ xe buýt để đến bệnh viện, ông cảm ơn lòng tốt của các cháu. Dẫu các cháu không giúp gì được nhưng ông cũng thấy lòng nhẹ hơn.
 Khi viết đoạn văn trên, học sinh được rèn viết chính tả, cách sử dụng các dấu câu; thấy được sự cảm thông, chia sẻ giữa con người với nhau làm dịu bớt nỗi lo lắng, buồn phiền, tăng thêm cho mỗi người niềm hy vọng, nghị lực trong cuộc sống. Học sinh vận dụng cái hay, cái đẹp của ngôn từ trong đoạn văn để thể hiện tình cảm, thái độ đánh giá trong từng bài văn cụ thể của chính các em.Tương tự, ở phân môn Tập viết - Tuần 8, các em được làm quen với các thành ngữ, tục ngữ về chủ đề Cộng đồng như luyện viết câu ứng dụng: 
 “ Khôn ngoan đối đáp người ngoài
 Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau.
 Xuất phát từ các phân môn: Tập đọc, Luyện từ và câu, Chính tả, Tập viết xoay quanh chủ đề Cộng đồng, học sinh biết “ Kể về người hàng xóm mà em quý mến” ( TLV 3-Tuần 8) và viết được đoạn văn hoàn chỉnh, thể hiện tình cảm, thái độ đánh giá đối với người hàng xóm qua việc sử dụng từ ngữ, câu văn có hình ảnh. 
Cô Mai là người hàng xóm bên cạnh nhà em. Cô là giáo viên Tiểu học, tối tối miệt mài bên trang giáo án, và chấm bài cho học sinh. Với dáng người nhỏ nhắn nhưng rất nhanh nhẹn, giọng cô ấm áp. Em thích nghe nhất là khi cô hát. Cô thật xứng danh là cô ca sĩ của trường.
 Như vậy, khi dạy phân môn của Tập làm văn đều nhằm mục đích giúp học sinh có kỹ năng hình thành văn bản, ngôn bản. Do đó, tích hợp lồng ghép là phương pháp đặc trưng khi dạy phân môn Tập làm văn lớp 3.
3.2Dạy học theo quan điểm giao tiếp:
 Dạy học theo quan điểm giao tiếp là hình thành cho học sinh kỹ năng diễn đạt thông qua các bài học, hình thành thói quen ứng xử trong giao tiếp hằng ngày với thầy cô, cha mẹ, bạn bè và mọi người xung quanh.
 Vận dụng phương pháp dạy học theo quan điểm này, giáo viên tạo cho học sinh nhiều cơ hội thực hành, luyện tập, không quá nặng về lý thuyết như phương pháp dạy học truyền thống. Do vậy học sinh hào hứng tham gia vào các hoạt động học tập, tích cực, sáng tạo trong làm văn. Việc hình thành và rèn luyện các 
kỹ năng nghe nói- đọc - viết cho học sinh thông qua phân môn Tập làm văn đảm bảo đạt được hiệu quả tối ưu.
Ví dụ: Giảng dạy dạng bài tập nghe và tập nói.
Nghe và kể lại câu chuyện “Giấu cày”- Tập làm văn-Tuần 1.
Qua việc kể mẫu của giáo viên, quan sát tranh, gợi ý sách giáo khoa học sinh kể nội dung câu chuyện như sau:
Có một người đang cày ruộng thì vợ gọi về ăn cơm. Bác ta liền hét to trả lời:
 - Để tôi giấu cái cày vào bụi đã.
Về nhà bác ta liền bị vợ trách: - Ông giấu cày mà la to như thế, kẻ gian biết chỗ, nó lấy mất cày thì sao.Lát sau, cơm nước xong, bác ta ra ruộng, quả nhiên thấy cày bị mất. Bác ta liền chạy một mạch về nhà, nói thầm vào tai vợ: “Nó lấy mất cày rồi!”
Qua giao tiếp giữa giáo viên với học sinh, giữa học sinh với nhau (kể cho nhau nghe), việc kể lại nội dung câu chuyện trước lớp giúp các em thấy được sự phê phán hóm hỉnh, hài hước, và kể lại nội dung câu truyện với giọng kể, cử chỉ, điệu bộ gây cười ở người nghe, nét mặt phù hợp, nâng kịch tính câu chuyện lên cao hơn. Song song với việc rèn luyện kỹ năng nghe-nói, học sinh rèn kỹ năng viết: nắm kỹ thuật viết, luật viết câu văn, đoạn văn hoàn chỉnh, đúng về ngữ pháp, bố cục, phù hợp văn cảnh hoặc môi trường giao tiếp. Mỗi bài văn của học sinh không đơn thuần là kể, tả ngắn về con người, sự vật, sự việc mà thông qua đó thể hiện suy nghĩ, cảm xúc, sự đánh giá, thái độ yêu-ghét, trân trọng hay phê phán của các em. Thông qua bài viết của các em người đọc hiểu được tâm tư tình cảm của các em về một vấn đề nào đó. Bổ trợ cho việc rèn kỹ năng nghe-nói trong tiết Tập làm văn, phần kể chuyện của tiết Tập đọc cũng chú trọng đến rèn kỹ năng giao tiếp.
Ví dụ: Dạy Tập đọc kể chuyện. Tiết 2-Bài Đất quý đất yêu-Tuần 11.
Nhiệm vụ của học sinh là: quan sát tranh, sắp xếp lại tranh theo trình tự nội dung câu chuyện Đất quý đất yêu. Sau đó dựa vào tranh kể lại câu chuyện, đúng nội dung, ngắn gọn, từ ngữ súc tích, dễ hiểu, biết kết hợp lời nói với cử chỉ, điệu bộ để câu chuyện thêm hấp dẫn sinh động; giúp người nghe thấy được phong tục tập quán của người Ê-ti-ô-pi-a: họ coi đất đai là thứ thiêng liêng, cao quý nhất.
Thông qua kể lại câu chuyện theo tranh, học sinh hình thành và rèn luyện khả năng diễn đạt, phục vụ tốt cho bài tập nói của tiết Tập làm văn.
Tóm lại: Học sinh rèn luyện khả năng quan sát, nói-viết, rút ra những nét điển hình, đặc trưng của từng vùng miền, thấy được vẻ đẹp đáng yêu, đáng tự hào của mỗi vùng miền. Từ đó hình thành nuôi dưỡng

Source: https://vh2.com.vn
Category : Chế Tạo