Networks Business Online Việt Nam & International VH2

Phương pháp tiếp cận tạo ra sáng kiến là gì

Đăng ngày 10 October, 2022 bởi admin

Sáng kiến kinh nghiệm :Hướng tiếp cận bài học nhằm tạo hứng thú cho học sinh
khi học môn Ngữ văn bậc THPT
MỤC LỤC
PHẦN I : ĐẶT VẤN ĐỀ. 1
1.

Lý do chọn đề tài 1

2.

Mục đích nghiên cứu. 2

3.

Nhiệm vụ nghiên cứu. 2

4. Đối tượng nghiên cứu. 3
5.

Phạm vi nghiên cứu. 3

6.

Phương pháp nghiên cứu. 3

7. Lịch sử đề tài 3
8.

Cấu trúc của SKKN.. 3

PHẦN II : NỘI DUNG.. 4
Chương 1. 4
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 4
1.1. Cơ sở lý luận chung 4
1.2. Các khái niệm cơ bản. 5
1.3. Các góc độ tác động của sự hứng thú. 6
Chương 2. 8
THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU.. 8
2.1. Khảo sát số liệu. 8
2.2. Về phía giáo viên. 8
2.3. Về phía người học: 9

Chương 3. 10
GIẢI PHÁP THỰC HIỆN.. 10
3.1. Tạo tâm thế học tập. 10
3.2. Linh hoạt, đa dạng trong phương pháp. 11
3.3. Ứng dụng công nghệ thông tin. 13
3.4. Lồng ghép các trò chơi trong dạy học Ngữ văn. 16
Chương 4. 21
KẾT QUẢ THỰC HIỆN.. 21
4.1. Kết quả từ các phiếu hỏi 21
4.2. Kết quả từ quan sát thực tế. 22
4.3. Kết quả kiểm tra. 22
PHẦN 3 : KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 22
1.

Kết luận. 22

2.

Kiến nghị 23

TÀI LIỆU THAM KHẢO.. 25

PHẦN I : ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài
Đổi mới căn bản, toàn diện là yêu cầu của giáo dục hiện nay. Việc xây
dựng, áp dụng những hướng tiếp cận, phương pháp mới trong dạy học
bộ môn để nâng cao hiệu quả dạy và học là yêu cầu phải được giải
quyết. Đặc biệt, với xu hướng học lệch, học theo ban, chọn ngành
nghề theo khối hiện nay tạo ra rất nhiều bất cập trong việc lựa chọn

môn học. Các môn xã hội có xu hướng bị coi nhẹ. Môn Ngữ văn cũng
không nằm ngoài xu hướng ấy.
Thời gian qua, Ngành giáo dục đã thực hiện đổi mới phương pháp dạy
học ở tất cả các môn học trong đó có môn Ngữ văn. Tuy nhiên, điều
khiến cho những giáo viên dạy văn băn khoăn, trăn trở hơn hết đó là
học sinh thường lựa chọn các môn học tự nhiên với mục tiêu chọn
trường, ngành, nghề sau này dễ dàng và thuận lợi hơn. Nhiều học sinh
cho rằng Ngữ văn là môn khoa học xã hội, tính ứng dụng không cao,
không thiết thực với cuộc sống, công việc. Từ đó, dẫn đến tình trạng
chán học văn, hoặc học mang tính đối phó. Học sinh thích học văn
ngày càng ít đi.
Vì vậy, việc đổi mới phương pháp dạy học, trong đó có đổi mới phương
pháp, tìm hướng tiếp cận mới trong dạy học môn Ngữ văn, tạo hứng
thú, nâng cao năng lực học tập cho học sinh, giúp học sinh cảm nhận
được cái hay, cái đẹp, biết cảm thông, yêu thương chia sẻ với những
số phận, cuộc đời thông qua mỗi trang sách, thông qua từng tác phẩm
là điều rất cần thiết. Văn học là nhân học học văn là để hình thành
nhân cách con người. Và Ngữ văn là môn học quan trọng giúp học sinh
có kỹ năng giao tiếp ứng xử trong cuộc sống. Tìm hướng tiếp cận, đổi
mới phương pháp, từ đó tạo hứng thú trong học tập cho học sinh, khơi
gợi, đánh thức niềm đam mê với văn học, tìm về với giá trị đời sống
tâm hồn của con người là vấn đề được đặt ra và cần phải giải quyết.
Luận ngữ có câu: Biết mà học không bằng thích mà học, thích mà học
không bằng say mà học. Yếu tố cảm xúc, say mê chính là động lực
lớn thúc đẩy, nuôi dưỡng sự cố gắng, nỗ lực học tập không ngừng của
mỗi chúng ta.
Với vai trò là người tổ chức, hướng dẫn và điều khiển quá trình học tập
của học sinh, hơn ai hết giáo viên phải tìm, xây dựng hướng tiếp cận

mới, phương pháp mới để phát tính tích cực sáng tạo của người học,
tạo hứng thú, hưng phấn, khơi dậy đam mê học tập ở học sinh.
Ngày nay, với xu thế, tác động của cơ chế thị trường, nhiều giá trị
nhân văn, nhiều yếu tố văn hóa đang trở nên bị coi nhẹ, bị lai tạp, giao
thoa, mai một. Từ thực tế ấy, đòi hỏi giáo viên nói chung và đặc biệt là
các thầy cô  giáo viên dạy Ngữ văn nói riêng phải nhận thức rõ vai trò
và trách nhiệm của mình  những người nghệ sĩ tâm hồn là vô cùng
quan trọng và nhiều thử thách. Thực tế ấy cũng khiến cho việc tổ
chức, dẫn dắt học sinh tiếp cận tác phẩm văn chương, tìm hiểu các giá
trị nhân văn, đạo lí truyền thống càng trở nên nhọc nhằn hơn. Nó đòi
hỏi người giáo viên Ngữ văn ngoài chuyên môn vững vàng cần có tâm
thế tốt, luôn nhiệt huyết, yêu nghề, luôn trau dồi đổi mới phương pháp
để tạo được hứng thú học tập, nâng cao chất lượng giáo dục.
Có thể nói, cốt lõi của việc tạo hứng thú, tạo tâm thế hưng phấn, tích
cực cho học sinh trong học tập bộ môn nói chung và môn Ngữ văn nói
riêng là đổi mới phương pháp dạy học, dạy học theo hướng lấy hoạt
động học tập của học sinh làm trung tâm, học trò là người chủ động
khám phá, lĩnh hội kiến thức, người thầy đóng vai trò là người tổ chức,
chỉ đạo. Vì vậy, việc nghiên cứu tìm những hướng tiếp cận bài học linh
hoạt, khoa học, hợp lí nhằm tạo hứng thú học tập của học sinh trong
dạy học Ngữ văn là rất cần thiết.
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, kết hợp kinh nghiệm giảng dạy
thực tiễn của bản thân, với mong muốn, trong từng bài dạy, trong
từng giờ học văn, học sinh luôn hứng thú, chủ động, yêu thích môn
học, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả dạy và học tôi chọn đề
tài: Hướng tiếp cận bài học nhằm tạo hứng thú cho học sinh
khi học môn Ngữ văn bậc THPT.
2. Mục đích nghiên cứu

Mục đích của tôi khi nghiên cứu vấn đề này là tìm được những
hướng tiếp cận, phương pháp dạy học tích cực nhằm tạo được hứng
thú học tập môn Ngữ văn của học sinh khi học môn Ngữ văn nói chung
và Ngữ văn THPT nói riêng. Đồng thời, qua thực trạng, tìm hiểu được
nguyên nhân, các yếu tố ảnh hưởng tới việc học văn của học sinh, từ
đó đề xuất một số biện pháp tạo hứng thú học tập môn Ngữ văn, góp
phần nâng cao hơn nữa chất lượng học tập môn Văn cho học sinh
THPT.
Hơn nữa, qua đề tài này tôi mong rằng có thể góp phần nào đó trong
việc bồi dưỡng tâm hồn người học, như Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh
từng nói: Học văn là làm cho tâm hồn mỗi con người phong phú
thanh cao và yêu đời hơn, người học văn sẽ có ý thức được và không
bao giờ là người thô lỗ, cục cằn.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu, tìm hiểu các phương pháp dạy học, hướng tiếp cận bài
học nhằm tạo sự hứng thú học tập cho học sinh.
Đề xuất biện pháp, hướng tiếp cận bài học tạo được hứng thú trong
học tập từ đó nâng cao hiệu quả dạy và học.

4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
Tìm hiểu phương pháp, hướng tiếp cận bài học nhằm tạo hứng
thú trong việc dạy và học môn Ngữ văn ở THPT.
5. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi kiến thức: Chương trình Ngữ văn bậc THPT.
Phạm vi địa bàn nghiên cứu: Học sinh các lớp được phân công giảng
dạy tại nhà trường đang công tác.

Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 09 năm 2015 đến tháng 03 năm
2016.
6. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp điều tra (Phỏng vấn, phiếu điều tra).
Phương pháp đối chứng.
Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
Phương pháp kiểm tra.
7. Lịch sử đề tài
Vấn đề nghiên cứu Hướng tiếp cận bài học nhằm tạo hứng thú cho học
sinh khi học môn Ngữ văn bậc THPT đã được nhiều tác giả quan tâm
nghiên cứu như :

Đổi mới phương pháp dạy học trong các trường đại học,
cao đẳng đào tạo giáo viên trung học cơ sở. Hà Nội tháng
9/2003.

Các phương pháp dạy học hiệu quả. NXB trẻ, 2001.

M. Iacoplep. Phương pháp và kỹ thuật lên lớp ở trường phổ
thông. NXB Giáo dục, 1975  1978.

Tuy nhiên các tác giả chỉ chỉ đề cập ở mức độ khái quát, có tính chất lí
luận, chứ chưa đi sâu tìm hiểu Hướng tiếp cận bài học nhằm tạo hứng
thú cho học sinh khi học môn Ngữ văn bậc THPT một cách cụ thể.
8. Cấu trúc của SKKN
Gồm : 3 phần
Phần I : Đặt vấn đề
Phần II : Nội dung
Phần III : Kết luận, kiến nghị

PHẦN II : NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1.  Cơ sở lí luận chung
Bác Hồ đã từng căn dặn các thế hệ học sinh : Non sông Việt Nam có
trở nên tươi đẹp được hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài
vinh quanh để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không,
chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em. Và như Jacques
Delors đã nói : Giáo dục là một trong những công cụ mạnh nhất mà
chúng ta có trong tay để đào tạo nên tương lai. Đảng và Nhà nước ta
đã luôn xác định Giáo dục là quốc sách hàng đầu.
Chúng ta đang trên đà đổi mới, hội nhập cùng xu thế chung của thời
đại. Cùng với sự đổi mới đó, đòi hỏi nền giáo dục nước ta có sự đổi
mới, đổi mới toàn diện để bắt kịp thời đại.
Đảng ta đã khẳng định: Giáo dục là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn
dân và giáo viên là nhân tố quyết định chất lượng giáo dục (Nghị
quyết TW II  Khóa VIII).
Văn kiện Đại hội XI của Đảng xác định: Phát triển giáo dục là quốc
sách hàng đầu. Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam
theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội
nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội
ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt. Tập trung nâng cao
chất lượng giáo dục, đào tạo, coi trọng giáo dục đạo đức, lối sống,
năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, khả năng lập nghiệp. Đổi mới
cơ chế tài chính giáo dục. Thực hiện kiểm định chất lượng giáo dục,

đào tạo ở tất cả các bậc học. Xây dựng môi trường giáo dục lành
mạnh, kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường với gia đình và xã hội.
Luật Giáo dục đã ghi: Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy
tích tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với
đặc điểm từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả
năng làm việc theo nhóm, rèn kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực
tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho
học sinh.
Như vậy, vai trò của giáo dục là cực kì quan trọng, liên quan đến sự
phát triển bền vững của một quốc gia. Đảng, Nhà nước và nhân dân ta
luôn nhận thức rất rõ điều đó. Trong xu thế mới, điều kiện phát triển
mới, thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước giáo dục càng
được ưu tiên hàng đầu. Để đáp ứng nhu cầu mới, nhất thiết phải đẩy
mạnh đổi mới, đổi mới toàn diện giáo dục. Trong đó, việc đổi mới
phương pháp dạy học, đặc biệt là với môn Ngữ văn là điều rất cần
thiết. Trong đó nhiệm vụ đầu tiên là làm cách nào để người học luôn
sẵn tâm thế và yêu thích môn học, từ đó say mê, chủ động tích cực coi
học tập là nhiệm vụ hàng đầu.
1.1.2. Các khái niệm cơ bản
Với đề tài đã lựa chọn Hướng tiếp cận bài học nhằm tạo hứng thú cho
học sinh khi học môn Ngữ văn lớp 11 THPT trước hết tôi muốn làm rõ
một số vấn đề: Hướng tiếp cận, hứng thú, hứng thú học tập là gì?
Theo Từ điển tiếng Việt (nhà xuất bản trẻ, 2002), hướng được hiểu
là phía, mặt, ngoảnh về. Ở đây chúng ta có thể hiểu hướng là phương
thức, phương hướng, góc độ, chiều hướng tiếp cận vấn đề.
Theo Từ điển tiếng Việt (nhà xuất bản trẻ, 2002, tiếp cận là gần kề,
sát cạnh.

Từ những năm 90 của thế kỉ trước, khi so sánh quốc tế về thiết kế
chương trình giáo dục, người ta thường nêu lên hai cách tiếp
cận chính:
+ Thứ nhất là tiếp cận dựa vào nội dung hoặc chủ đề và thứ hai là
tiếp cận dựa vào kết quả đầu ra. Để ngắn gọn xin gọi cách 1 là tiếp
cận nội dung và cách 2 là tiếp cận kết quả đầu ra.
+ Tiếp cận nội dung là cách nêu ra một danh mục đề tài, chủ đề của
một lĩnh vực/môn học nào đó. Tức là tập trung xác định và trả lời câu
hỏi: Chúng ta muốn học sinh cần biết cái gì? Cách tiếp cận này chủ
yếu dựa vào yêu cầu nội dung học vấn của một khoa học bộ môn nên
thường mang tính hàn lâm, nặng về lý thuyết và tính hệ thống, nhất
là khi người thiết kế ít chú đến tiềm năng, các giai đoạn phát triển,
nhu cầu, hứng thú và điều kiện của người học.
+ Thứ hai là tiếp cận kết quả đầu ra, là cách tiếp cận nêu rõ kết quả
những khả năng hoặc kĩ năng mà học sinh mong muốn đạt được vào
cuối mỗi giai đoạn học tập trong nhà trường ở một môn học cụ thể. Nói
cách khác, cách tiếp cận này nhằm trả lời câu hỏi : chúng ta muốn học
sinh biết và có thể làm được những gì?
Như vậy, có thể hiểu hướng tiếp cận là phương pháp, cách thức, góc
độ tìm hiểu làm rõ một vấn đề, nội dung nào đó và hướng đến đạt
được mục đích đề ra. Ở đây chúng ta có thể hiểu đó là hướng tiếp cận
bài học, hướng tìm hiểu nội dung nhằm tạo hứng thú, say mê kích
thích khả năng học tập của học sinh.
Theo Đại từ điển Tiếng Việt  Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin năm
1998, hứng thú có hai nghĩa, đó là Biểu hiện của một nhu cầu, làm
cho chủ thể tìm cách thỏa mãn, tạo ra khoái cảm, thích thú và huy
động sinh lực để cố gắng thực hiện và hứng thú là sự ham thích.

Qua khái niệm trên ta thấy rằng: hứng thú có nghĩa là tâm trạng vui
vẻ, thích thú, hào hứng của con người đối với một hoạt động nào đó. Ở
đây là hứng thú, chủ động tích cực học tập nói chung và với môn Ngữ
văn nói riêng.
Khi có được sự say mê, thích thú con người sẽ làm việc có hiệu quả
hơn, dễ thành công và thành công nhanh hơn, bởi lẽ hứng thú còn
chính là động lực thúc đẩy hoạt động của con người đi sâu vào bản
chất của đối tượng nhận thức mà không dừng lại ở bề ngoài của hiện
tượng, nó đòi hỏi con người phải hoạt động tích cực, chịu khó tìm tòi
hoặc sáng tạo. Hứng thú có nhiều tác dụng trong cuộc sống nói chung
và trong dạy học nói riêng.
1.1.3. Các góc độ tác động của sự hứng thú
1.1.3.1. Tác động của hứng thú trong cuộc sống
Hứng thú có tác dụng chống lại sự mệt nhọc và những cảm xúc tiêu
cực, duy trì trạng thái tỉnh táo ở con người.
Hứng thú định hướng và duy trì tính tích cực của con người, làm con
người chịu khó tìm tòi và sáng tạo.
Hứng thú đóng vai trò chủ đạo trong sự phát triển và hình thành
nhân cách con người, nó tạo nên khả năng cho hoạt động trí tuệ, thẩm
mỹ và các dạng hoạt động khác.
Hứng thú làm cho con người xích lại gần nhau hơn.
1.1.3.2. Tác động của hứng thú trong dạy học
Dạy học là một nghệ thuật, người dạy  giáo viên là những kỹ sư tâm
hồn, sản phẩm tạo ra của quá trình dạy học là sản phẩm đặc biệt
con người (nhân cách). Nó không hề giống với bất kỳ một ngành nghề
nào. Điều đó đặt ra những yêu cầu khắt khe đối với giáo viên. Theo
William A. Ward thì:

Người thầy trung bình chỉ biết nói,
Người thầy giỏi biết giải thích,
Người thầy xuất chúng biết minh họa,
Người thầy vĩ đại biết cách truyền cảm hứng
Từ đó ta thấy việc truyền cảm hứng (gây hứng thú) học tập cho học
sinh, người học là điều cực kì quan trọng và cần thiết. Bởi lẽ: Chúng
ta không thể dạy ai làm bất cứ điều gì, chúng ta chỉ có thể giúp họ
khám phá điều đó (Theo Galileo Galilei).
Cho nên, nếu khơi dậy được sự hứng thú, say mê cho học sinh thì sẽ
tạo ra động cơ học tập tích cực, giúp các em hăng say, nỗ lực vượt qua
mọi khó khăn, trở ngại để đạt kết quả học tập tốt nhất, và từ đó người
học sẽ tiếp nhận tri thức một cách chủ động và tự giác, không bị ép
buộc,
Khi hứng thú học tập, người học sẽ:
Hăng hái trả lời các câu hỏi của giáo viên, bổ sung câu trả lời của
bạn, thích phát biểu ý kiến của mình trước những vấn đề nêu ra.
Hay nêu thắc mắc, đòi hỏi giải thích cặn kẽ những vấn đề chưa hiểu
rõ ràng.
Chủ động vận dụng kiến thức kĩ năng đã học để nhận thức vấn đề
mới, tập trung chú ý vào vấn đề đang học.
Kiên trì hoàn thành bài tập, không nản chí trước những tình huống
khó khăn
Hứng thú còn giúp học sinh tích cực học tập qua những cấp độ từ
thấp đến cao:
+ Bắt chước: gắng sức làm theo các mẫu hành động của thầy, của
bạn

+ Tìm tòi: độc lập giải quyết vấn đề nêu ra, tìm kiếm những cách giải
quyết khác nhau về một vấn đề
+ Sáng tạo: tìm ra cách giải quyết mới, độc đáo, hữu hiệu.
Tóm lại, khi học sinh hứng thú với bài học, với môn học sẽ tạo không
khí thi đua học tập sôi nổi, tích cực, say mê học hỏi, tìm tòi, nghiên
cứu đây chính là một trong những tiền đề dẫn đến sáng tạo và tài
năng. Và tôi tin rằng quá trình dạy học nhất định sẽ đạt được kết quả
cao.
Hứng thú, ham mê học tập là một trong những nguồn gốc chủ
yếu nhất của việc học tập có kết quả cao, là con đường dẫn đến sáng
tạo và tài năng.(Viện KHGD   Một số vấn đề lý luận và thực tiễn.)
1.2. Cơ sở thực tiễn đề tài
Việc đổi mới phương pháp dạy học là một nhiệm vụ, yêu cầu bắt buộc
đối với giáo dục nước ta hiện nay, đặc biệt đối với hệ thống giáo dục
phổ thông, trong đó có việc dạy và học môn Ngữ văn. Những năm gần
đây, việc tích cực đổi mới, đổi mới căn bản, toàn diện trong giáo dục
của chúng ta đã đem lại nhiều kết quả khả quan. Tuy nhiên, vẫn còn
đó nhiều khó khăn, bất cập và cần tích cực đổi mới hơn nữa. Dạy và
học môn Ngữ văn ở các trường THPT chưa đạt được yêu cầu chất lượng
và hiệu quả như mong muốn. Đặc biệt, sự mến mộ yếu thích của
người học đối với môn học không còn nhiều mặn mà.
1.2.1. Khảo sát số liệu
Bảng 1: Khảo sát số liệu học sinh yêu thích hứng thú với môn học đầu năm học
2015  2016 lớp 11 A4
Đối tượng khảo
sát
Sĩ số

Mức độ hứng thú
Thích
Số

Không thích
%

Số lượng %

Bình thường
Số lượng %

lượng
40

7

17.5

10

25

23

57.5

Bảng 2: Khảo sát chất lượng môn học đầu năm
Khảo sát
điểm
40

Giỏi
TS

%

0

0

4

Khá

Trung bình

Yếu

Kém

TS %

TS

%

TS

%

TS

%

10

16

40

17

42.5

3

7.5

Số liệu được khảo sát đầu năm học 2015  2016, trên tổng số
40 học sinh, lớp 11A4, với 26 nữ, 14 nam.
Nhận thấy, tỷ lệ học sinh yêu thích và hứng thú với môn học là không
cao, chỉ chiếm 17.5%. Kết quả khảo sát qua bài kiểm tra đánh giá
kiến thức môn học của học sinh cũng cho thấy số lượng học sinh có
điểm môn học yếu, kém cao chiếm 50%.
Theo tôi, Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó, cả nguyên
nhân chủ quan lẫn khách quan.
1.2.2. Về phía giáo viên
Theo tôi, có rất nhiều nguyên nhân làm ảnh hưởng đến chất lượng dạy
học bộ môn Ngữ văn hiện nay trong các trường THPT, từ việc thiết kế
chương trình chưa hợp lý : nặng về lý thuyết thiếu thực hành đã gây
nhàm chán và lãng phí thời gian mà lại không phát huy sự tìm tòi
khám phá những điều mới mẻ của học sinh; việc thiếu thốn về trang
thiết bị dạy học như tranh ảnh minh họa, đồ dùng trực quan, dụng cụ
nghe nhìn, tài liệu tham khảo cho giáo viên cũng như học sinh khiến
cho việc áp dụng dạy học theo phương pháp mới gặp nhiều khó khăn.
Một trong những nguyên nhân cơ bản nữa là việc vận dụng đổi mới
phương pháp vào giảng dạy ở môn Ngữ văn chưa đáp ứng yêu cầu.
Chính vì thế, dẫn đến việc dạy  học chay tràn lan, đơn điệu, nặng về
thuyết giảng một chiều, để trò ghi chép rồi học thuộc ý của thầy. Cách

học theo lối thụ động đó sẽ không gây được sự hào hứng tìm tòi, khám
phá những điều mới mẻ trong mỗi giờ học. Do đó, những kiến thức học
sinh thu nhận được thiếu sâu sắc, không để lại những ấn tượng lâu dài.
1.2.3. Về phía người học:
Phải thừa nhận một thực tế là đa số học sinh hiện nay không thích học
môn Ngữ văn, không có hứng thú trong việc tiếp thu kiến thức văn
chương.
Do tính đặc thù môn học, là một môn học mang tính cảm xúc, tư duy
trừu tượng, chịu chi phối rất nhiều bởi yếu tố văn hóa, tâm lí, cảm xúc,
đòi hỏi người học phải có trí tưởng tượng phong phú. Đây cũng là môn
học mà nội dung không chỉ hiện ra trên dạng câu từ mà nó còn bao
hàm, ẩn chứa nhiều tầng nghĩa sâu xa (đặc biệt phần văn học), vì thế
việc tiếp nhận môn học này đối với học sinh là rất khó khăn. Mà học
sinh nhiều em rất thiếu lòng quyết tâm học tập, cứ khó khăn là nản,
bỏkhông học, dẫn đến yếu kém rồi chán môn học đó.
1.3. Tiểu kết chương 1
Như vậy, dạy học theo hướng tiếp cận bài học nhằm tạo hứng thú cho
học sinh khi học môn Ngữ văn bậc THPT có tác dụng bồi dưỡng, nâng
cao kiến thức và tạo hứng thú cho học sinh trong quá trình học môn
Ngữ văn ở bậc THPT.
Điều quan trọng là dạy học nhằm tạo hứng thú cho học sinh đòi hỏi
phải tổ chức hoạt động học tích cực,và sáng tạo làm cho học sinh say
mê học tập. Dạy học theo hướng tiếp cận bài học nhằm tạo hứng thú
cho học sinh khi học môn Ngữ văn bậc THPT, có ưu thế trong việc tạo
ra động cơ, hứng thú học tập cho học sinh. tăng cường khả năng vận
dụng kiến thức tổng hợp vào giải quyết các tình huống thực tiễn, ít
phải ghi nhớ kiến thức bài học một cách máy móc. Qua nghiên cứu cơ

sở thực tiễn, nghiên cứu đội ngũ GV, HS và cơ sở thiết bị dạy học Ngữ
văn, cùng với yêu cầu đổi mới nội dung và phương pháp dạy học Ngữ
văn tôi nhận thấy đề tài hoàn toàn có khả năng thực thi ở trường
THPT.

Chương 2
PHƯƠNG PHÁP TIẾP CẬN BÀI HỌC NHẰM TẠO HỨNG THÚ
CHO HỌC SINH KHI HỌC MÔN NGỮ VĂN Ở BẬC THPT

Trước đây, phương pháp dạy học thường thiên về truyền thụ, học ghi
nhớ nhiều, gây áp lực đối với người học. Từ đó tạo ra tâm lí sợ học, sợ
học thuộc.
Với phương pháp dạy học thường áp dụng trước đây, học sinh luôn thụ
động, quen nghe, quen chép, ghi nhớ rồi sẽ tái hiện một cách máy
móc những gì giáo viên truyền đạt. Điều này phần nào đã thủ tiêu khả
năng sáng tạo, tư duy của người học, biến người học thành những
người quen suy nghĩ và diễn đạt bằng những ý thuộc lòng, bằng những
lời có sẵn của thầy cô, sách vở. Do đó, học sinh luôn lệ thuộc vào sách
vở, học sinh không hào hứng chủ động, thiếu sáng tạo và thiếu tự tin.
Những trăn trở làm sao học sinh của mình luôn yêu thích môn Ngữ
văn; làm thế nào để chất lượng học tập môn Ngữ văn được nâng cao
và điều quan trọng là làm sao để người học luôn chủ động tích cực,
say mê, tự tin trong học tập; biết vận dụng kiến thức vào thực tế; chủ
động khám phá, phát hiện những cái hay, cái đẹp, các giá trị tác phẩm
văn chương; bồi dưỡng tình yêu đối với văn học, bồi dưỡng tâm hồn,
giá trị nhân văn luôn là điều trăn trở mà tôi tin rằng không chỉ bản

thân tôi mà có lẽ là của tất cả những thầy cô, đồng nghiệp của tôi luôn
đau đáu.
Xuất phát từ thực trạng ấy, từ thực tế giảng dạy của bản thân, qua
trao đổi học hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp tôi mạnh dạn đề xuất
một số giải pháp, mong góp phần nào sẽ cải thiện được thực trạng dạy
và học Ngữ văn hiện nay, cải thiện được quan điểm tình cảm, ý thức
học tâp của học sinh đối với môn Ngữ văn, đặc biệt đối với học sinh ở
bậc THPT.
2.1. Tạo tâm thế học tập
2.1.1. Tác động bằng tình cảm
Đồng chí Lê Duẩn từng nói: Thầy giáo không chỉ dạy cho học
trò bằng những công thức, bằng những câu, những từ có sẵn mà phải
dạy bằng tất cả tâm hồn mình.
Để học sinh luôn chủ động, tích cực, tự giác đặc biệt có hứng thú với
môn học, trước hết, giáo viên phải truyền dạy tri thức bằng tất cả trái
tim và lòng tâm huyết của mình, phải để người học cảm nhận được
tâm hồn mình trong mỗi bài giảng.
Thực sự quan tâm đến học trò, biết lắng nghe, chia sẻ với những suy
nghĩ, tâm tư của học trò. Sẵn sàng là người bạn chia sẻ. Từ đó tạo
được niềm tin, xóa bớt được khoảng cách giữa giáo viên với học sinh
(tâm lí, tuổi tác), tạo ra không khí học tập thân thiết, gần gũi Theo
quy luật lây lan tình cảm, từ chỗ yêu quí, trân trọng thầy cô đến thích
học môn học đó là một khoảng cách rất ngắn. Từ đó học sinh yêu
thích, say mê học môn học mà mình dạy.
2.1.2. Xây dựng không khí lớp học
Học tập căng thẳng thường làm chúng ta mệt mỏi về tinh thần. Chỉ có
sự tận tình, tổ chức giờ học một cách khoa học, sinh động mới kích

thích sự hứng thú học tập trong học sinh. Tạo ra bầu không khí học
thoải mái, tích cực, có tính thi đua giữa các học sinh là rất cần thiết.
Như vậy, không khí lớp học có ý nghĩa quyết định đối với việc nâng cao
chất lượng dạy học, cảm xúc tích cực sẽ làm tăng hiệu suất của hoạt
động nhận thức trong học sinh. Có nhà giáo dục đã từng nói Một ông
thầy mà không dạy được cho học trò ham muốn học tập thì chỉ là đập
búa trên sắt nguội mà thôi. Cho nên, giáo viên phải biết cách tạo
không khí thoải mái khi vào lớp học. Giáo viên có thể tạo không khí lớp
học bằng dẫn các chuyện vui, các câu thơ, câu văn hay, bằng cách đặt
vấn đề bất ngờ, gợi được sự chú ý, bằng các tranh ảnh, sơ đồ để gợi
hứng thú, kích thích trí tò mò muốn khám phá bài học cho học sinh.
Trong tiết dạy, chỉ cần một ví dụ thực tế gắn với bài giảng, một mẩu
truyện về nhà văn sẽ làm cho bầu không khí học tập thay đổi tích
cực; học sinh sẽ bị cuốn hút vào những giai thoại, hay những liên hệ
mà giáo viên kể. Từ đó học sinh sẽ hứng thú và tiếp thu bài tốt hơn.
Chính sự chú ý, hứng thú do không khí lớp mang lại sẽ kích thích các
học sinh tích cực làm việc hơn, tư duy sẽ được thúc đẩy. Học sinh sẽ
chủ động đi sâu tìm hiểu bản chất, ý nghĩa của vự việc, hiện tượng;
kết quả là học sinh nhanh hiểu bài và nhớ bài lâu hơn.
2.2. Linh hoạt, đa dạng trong phương pháp
2.2.1. Linh hoạt trong phương pháp
Giáo viên luôn vận dụng nhiều phương pháp và các hình thức tổ chức
dạy học, tạo nên sự phong phú đa dạng trong các hoạt động của quá
trình dạy học sẽ làm cho học sinh cảm thấy thoải mái, không bị ức chế
về mặt tâm lí bởi sự nhàm chán, mệt mỏi vì sự đơn điệu tẻ nhạt.
Ví dụ: Khi dạy phần Tiểu dẫn giáo viên cho học sinh điền thông tin vào phiếu, hoặc ghi
sẵn trên bảng và để trống phần thông tin cần điền:

1. Tác giả:
a. Cuộc đời:
Năm sinh: ., năm mất..
Tên khai sinh:.
Quê quán:.
Xuất thân trong gia đình:.
Sự kiện tiêu biểu trong cuộc đời:
b. Sự nghiệp sáng tác:
Các tác phẩm chính:.
Phong cách nghệ thuật:
2. Tác phẩm:
Xuất xứ:
Thể loại :.
Giáo viên yêu cầu học sinh điền vào chỗ còn trống. Học sinh thay nhau
làm, có thể phân theo nhóm thực hiện theo yêu cầu của giáo viên.
Lớp học sẽ sinh động và học viên hứng thú học tập hơn. Từ đó, ta thấy
rằng các học sinh sẽ tiếp thu kiến thức tốt hơn nếu trong giờ học có sự
xen kẽ nhau giữa các hoạt động dạy học.
2.2.2. Đưa ra các tình huống có vấn đề.
Dạy học theo tình huống là giáo viên không trình bày đơn thuần nội
dung bài học mà sắp xếp lại tài liệu sao cho toàn bộ bài giảng là vấn
đề lớn được chia thành một số vấn đề nhỏ có liên quan chặt chẽ với
nhau, rồi kích thích hứng thú cho học sinh và khéo léo đưa các học
sinh vào những tình huống có vấn đề. Từ đó mà bắt đầu những phần

của bài giảng. Và như thế, hứng thú sẽ được duy trì đến khi nào chưa
tìm ra được câu trả lời.
Ví dụ 1: Khi dạy tác phẩm Chí Phèo  sách Ngữ văn 11, tập I, giáo
viên đặt ra những tình huống có vấn đề:
Tại sao đến lúc cuối cùng Chí Phèo lại xách dao đến thẳng nhà Bá
Kiến?
Tại sao Chí Phèo lại hay chửi và chửi nhiều đến thế mà hóa chẳng
chửi đích danh ai?
Tại sao Nam Cao lại để cho 3 con chó lên tiếng đáp lại tiếng chửi
của Chí Phèo?
Tại sao Nam Cao lại xây dựng nhân vật thị Nở xấu ma chê, quỷ hờn
như vậy ?
Ví dụ 2: Khi dạy bài Vội vàng của Xuân Diệu, giáo viên cũng đặt học
sinh vào tình huống có vấn đề:
Thường khi nhắc đến sự vội vàng trong cuộc sống là muốn chỉ sự
thiếu cẩn thận, hấp tấp, khó thành. Nhưng tại sao Xuân Diệu lại muốn
sống vội vàng, sự vội vàng ấy có gì đặc biệt ?
Giáo viên, từng bước hướng dẫn học sinh giải quyết các vấn đề, từ đơn
giản đến phức tạp, từ dễ đến khó. Từng bước chiếm lĩnh kiến thức,
không những tạo nên sự hưng phấn mà động lực thúc đẩy khả năng tự
học, hiểu và sáng tạo, giải quyết các vấn đề trong thực tế cuộc sống.
2.2.3. Liên hệ với thực tế
Việc gắn nội dung bài giảng với thực tế cuộc sống là một trong những
biện pháp gây hứng thú học tập môn Ngữ văn. Bởi lẽ, nếu chỉ sa đà với
những lí thuyết khô khan mà xa rời thực tế thì bài học sẽ thiếu tính
thực tiễn, mất đi tính thuyết phục và sự lôi cuốn, không kích thích

được hứng thú học tập của học sinh. Ngữ văn là môn học đặc thù,
phản ánh thực tế cuộc sống qua những hoàn cảnh, tính cách, số phận
xuất phát từ ngoài đời sống. Nhiều kỹ năng, kiến thức các em học
được sẽ được vận dụng vào rất nhiều tình huống của cuộc sống. Vì
vậy, gắn dạy học với thực tế cuộc sống không những có tính chất bắt
buộc trong dạy học Ngữ văn mà còn rất cần thiết để gây hứng thú học
tập cho học sinh.
Ví dụ:
Khi dạy bài Bản tin  Ngữ văn 11  tập 2; cần lưu ý cho học sinh đặc
điểm, yêu cầu của bản tin, viết được bản tin về vấn đề đời sống, xã hội
quan tâm. Viết các bản tin về hoạt động thi đua chào mừng ngày Hiến
chương nhà giáo Việt Nam; văn hóa Tết của gia đình
Khi dạy bài Phỏng vấn và trả lời phỏng vấn  sách Ngữ văn 11
tập I, cho học sinh chuẩn bị và viết một số bài phỏng vấn về vấn đề
thường gặp trong đời sống : phỏng vấn và trả lời phỏng vấn khi xin
việc, phỏng vấn về kinh nghiệm học tốt của bạn bè, phỏng vấn về các
vấn đề xã hội đang quan tâm : giao thông, môi trường, bạo lực học
đường, tình yêu tuổi học trò sẽ tạo cho học sinh sự tự tin, yêu thích
môn học.
2.3. Ứng dụng công nghệ thông tin
Tích cực ứng dụng công nghệ thông tin, phát huy khả năng hỗ
trợ của phương tiện, công nghệ vào các bài giảng: lồng ghép những
đoạn phim, những tranh ảnh, những khúc ngâm, bài thơ được phổ
nhạc vào quá trình giảng dạy, không những tạo không khí hứng thú
học tập, mà đó là một kênh thông tin hữu hình, trực quan để học sinh
nhận biết, hiểu bài sâu sắc.
Với việc ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học đòi hỏi mỗi giáo
viên cần nắm vững các quy trình về soạn bài giáo án điện tử. Qua quá

null

Source: https://vh2.com.vn
Category : Truyền Thông