Networks Business Online Việt Nam & International VH2

Giáo trình : PHƯƠNG PHÁP TIẾP CẬN CÓ SỰ THAM GIA TRONG PHÁT TRIỂN LÂM NGHIỆP XÃ – Tài liệu text

Đăng ngày 10 October, 2022 bởi admin

Giáo trình : PHƯƠNG PHÁP TIẾP CẬN CÓ SỰ THAM GIA TRONG PHÁT TRIỂN LÂM NGHIỆP XÃ HỘI part 4 pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (425.55 KB, 12 trang )

Chú thích: Số lượng * càng nhiều thì kiểm soát của Người ngoài cuộc nhiều và tiềm lực địa phương
và sự bền vững càng cao.
3.4. ĐIỀU KIỆN VÀ ĐỘNG LỰC ĐỀ KHUYẾN KHÍCH SỰ THAM GIA TRONG
LNXH
Kinh nghiệm đã chứng tỏ, cần có một sốđiều kiện, sự tham gia mới có thể diễn ra.
Một trong những yếu tố cơ bản là cộng đồng hay nhóm dân cư phải cùng sinh sống
trong một khu vực địa lý nhất định, chia sẻ cùng một nền văn hóa và giá trị, có chung lợi
ích sống còn lâu dài, cùng chịu những mối liên h
ệ xã hội trường tồn. Những hoàn cảnh
như thế nâng đỡ bước khởi đầu của nhóm. Rất quan trọng, người dân nhận thức được điều
kiện riêng của họ cũng như các mối liên hệ lẫn nhau về kinh tế xã hội và chính trị trong
nhóm với các nhóm bên ngoài. Những mục tiêu do người dân xác định dựa trên sự nhận
biết đó và đó là cơ sở cho hoạt động củ
a nhóm. Sự lãnh đạo xã hội với sự đồng nhất có
thực chất quyền lợi với nhân dân mà nó cố gắng phục vụ là quan trọng để bảo đảm sự
tham gia đầy đủ ý nghĩa và lâu dài. Khía cạnh liên quan và quan trọng là quá trình xã hội
của tư vấn cho sự nhất trí về mục tiêu chung. Nó bảo đảm sựđoàn kết và hài hòa giữa các
thành viên trong nhóm. Một yếu tố chủ yếu khác là tổ chức thích hợp để đưa lại sức mạnh.
Ngay cả khi tất cả
các yếu tố trên đều thỏa mãn, sự tham gia cũng chỉ thành công nếu có
sự thúc đẩy mạnh mẽ. Có quan điểm cho rằng, sự thúc đẩy không vật chất là lực lượng
điều khiển của tất cả sự tham gia đích thực nào, nó xuất phát từ những thôi thúc nhân văn
sâu sắc (Mongomery, 1974). Văn hoá có thể có ảnh hưởng đến sự tham gia.
3.4.1. Điều kiện để khuyến khích sự tham gia
Về
mặt kinh tế xã hội, thúc đẩy sự tham gia của cộng đồng/nông hộ trong những hoạt
động có quan hệ mật thiết với các công nghệ có tác dụng đồng thời tăng năng suất và ổn
định môi trường khó mà thúc đẩy khi “bảo tồn” mà không có lợi ích kinh tế. Những người
lập chương trình có thể nhận được sựủng hộ của cộng đồng, rằng chương trình sẽđáp ứng

mục tiêu của h
ọ, sẽ thực hiện được và sẽđem lại lợi ích khá đủ cho những ai bỏ công làm
việc. Sự tham gia của cộng đồng chỉ có khi họ có nguồn lực để tham gia, kiến thức về việc
phải làm và làm như thế nào, sự kết hợp thích đáng các động lực thúc đẩy, thể chếủng hộ
và giữ vững các hoạt động của họ (Gregersen,1988).
-Nguồn lực: Nguồn lực chủ
yếu trong hầu hết các chương trình LNXH là “đất”. Trong
nhiều trường hợp, áp lực của dân số lớn đến mức trên nhiều diện tích rộng lớn cũng không
có đất dành cho việc trồng cây gỗ. Nói chung, hình như các dự án trồng cây do cộng đồng
chịu trách nhiệm không thành công như các dự án trồng cây với quy mô nhỏ trên đất trang
trại và quanh nhà ở của nông hộ. Giao đất lâm nghiệp theo luật định tạo cho người dân có
nguồn lự
c “đất” và làm lâm nghiệp (LNXH) là một chính sách đúng đắn. Vốn rừng là
nguồn lực quan trọng. Nhân tố khác góp phần đưa lại thành công của các chương trình
LNXH là sản xuất của địa phương về lượng cây con khá đủ và dùng ngay. Những vườn
ươm phân tán thường được thiết lập bởi cá nhân hoặc những nhóm dân làng có thể đưa lại
thu
nhập, việc làm. Nhiều người dân địa phương lập vườn ươm nhỏ gần n
ơi ở sản xuất cây con
đáp ứng nhu cầu vừa cho mình vừa cho những người láng giềng.
-Kiến thức: Kiến thức là nguồn cần thiết để cộng đồng nông thôn tham gia LNXH
biết việc phải làm và làm như thế nào để đáp ứng mục tiêu của dự án.
Người ta thường cho rằng, nông dân có nhiều kinh nghiệm trong sản xuất nông
nghiệp, cũng sẽ trồng tốt loại cây rừng. Đi
ều đó có thể là đúng nếu công tác khuyến nông
làm tốt, phổ cập tết kiến thức cho những ai tham gia chương trình LNXH về quản lý rừng,
trồng cây gỗ.
Phổ cập kiến thức trồng cây – trồng cây gì? Bằng cách nào ? Ởđâu? Lúc nào? Như
thế nào cho tốt? Quản lý rừng như thế nào cho tết? là một vấn đề làm bận trí các nhà lâm
nghiệp và những người khác liên quan với chương trình LNXH. Những thành công ở

Nepal, Hàn Quốc, Haiiti do các tổ chức Chính phủ và phi Chính phủ là nhờ sử dụng tết
những cư dân địa phương như người thúc đẩy, cổ vũ, hoặc những viên chức nông nghi
ệp
tại chỗ làm người hướng dẫn, hỗ trợ kỹ thuật. ưu thế trong tiếp cận của các tổ chức phi
Chính phủ là tránh cái gọi là không tin cậy người địa phương trong các nhà lâm nghiệp từ
nơi khác đến làm việc với các cộng đồng.
3.4.2. Động lực thúc đẩy sự tham gia
Sự tham gia tự nguyện tích cực của cộng đồng là nhân tố chủ yếu trong thành công
của bất k
ỳ dự ánlchương trình LNXH nào. Động lực thúc đẩy có hai loại: những động lực
kết hợp với thị trường và những động lực liên kết với những nhân tố phi thị trường, ví dụ
trợ cấp, văn hóa, xã hội. Một ví dụ rõ ràng về động lực thị trường là giá thị trường của củi
đã kích thích đầu tư trồng cây nhưđã diễn ra ở Hanh, ấn Độ và các nơ
i khác. Tóm lại bịđói
và lạnh đã thúc đẩy bố mẹ thu hái củi để sưởi ấm và nấu ăn là thí dụ thuộc động lực phi thị
trường.
Khi không biết điều gì thúc đẩy cộng đồng nông thôn hoạt động thì những biện pháp
dù có hiệu lực khêu gợi sự tham gia của nhân dân trong hoạt động chương trình cũng sẽ
trở nên may rủi. Liệu có phải những động lực nào cũng thích hợ
p với cộng đồng mà dự án
đang có quan hệ (ở một số xã hội, tín dụng được cấp sẽ không có hiệu quả, như là một
động lực cho hành động bởi lẽ nhân dân có ác cảm với nợ do nguyên nhân văn hoá)
(Hyman, 1983).
Sự khác nhau về văn hóa đang tồn tại ở các cộng đồng đã ảnh hưởng đến các hệ
thống động lực thúc đẩy và hiệu quả của các cơ
chế động lực khác nhau. Tuy nhiên vẫn có
trường hợp nhiều cộng đồng đã phản ứng tương tự đối với các tác nhân kích thích và động
lực nào đó. Người lập dự án cần xác định và ghi nhớ các hệ thống động lực khác nhau.
Cần nhận thức thật đúng động lực thúc đẩy đối với nông thôn. Cơ bản nông dân xem
xét lợi nhuận ròng nhận thấy được (nghĩa là sự chênh l

ệch giữa chi phí và lợi nhuận thấy
được) và sự an toàn tương đối hay rủi ro liên quan đến việc trồng cây. Họ xem xét trồng
cây trong hoàn cảnh hệ thống canh tác của họ. Do vậy họ so sánh lợi nhuận ròng chờ đợi
với lợi ích mà họ có thể thu được từ sự sử dụng đất, các nguồn lực và thời gian trong hệ
thống canh tác. Họ cũng so sánh sự rủi ro được cảm nhận trong trồng cây v
ới sự an toàn
hoặc những rủi ro liên kết với sử dụng đất, các nguồn lực khác và thời gian cho các lợi ích
khác.
Những can thiệp từ bên ngoài có thể là bắt buộc khi hệ thống động lực cộng đồng địa
phương không có hiệu quả trong hoạt động mong muốn về mặt xã hội là phổ biến. Trong
cả hai hoàn cảnh thị trường và phi thị trường, các Chính phủ cung cấp trợ giá và những
ủng hộ khác để thúc đẩy những hành động mong muốn về mặt xã hội. Mục đích của tất cả
các chương trình như thế là ảnh hưởng đến hệ thống động lực địa phương dẫn tới sự phát
triển bền vững và cải thiện phúc lợi.
-Động lực thị trường: Hiển nhiên, thu nhập giành được là một động lực mạnh mẽ gợi
ra sự tham gia của cộng đồng rộng rãi trong LNXH. Các chương trình LNXH có những
sản phẩm có thể tiêu thụ được sẽ tạo nhiều cơ may thị trường. Sự khuyến khích các hoạt
động LNXH gián tiếp liên hệ với cơ sở hạ tầng và độ
ng lực thị trường, Cải thiện tình
trạng giao thông do nhà nước hoặc các nhà có trách nhiệm của dự án và làm giảm chi phí,
đồng thời tăng thêm tiền lãi ròng tiềm tàng có thể là động lực thích hợp đối với sự liên hệ
của địa phương trong hoạt động dựa trên thị trường. Động lực thị trường hay thúc
đẩy bằng lợi nhuận có thể là lực cực kỳ mạnh mẽ và là điều mà các nhà l
ập kế hoạch của
dự án cần phải nghiên cứu.
-Động lực phi thị trường: Nhiều dự án LNXH có ít hoạt động với định hướng thị trường,
đã là những dự án buổi đầu mà mục đích giúp nông dân sản xuất cho chính họ. Trong
những trường hợp như vậy, động lực phi thị trường rất có ý nghĩa. Những nhà lập .kế
hoạch xử lý các yếu tố
tôn giáo, xã hội và văn hoá khác nhau trong quá trình xây dựng hệ

thống động lực thích hợp để có sự tham gia rộng rãi. Trợ giá của nhà nước sẽ được sử
dụng. Đưa các nhân tố là giảm rủi ro hoặc cái không chắc chắn có thể là cần thiết, khiến
cho người nông dân địa phương chấp nhận những hệ thống nông lâm kết hợp khác nhau.
Những nhà lãnh đạo địa phương tham gia trồng cây cũng là một động lực. Ngày càng có
nhiều tài liệu về cơ chế động lực phi thị trường (cấp cây con không mất tiền, trợ cấp lương
thực, cố vấn kỹ thuật ). Những cơ chế như thế rõ ràng cần được sử dụng với sự thận trọng
đúng mức. Nếu không, có thể thật sự gây tổn hại cho chương trình. Ví dụ khi cấp cây con
không mất tiền hoặc các cách trợ vốn khác
được sử dụng ở nơi này thì ở làng bên cạnh
trước đây đã trồng một ít cây, nay có thể hoàn toàn bỏ rơi việc trồng cây trừ phi họ cũng
nhận được trợ cấp (Gregensen,1988). Cuối cùng các cơ chế động lực có thể bị ràng buộc
với các phương sách thực hiện đúng đắn. Hoskin (1979) kể một ví dụ từ Senegal, nơi mà
các nông dân ban đầu nhận được tiền trồng cây Acacia albisa;
kinh nghiệm cho thấy,
khoảng 70% số cây bị chết. Do vậy chương trình bắt đầu trả cho mỗi cây sống sau khi
trồng từ sáu tháng đến
một năm. Việc trả công được tiếp tục trong hai năm sau cũng căn cứ vào số cây sống với
cách đó, số cây chết không còn nữa.
3.4.3. Thể chế hóa sự tham gia
Mức độ mà các chương trình LNXH được thể chế hoá có tầm quan trọng đến sự

thành công hay thất bại của chương trình. Nhân tố chủ yếu quyết định đến sự hưởng ứng
của cộng đồng đối với sự đổi mới kỹ thuật trong LNXH, là sự cam kết và đáp lại của nhà
nước thông qua pháp chế, chuyển giao kỹ thuật và nâng đỡ về tài chính. Điều đó có thể có
hiệu quả trực tiếp đến năng lực, trình độ nhận th
ức, lợi ích và định chếở địa phương và do
đó đến sự tham gia của cộng đồng.
Chính sách của Chính phủđúng đắn về sự phát triển nông thôn, nhất là nông dân
nghèo, là một điều cơ bản bảo đảm cho sự thành công của các chương trình LNXH, song
song với việc cộng đồng nhận rõ lợi ích do LNXH mang lại và tự nguyện tham gia tích

cực thực hiện chương trình.
Luật pháp là một công cụ thực hiện chính sách, nhưng có lúc luật pháp có phần bất
cập không thích hợp với mục tiêu trước mắt. Các điều luậ
t về phát triển nông thôn (sử
dụng đất, trồng trọt, chăn nuôi) đều có liên quan mật thiết với luật bảo vệ và phát triển
rừng. Điều quan trọng là phải sửa đổi, bổ sung lâm luật sao cho thống nhất với các luật
khác về phát triển kinh tế nông thôn. Lâm luật đặc biệt quan tâm đến vấn đề đưa lại lợi ích
cụ thể cho các cộng đồng địa phương từ các ho
ạt động lâm nghiệp (ví dụ, vấn đề thừa nhận
các quyền gia dụng của dân với sự đảm bảo yêu cầu sinh thái cán thiết, quyền quản lý rừng
ở các địa phương,
Một nguyên tắc nhưđã biết trong phát triển là nhân dân phải tham gia tích cực vào dự
án sẽ mang lại lợi ích lâu dài cho họ, tuy vậy trách nhiệm của Chính phủ là giúp đỡ, làm
mạnh thêm các nỗ lực của cộng đồng trong quản lý hữu hiệ
u các hỗ trợ (trả công trồng, tư
vấn trong trồng cây đa mục đích, cung cấp hạt giống, cây con ) hoặc cung cấp phương
tiện và xây dựng cơ sở hạ tầng (đường làng, công trình thủy lợi, trường học, bệnh xá,
chợ, )
Cần nhấn mạnh, bốn yêu cầu – nguồn lực, kiến thức, động lực thúc đẩy và thể chế tác
động tương hỗ và không thể xử lý riêng bi
ệt đối với mỗi một dự án cụ thể.
3.5. PHƯƠNG PHÁP TIẾP CẬN CÓ SỰ THAM GIA
3.5.1. Tiếp cận có sự tham gia trong nghiên cứu LNXH
3.5.1.1. Những vấn đề đặt ra trong nghiên cứu LNXH
Nghiên cứu nói chung và nghiên cứu LNXH nói riêng đều có những đặc thù riêng vì
vậy cần lưu ý 2 điểm sau:
Thứ nhất, nghiên cứu không phải chỉ là thu thập thông tin, dữ liệu mà là phân tích
thông tin dữ liệu để xây đựng và phát triển một sự
hiểu biết về một vấn đề nào đó. Thứ hai,
khi nói đến nhu cầu nghiên cứu LNXH thì phải lưu ý tới các kiểu nghiên cứu nào đó để có

thể giúp chúng ta thực hiện LNXH.
Hai điểm lưu ý trên cho chúng ta một số câu hỏi trước khi cần nghiên cứu LNXH, đó
là:
Những vấn đề nào đang tồn tại trong trong quá trình thực hiện LNXH? – Những cái
gì chúng ta cần phải biết để có thể giải quyết các v
ấn đề đó? – Chúng ta có thể tiếp cận các
vấn đề đó như thế nào để có thể hiểu rõ bản chất và nguyên nhân của chúng?
Chúng ta nghiên cứu bằng cách nào để có thể giải quyết triệt để hoặc giảm thiểu các
vấn đềđó? Hai câu hỏi đầu trả lời câu hỏi cái gì cần được nghiên cứu. Hai câu hỏi sau trả
lời
câu hỏi về phương pháp nghiên cứu nào cần được lựa chọn. Toàn bộ vấn đề trên, suy cho
cùng, là cần phải có một phương pháp tiếp cận nghiên cứu trước khi quyết định và tiến
hành nghiên cứu. Do vậy, việc phát hiện vấn đề nghiên cứu như thế nào, tiến hành nghiên
cứu bằng cách nào, kết quả nghiên cứu được vận dụng ra sao đó là cách tiếp cận trong
nghiên cứu nói chung.
Hoạt động LNXH luôn đòi hỏ
i có sự tham gia của các chủ thể khác nhau, trong đó
nông dân và cộng đồng của họ giữ vai trò quan trọng. Do đó nghiên cứu LNXH cũng cần
có sự tham gia của các bên liên quan, đặc biệt là của người dân và cộng đồng. Điều này có
thể được giải thích là trong LNXH các vấn đề cần được nghiên cứu phải xuất phát từ yêu
cầu của thực tiễn, các kết quả nghiên cứu cần được ưu tiên cho người sử d
ụng chủ yếu, đó
là các cộng đồng, là những người làm công tác khuyến nông khuyến lâm. Nghĩa là nghiên
cứu LNXH phải xuất phát từ thực tiễn, giải quyết các vấn đề thực tiễn và phục vụ trực tiếp
cho sản xuất. Điều này càng cho thấy nghiên cứu không chỉ là công việc riêng của các nhà
nghiên cứu mà còn là công việc của người dân, của cộng đồng, của cán bộ khuyến nông
khuyến lâm.
M. Buchy (1997) cho rằ
ng để có thể hiểu tận gốc rễ mọi vấn đề trong nghiên cứu cần
có sự tham gia của người đang thực thi các chương trình, các hoạt động LNXH, nghĩa là

cần có sự tham gia của người dân. Điều này được minh hoạ bằng một ví dụ là trong giao
đất, giao rừng thì việc nghiên cứu không phải trả lời câu hỏi bao nhiêu hộ gia đình trong
thôn không nhận đất hoặc không được giao đất? mà phải trả lờ
i các câu hỏi tại sao điều đó
lại xảy ra và chúng có ý nghĩa gì? và nếu điều đó xảy ra do thực thi chương trình sai thì tại
sao lại có chuyện chương trình bị thực thi sai?
Để trả lời các câu hỏi tương tự như trên một cách đầy đủ và chính xác phải có sự
tham gia cùng tìm hiểu và phân tích của các nhà nghiên cứu, nông dân, cán bộ khuyến
nông khuyến lâm. Sự tham gia như vậy có thể được coi là các công việc nghiên cứu. Trên
đây chỉ nói lên s
ự cần thiết nghiên cứu có sự tham gia của các bên. Vậy những vấn đề nào
cần được ưu tiên nghiên cứu?
Chúng ta hãy giả định hai vấn đề mà nghiên cứu về LNXH cần quan tâm, đó là
nghiên cứu những vấn đề kinh tế xã hội và các vấn đề vật lý sinh học trong phạm vi cộng
đồng nông thôn để phát triển LNXH.
Vấn đề thứ nhất chính là nghiên cứu các mối quan hệ xã hội và hàng rào về thể chế
và t
ổ chức cho phát triển LNXH như:
-Quan hệ qua.lại giữa những người sống trong cộng đồng.
-Quan hệ giữa những người sống trong cộng đồng và các tổ chức khuyến nông
khuyến lâm.
-Xác định các tiềm năng và xung đột trong cộng đồng.
-Nghiên cứu các giải pháp về xung đột sử dụng tài nguyên. Nghiên cứu các vấn đề về
cơ chế chính sách,
Vấn đề thứ hai là nghiên cứu các ràng buộc và quan hệ tự nhiên cần đề cập và ứng
dụng trong phát triển LNXH. Đó là các lĩnh vực:
-Lựa chọn cây trồng;
Hệ thống vườn ươm;
Hệ thống lâm sinh; Gây trồng cây đặc sản ;

-Kỹ thuật canh tác. .. . Tại mỗi cộng đồng có rất nhiều vấn đề cần nghiên cứu, sự lựa
chọn vấn đề
nghiên cứu là một vấn đề quan trọng, mà ngay từđây đã đòi hỏi có sự tham
gia của người dân sống trong cộng đồng. Trong LNXH, nhu cầu nghiên cứu không phải
xuất phát từ người làm nghiên cứu mà nó được hình thành từ người sẽ sử dụng kết quả
nghiên cứu sau này. Người nông dân gặp những vướng mắc về một vấn đề kỹ thuật hay
chính sách mà họ cần phải giải quyết thì đó có th
ể xuất phát điểm của nghiên cứu LNXH
hay nhu cầu nghiên cứu bắt đầu xuất hiện. Điều quan trọng là làm sao những
người làm nghiên cứu hiểu và biết được nhu cầu đích thực của cộng đồng. Phương pháp
tiếp cận cùng tham gia có thể giúp người làm nghiên cứu hiểu được vấn đề này.
3.5.1.2. Từ nông dân đến nông dân -Một phương pháp tiếp cận có sự tham gia trong
nghiên cứu LNXH
Các câu hỏi
đặt ra là: Khi người nông dân trở thành một người quản lý họ phải cần có
các thông tin, vậy những thông tin nào họ cần phải có để họ quản lý tết hơn trang trại của
họ? các nhà nghiên cứu tìm được những thông tin họ cần bằng cách nào và chuyển giao
đến nông dân ra sao để họ có khả năng sử dụng được?
Một điều hiển nhiên trong quá trình này là tạo ra thông tin hai chiều giữa nông dân
và những nhà nghiên cứu. Một trong những phươ
ng pháp thu hút sự tham gia vào quá trình
nghiên cứu mà Rhoaders and Booth (1982) đề xuất là cách tiếp cận “Từ nông dân đến
nông dân” như trong Sơ đồ 3.4.

Ghi chú: Phần đen trong các vòng tròn mô tả sự hỗ trợ từ bên ngoài.
Sơ đồ 3.4. Mô hình tiếp cận từ nông dân đến nông dân ” trong nghiên cứu LNXH
(Mô phỏng theo Rhoaders and Booth, 1982)
Sơ đồ 3.4 mô tả cách tiếp cận cùng tham gia trong nghiên cứu hay phát triển công
nghệ theo 4 giai đoạn với các ý nghĩa sau: Giai đoạn I: Chuẩn đoán với mục đích là cùng
xác định các vấn đề sẽ được nông dân và các nhà nghiên cứu cùng phối hợp thực hiện.

Giai đoạn II: Xác định giải pháp với mục tiêu là cùng tìm các giải pháp tiềm năng để giải
quyết vấn đề. Giai đoạn III: Thử
nghiệm trên đồng ruộng của nông dân với mục đích tạo
ra sự thuyết phục và chấp nhận của nông dân các giải pháp kỹ thuật. Giai đoạn IV: Nông
dân đánh giá và chấp nhận với mục tiêu là tạo ra quá trình học hỏi, nâng cao kiến thức của
nông dân về các vấn đềđể phổ biến và mở rộng.
3.5.1.3. Phát triển công nghệ có sự tham gia (PTD)
Phát triển công nghệ có sự tham gia của nông dân là một hình thứ
c tiếp cận mới,
trong đó các kiến thức bản địa của người nông dân cũng được coi là một yếu tố quan trọng
như bất kỳ ý kiến nào của các nhà khoa học. Đây là những hoạt động nhằm hướng đến sự
thay đổi kỹ thuật hiện tại của nông dân, tăng cường năng lực thử nghiệm hiện tại của nông
dân.
Phát triển kỹ thuậ
t có sự tham gia chính là sự kết hợp giữa kiến thức bản địa của
cộng đồng với năng lực nghiên cứu của những tổ chức phát triển và thúc đẩy một tiến trình
học hỏi lẫn nhau. Nó bao gồm việc xác định thử nghiệm và cập nhật những kỹ thuật mới
để giải quyết những vấn đề của địa phương. Mục đích cu
ối cùng là tăng cường kinh
nghiệm và khả năng quản lý kỹ thuật của cộng đồng và người dân địa phương bằng chính
nội lực của họ, trong đó hoạt động của người dân giữ vai trò chủ đạo trong toàn bộ tiến
trình.
Phát triển kỹ thuật có sự tham gia là cách tiếp cận mới, lôi cuốn được nông dân vào
việc phát triển các kỹ thuật nông lâm nghiệp phù hợp với điều ki
ện cụ thể của họ, trong đó
người nông dân sử dụng những kiến thức và khả năng thực tế của mình để thử nghiệm các
kỹ thuật mới cùng phối hợp với cán bộ nghiên cứu và khuyến nông lâm. Phát triển công
nghệ có sự tham gia của nông dân là sự tác động qua lại giữa kiến thức bản địa và kiến
thức khoa học, là kết quả trao đổi thông tin giữa các bên tham gia như
nhà khoa học, cán

bộ khuyến lâm và nông dân để tìm ra các thử nghiệm mới có lợi cho các bên tham gia theo
Sơ đồ 3.5.

Sơ đồ 3.5. Mối quan hệ giữa các bên tham gia trong phát triển công nghệ có sự tham gia
Tiến trình phát triển có sự tham gia được thực hiện theo các giai đoạn chủ yếu sau: –
Tạo lập các mối quan hệ và đánh giá khả năng phát triển có sự tham gia của người dân
Trong giai đoạn này các nhà nghiên cứu và cán bộ khuyến lâm cùng với nông dân
đánh giá về các điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội, văn hoá và các tác động từ bên ngoài,
đánh giá tiềm năng và những hạn chế của hệ thống canh tác địa phương.
-Phát triển những vấn đề cần thử nghiệm Các nhà nghiên cứu và cán bộ khuyến lâm cùng
bàn bạc với nông dân về các kiến thức bản địa đang tồn tại, tìm kiếm các ý tưởng thử
nghiệm. Trên cơ sở thảo luận người nông dân sẽ xác định những chủ đề hay vấn đề họ
muốn thử nghiệm và phát triển. – Giai đoạn thực hiện các thử nghiệm Các bên tham gia
tiến hành thi
ết kế các thử nghiệm, sau đó nông dân là người trực tiếp quản lý và thực hiện
các thử nghiệm đó, cán bộ nghiên cứu và cán bộ khuyến lâm đóng vai trò tư vấn, cung cấp
thông tin và phối hợp hoạt động. Các nhà nghiên cứu thu thập thông tin, sử dụng các công
cụ thống kê thích hợp để phân tích và đánh
giá kết quả thử nghiệm. Toàn bộ quá trình hoạt động, giám sát và đánh giá đều có sự tham
gia của các bên liên quan.
-Giai đoạ
n chia sẻ kết quả thử nghiệm Đây là giai đoạn được thực hiện thông qua các
hoạt động đào tạo trong cộng
đồng, chia sẻ kết quả thử nghiệm với các hộ nông dân khác.
Duy trì hỗ trợ cho quá trình PTD
Thực hiện bền vững bao gồm các hoạt động như hỗ trợ cơ sở vật chất, tư liệu hoá
kinh nghiệm, đúc rút kinh nghiệm để nhân rộng v.v
3.5.1.4.Tiến trình áp dụng PRA trong nghiên cứu LNXH
PRA là phương pháp đánh giá nông thôn có sự tham gia của người dân. PRA không
những là phương pháp dùng để lập kế hoạch phát triển cộng đồng mà còn là phương pháp

dùng để thu hút người dân vào nghiên cứu LNXH, phát triển công nghệ thích hợp. PRA
được thực hiện bằng một tập hợp các công cụ. Sau đây là tiến trình có khả năng sử dụng
PRA vào quá trình nghiên cứu LNXH:
-Người dân tham gia đánh giá hiện trạng, phát hiện vấn đề và xác định các vấn đề
cần giải quyết
Bằng các công cụ PRA xây dựng sa bàn, vẽ sơ đồ phác hoạ, khảo sát tuyến, thảo luận
nhóm nông dân, họp dân, phỏng vấn hộ gia đình có thể xác định được thực trạng của địa
phương, từđó có thể phát hiện được các vấn đề cần giải quyết.
-Xác định ư
u tiên nghiên cứu và chuyển giao công nghệ Nông dân có thể đưa ra các nhu
cầu nghiên cứu và chuyển giao ca )nữ nghệ thông qua các cuộc thảo luận nhóm nông dân
tiêu biểu và họp dân. Các công cụ và kỹ thuật phân tích như phân tích sơ đồ hình cây,
phân tích theo luồng, phân loại ưu liên
theo phương pháp bảng ô vuông hay so sánh cặp đôi. Kết quả phân tích được thông qua
các cuộc họp dân.
-Xây dựng mục tiêu và kế hoạch nghiên cứu Nông dân được thu hút vào quá trình xác định
mục tiêu và xây dựng kế hoạch nghiên cứu thông qua các cuộc thả
o luận nhóm nông dân
và thông qua các cuộc họp toàn thôn. Khung logic nghiên cứu được cán bộ nghiên cứu
thiết kế và hướng dẫn cho nông dân để họ có thể phân tích các mục tiêu và kết quả mong
đợi. Kế hoạch nghiên
cứu được thảo luận trực tiếp với nông dân và mô tả trên các bảng biểu và sơ đồ tiến độ,
trong đó ghi rõ trách nhiệm của các bên tham gia.
-Người dân tham gia vào các hoạt động thiết kế, thực thi các thử nghiệm và mô hình.
Cùng làm việc vớ
i nông dân trên đồng ruộng là công cụ quan trọng và hữu ích để
nông dân tham gia vào quá trình nghiên cứu. Sự đối thoại và hành động trực tiếp với nông
dân là phương tiếp cận nghiên cứu LNXH.
– Nông dân tham gia vào quá trình giám sát, đánh giá và phổ biến kết quả. Phương
pháp giám giám sát và đánh giá có sự tham gia của người dân được áp

dụng để nông dân có khả năng tự thuyết phục và quản lý các kết quả nghiên cứu. Mô hình
phổ biến lan rộng được vận dụng vào quá trình chuyển giao k
ết quả nghiên cứu.
3.5.2. Tiếp cận có sự tham gia trong đào tạo LNXH
3.5.2.1. Đào tạo tập huấn viên (TOT)
TOT là quá trình đào tạo chuyển giao, trong đó người học sau khi học có thể vận
dụng kiến thức, kỹ năng học được để đào tạo tiếp cho người khác. Như vậy người học sau
khi học sẽ trở thành các tiểu giáo viên. Hình thức đào tạo này rất phù hợp với phát tri
ển
nguồn nhân lực thông qua đào tạo phổ cập, lan rộng. Thông qua TOT hy vọng sẽ đáp ứng
được nhu cầu về cán bộ khuyến nông khuyến lâm các cấp và khả năng cung cấp các dịch
vụđào tạo cho nông dân.
• Đối tượng đào tạo
Đối tượng chính để đào tạo là cán bộ làm trong ngành nông lâm nghiệp và phát triển
nông thôn cấp huyện và tỉnh, các cán bộ của các chương trình, dự án LNXH có các lĩnh
vực chuyên môn như trồng trọt, chăn nuôi, thú y, lâm nghiệp, công trình nông thôn, kế
hoạch, tài chính, Việc lựa chọn đối tượng đào tạo tiêu điểm là cán bộ cấp huyện có các lý
do và ưu điểm sau:
-Đội ngũ cán bộ cấp huyện có chuyên môn vững, kinh nghiệm phong phú khi làm
việc với cộng đồng, phần lớn họ xuất thân từ địa phương.
-Vị trí công tác ở cấp huyện có quan hệ trực ti
ếp và thường xuyên với cấp xã và thôn
bản từ trước nên thuận lợi trong đào tạo và điều hành.
-Cán bộ cấp huyện có khả năng cung cấp các dịch vụ kỹ thuật và tư vấn cho cộng
đồng thuận lợi hơn về mặt thời gian, trách nhiệm cao và chi phí thấp hơn so với cán bộ từ
trung ương, tỉnh hay dự án trên địa bàn của địa phương.
-Kinh nghiệm từ nhiề
u dự án trên cho thấy việc lựa chọn cán bộ chuyên môn cấp
huyện để đào lạo thành tập huấn viên là hoàn toàn hợp lý, phù hợp với mục tiêu phát triển
nguồn nhân lực cho địa phương, thúc đẩy nhanh và có hiệu quả khi thực hiện dự án.

• Tiến trình và phương pháp của TOT
Những kinh nghiệm của TOT được áp dụng tại các chương trình dự án phát triển như
Chương trình 5322, Dự án Lâm nghiệp khu vực Việt Nam – ADB, Dự
án Quản lý đầu
nguồn có sự tham gia của người dân tại huyện Hoành Bồ, Quảng Ninh, Dự án Phát triển
cơ sở hạ tầng nông thôn quy mô nhỏ tại tỉnh Quảng Nam và thành phốĐà Năng cho thấy
tiến trình đào tạo TOT nhiều cấp nhưđược mô tả trong Bảng 3.2.
-Khóa đào tạo cơ bản Khoá đào tạo này có thể bao gồm 1 đến 3 lớp tuỳ theo yêu cầu và
khả năng của học viên. Mỗ
i lớp được tiến hành từ 3 – 5 ngày tại huyện theo một chuyên đề
cụ thể. Sau mỗi lớp của khoá đào tạo cơ bản sẽ tiến hành khoá đào tạo thực hành. Việc lựa
chọn sự nối tiếp giữa các khoá căn cứ vào kiến thức, kỹ năng cần phải có của học viên để
tiến hành khoá đào tạo thực hành hoặc khoá đào tạo nâng cao. Phương pháp đ
ào tạo cho
người lớn tuổi được áp dụng, nghĩa là đào tạo lấy người học làm trung tâm để tạo ra quá
trình đối thoại hơn là giảng bài. Các phần lý thuyết chiếm không quá 40%, phần còn lại
dành cho thảo luận, làm việc theo nhóm và
thực hành. Giáo viên giữ vai trò thúc đẩy hơn là giảng giải. Sản phẩm của mỗi lớp là kế
hoạch bài giảng do mỗi học viên xây dựng cho riêng mình.
tiềm năng của họ, sẽ triển khai được và sẽđem lại quyền lợi khá đủ cho những ai bỏ công làmviệc. Sự tham gia của hội đồng chỉ có khi họ có nguồn lực để tham gia, kỹ năng và kiến thức về việcphải làm và làm như thế nào, sự tích hợp thích đáng những động lực thôi thúc, thể chếủng hộvà giữ vững những hoạt động giải trí của họ ( Gregersen, 1988 ). – Nguồn lực : Nguồn lực chủyếu trong hầu hết những chương trình LNXH là ” đất “. Trongnhiều trường hợp, áp lực đè nén của dân số lớn đến mức trên nhiều diện tích quy hoạnh to lớn cũng khôngcó đất dành cho việc trồng cây gỗ. Nói chung, hình như những dự án Bất Động Sản trồng cây do cộng đồngchịu nghĩa vụ và trách nhiệm không thành công xuất sắc như những dự án Bất Động Sản trồng cây với quy mô nhỏ trên đất trangtrại và quanh nhà tại của nông hộ. Giao đất lâm nghiệp theo luật định tạo cho người dân cónguồn lực ” đất ” và làm lâm nghiệp ( LNXH ) là một chủ trương đúng đắn. Vốn rừng lànguồn lực quan trọng. Nhân tố khác góp thêm phần đưa lại thành công xuất sắc của những chương trìnhLNXH là sản xuất của địa phương về lượng cây con khá đủ và dùng ngay. Những vườnươm phân tán thường được thiết lập bởi cá thể hoặc những nhóm dân làng hoàn toàn có thể đưa lạithunhập, việc làm. Nhiều người dân địa phương lập vườn ươm nhỏ gần nơi ở sản xuất cây conđáp ứng nhu yếu vừa cho mình vừa cho những người láng giềng. – Kiến thức : Kiến thức là nguồn thiết yếu để hội đồng nông thôn tham gia LNXHbiết việc phải làm và làm như thế nào để phân phối tiềm năng của dự án Bất Động Sản. Người ta thường cho rằng, nông dân có nhiều kinh nghiệm tay nghề trong sản xuất nôngnghiệp, cũng sẽ trồng tốt loại cây rừng. Điều đó hoàn toàn có thể là đúng nếu công tác làm việc khuyến nônglàm tốt, phổ cập tết kỹ năng và kiến thức cho những ai tham gia chương trình LNXH về quản trị rừng, trồng cây gỗ. Phổ cập kỹ năng và kiến thức trồng cây – trồng cây gì ? Bằng cách nào ? Ởđâu ? Lúc nào ? Nhưthế nào cho tốt ? Quản lý rừng như thế nào cho tết ? là một yếu tố làm bận trí những nhà lâmnghiệp và những người khác tương quan với chương trình LNXH. Những thành công xuất sắc ởNepal, Nước Hàn, Haiiti do những tổ chức triển khai nhà nước và phi nhà nước là nhờ sử dụng tếtnhững dân cư địa phương như người thôi thúc, cổ vũ, hoặc những viên chức nông nghiệptại chỗ làm người hướng dẫn, tương hỗ kỹ thuật. lợi thế trong tiếp cận của những tổ chức triển khai phiChính phủ là tránh cái gọi là không đáng tin cậy người địa phương trong những nhà lâm nghiệp từnơi khác đến thao tác với những hội đồng. 3.4.2. Động lực thôi thúc sự tham giaSự tham gia tự nguyện tích cực của hội đồng là tác nhân đa phần trong thành côngcủa bất kể dự ánlchương trình LNXH nào. Động lực thôi thúc có hai loại : những động lựckết hợp với thị trường và những động lực link với những tác nhân phi thị trường, ví dụtrợ cấp, văn hóa truyền thống, xã hội. Một ví dụ rõ ràng về động lực thị trường là giá thị trường của củiđã kích thích góp vốn đầu tư trồng cây nhưđã diễn ra ở Hanh, ấn Độ và những nơi khác. Tóm lại bịđóivà lạnh đã thôi thúc cha mẹ thu hái củi để sưởi ấm và nấu ăn là thí dụ thuộc động lực phi thịtrường. Khi không biết điều gì thôi thúc hội đồng nông thôn hoạt động giải trí thì những biện phápdù có hiệu lực thực thi hiện hành khêu gợi sự tham gia của nhân dân trong hoạt động giải trí chương trình cũng sẽtrở nên may rủi. Liệu có phải những động lực nào cũng thích hợp với hội đồng mà dự ánđang có quan hệ ( ở một số ít xã hội, tín dụng thanh toán được cấp sẽ không có hiệu suất cao, như thể mộtđộng lực cho hành vi bởi lẽ nhân dân có ác cảm với nợ do nguyên do văn hoá ) ( Hyman, 1983 ). Sự khác nhau về văn hóa truyền thống đang sống sót ở những hội đồng đã ảnh hưởng tác động đến những hệthống động lực thôi thúc và hiệu suất cao của những cơchế động lực khác nhau. Tuy nhiên vẫn cótrường hợp nhiều hội đồng đã phản ứng tựa như so với những tác nhân kích thích và độnglực nào đó. Người lập dự án Bất Động Sản cần xác lập và ghi nhớ những mạng lưới hệ thống động lực khác nhau. Cần nhận thức thật đúng động lực thôi thúc so với nông thôn. Cơ bản nông dân xemxét doanh thu ròng nhận thấy được ( nghĩa là sự chênh lệch giữa ngân sách và doanh thu thấyđược ) và sự bảo đảm an toàn tương đối hay rủi ro đáng tiếc tương quan đến việc trồng cây. Họ xem xét trồngcây trong thực trạng mạng lưới hệ thống canh tác của họ. Do vậy họ so sánh doanh thu ròng chờ đợivới quyền lợi mà họ hoàn toàn có thể thu được từ sự sử dụng đất, những nguồn lực và thời hạn trong hệthống canh tác. Họ cũng so sánh sự rủi ro đáng tiếc được cảm nhận trong trồng cây với sự an toànhoặc những rủi ro đáng tiếc link với sử dụng đất, những nguồn lực khác và thời hạn cho những lợi íchkhác. Những can thiệp từ bên ngoài hoàn toàn có thể là bắt buộc khi mạng lưới hệ thống động lực hội đồng địaphương không có hiệu suất cao trong hoạt động giải trí mong ước về mặt xã hội là thông dụng. Trongcả hai thực trạng thị trường và phi thị trường, những nhà nước cung ứng trợ giá và nhữngủng hộ khác để thôi thúc những hành vi mong ước về mặt xã hội. Mục đích của tất cảcác chương trình như thế là ảnh hưởng tác động đến mạng lưới hệ thống động lực địa phương dẫn tới sự pháttriển bền vững và kiên cố và cải tổ phúc lợi. – Động lực thị trường : Hiển nhiên, thu nhập giành được là một động lực can đảm và mạnh mẽ gợira sự tham gia của hội đồng thoáng đãng trong LNXH. Các chương trình LNXH có nhữngsản phẩm hoàn toàn có thể tiêu thụ được sẽ tạo nhiều cơ may thị trường. Sự khuyến khích những hoạtđộng LNXH gián tiếp liên hệ với hạ tầng và động lực thị trường, Cải thiện tìnhtrạng giao thông vận tải do nhà nước hoặc những nhà có nghĩa vụ và trách nhiệm của dự án Bất Động Sản và làm giảm ngân sách, đồng thời tăng thêm tiền lãi ròng tiềm tàng hoàn toàn có thể là động lực thích hợp so với sự liên hệcủa địa phương trong hoạt động giải trí dựa trên thị trường. Động lực thị trường hay thúcđẩy bằng doanh thu hoàn toàn có thể là lực cực kỳ can đảm và mạnh mẽ và là điều mà những nhà lập kế hoạch củadự án cần phải nghiên cứu và điều tra. – Động lực phi thị trường : Nhiều dự án Bất Động Sản LNXH có ít hoạt động giải trí với xu thế thị trường, đã là những dự án Bất Động Sản buổi đầu mà mục tiêu giúp nông dân sản xuất cho chính họ. Trongnhững trường hợp như vậy, động lực phi thị trường rất có ý nghĩa. Những nhà lập. kếhoạch giải quyết và xử lý những yếu tốtôn giáo, xã hội và văn hoá khác nhau trong quy trình kiến thiết xây dựng hệthống động lực thích hợp để có sự tham gia thoáng đãng. Trợ giá của nhà nước sẽ được sửdụng. Đưa những tác nhân là giảm rủi ro đáng tiếc hoặc cái không chắc như đinh hoàn toàn có thể là thiết yếu, khiếncho người nông dân địa phương gật đầu những mạng lưới hệ thống nông lâm phối hợp khác nhau. Những nhà chỉ huy địa phương tham gia trồng cây cũng là một động lực. Ngày càng cónhiều tài liệu về chính sách động lực phi thị trường ( cấp cây con không mất tiền, trợ cấp lươngthực, cố vấn kỹ thuật ). Những chính sách như vậy rõ ràng cần được sử dụng với sự thận trọngđúng mức. Nếu không, hoàn toàn có thể thật sự gây tổn hại cho chương trình. Ví dụ khi cấp cây conkhông mất tiền hoặc những cách trợ vốn khácđược sử dụng ở nơi này thì ở làng bên cạnhtrước đây đã trồng một chút ít cây, nay hoàn toàn có thể trọn vẹn bỏ rơi việc trồng cây trừ phi họ cũngnhận được trợ cấp ( Gregensen, 1988 ). Cuối cùng những chính sách động lực hoàn toàn có thể bị ràng buộcvới những phương sách thực thi đúng đắn. Hoskin ( 1979 ) kể một ví dụ từ Senegal, nơi màcác nông dân khởi đầu nhận được tiền trồng cây Acacia albisa ; kinh nghiệm tay nghề cho thấy, khoảng chừng 70 % số cây bị chết. Do vậy chương trình mở màn trả cho mỗi cây sống sau khitrồng từ sáu tháng đếnmột năm. Việc trả công được liên tục trong hai năm sau cũng địa thế căn cứ vào số cây sống vớicách đó, số cây chết không còn nữa. 3.4.3. Thể chế hóa sự tham giaMức độ mà những chương trình LNXH được thể chế hoá có tầm quan trọng đến sựthành công hay thất bại của chương trình. Nhân tố đa phần quyết định hành động đến sự hưởng ứngcủa hội đồng so với sự thay đổi kỹ thuật trong LNXH, là sự cam kết và đáp lại của nhànước trải qua pháp chế, chuyển giao kỹ thuật và nâng đỡ về kinh tế tài chính. Điều đó hoàn toàn có thể cóhiệu quả trực tiếp đến năng lượng, trình độ nhận thức, quyền lợi và định chếở địa phương và dođó đến sự tham gia của hội đồng. Chính sách của Chính phủđúng đắn về sự tăng trưởng nông thôn, nhất là nông dânnghèo, là một điều cơ bản bảo vệ cho sự thành công xuất sắc của những chương trình LNXH, songsong với việc hội đồng nhận rõ quyền lợi do LNXH mang lại và tự nguyện tham gia tíchcực thực thi chương trình. Luật pháp là một công cụ thực thi chủ trương, nhưng có lúc pháp luật có phần bấtcập không thích hợp với tiềm năng trước mắt. Các điều luật về tăng trưởng nông thôn ( sửdụng đất, trồng trọt, chăn nuôi ) đều có tương quan mật thiết với luật bảo vệ và phát triểnrừng. Điều quan trọng là phải sửa đổi, bổ trợ lâm luật sao cho thống nhất với những luậtkhác về tăng trưởng kinh tế tài chính nông thôn. Lâm luật đặc biệt quan trọng chăm sóc đến yếu tố đưa lại lợi íchcụ thể cho những hội đồng địa phương từ những hoạt động giải trí lâm nghiệp ( ví dụ, yếu tố thừa nhậncác quyền gia dụng của dân với sự bảo vệ nhu yếu sinh thái xanh cán thiết, quyền quản trị rừngở những địa phương, Một nguyên tắc nhưđã biết trong tăng trưởng là nhân dân phải tham gia tích cực vào dựán sẽ mang lại quyền lợi lâu bền hơn cho họ, tuy nhiên nghĩa vụ và trách nhiệm của nhà nước là trợ giúp, làmmạnh thêm những nỗ lực của hội đồng trong quản trị hữu hiệu những tương hỗ ( trả công trồng, tưvấn trong trồng cây đa mục tiêu, phân phối hạt giống, cây con ) hoặc cung ứng phươngtiện và kiến thiết xây dựng hạ tầng ( đường làng, khu công trình thủy lợi, trường học, bệnh xá, chợ, ) Cần nhấn mạnh vấn đề, bốn nhu yếu – nguồn lực, kiến thức và kỹ năng, động lực thôi thúc và thể chế tácđộng tương hỗ và không hề giải quyết và xử lý riêng không liên quan gì đến nhau so với mỗi một dự án Bất Động Sản đơn cử. 3.5. PHƯƠNG PHÁP TIẾP CẬN CÓ SỰ THAM GIA3. 5.1. Tiếp cận có sự tham gia trong điều tra và nghiên cứu LNXH3. 5.1.1. Những yếu tố đặt ra trong điều tra và nghiên cứu LNXHNghiên cứu nói chung và nghiên cứu và điều tra LNXH nói riêng đều có những đặc trưng riêng vìvậy cần quan tâm 2 điểm sau : Thứ nhất, điều tra và nghiên cứu không phải chỉ là tích lũy thông tin, tài liệu mà là phân tíchthông tin dữ liệu để xây đựng và tăng trưởng một sựhiểu biết về một yếu tố nào đó. Thứ hai, khi nói đến nhu yếu điều tra và nghiên cứu LNXH thì phải chú ý quan tâm tới những kiểu nghiên cứu và điều tra nào đó để cóthể giúp tất cả chúng ta thực thi LNXH.Hai điểm quan tâm trên cho tất cả chúng ta một số ít câu hỏi trước khi cần nghiên cứu và điều tra LNXH, đólà : Những yếu tố nào đang sống sót trong trong quy trình thực thi LNXH ? – Những cáigì tất cả chúng ta cần phải biết để hoàn toàn có thể xử lý những yếu tố đó ? – Chúng ta hoàn toàn có thể tiếp cận cácvấn đề đó như thế nào để hoàn toàn có thể hiểu rõ thực chất và nguyên do của chúng ? Chúng ta điều tra và nghiên cứu bằng cách nào để hoàn toàn có thể xử lý triệt để hoặc giảm thiểu cácvấn đềđó ? Hai câu hỏi đầu vấn đáp thắc mắc cái gì cần được nghiên cứu và điều tra. Hai câu hỏi sau trảlờicâu hỏi về phương pháp điều tra và nghiên cứu nào cần được lựa chọn. Toàn bộ yếu tố trên, suy chocùng, là cần phải có một phương pháp tiếp cận nghiên cứu và điều tra trước khi quyết định hành động và tiếnhành nghiên cứu và điều tra. Do vậy, việc phát hiện yếu tố nghiên cứu và điều tra như thế nào, thực thi nghiêncứu bằng cách nào, tác dụng nghiên cứu và điều tra được vận dụng ra làm sao đó là cách tiếp cận trongnghiên cứu nói chung. Hoạt động LNXH luôn yên cầu có sự tham gia của những chủ thể khác nhau, trong đónông dân và hội đồng của họ giữ vai trò quan trọng. Do đó nghiên cứu và điều tra LNXH cũng cầncó sự tham gia của những bên tương quan, đặc biệt quan trọng là của dân cư và hội đồng. Điều này cóthể được lý giải là trong LNXH những yếu tố cần được nghiên cứu và điều tra phải xuất phát từ yêucầu của thực tiễn, những hiệu quả điều tra và nghiên cứu cần được ưu tiên cho người sử dụng đa phần, đólà những hội đồng, là những người làm công tác làm việc khuyến nông khuyến lâm. Nghĩa là nghiêncứu LNXH phải xuất phát từ thực tiễn, xử lý những yếu tố thực tiễn và ship hàng trực tiếpcho sản xuất. Điều này càng cho thấy nghiên cứu và điều tra không chỉ là việc làm riêng của những nhànghiên cứu mà còn là việc làm của dân cư, của hội đồng, của cán bộ khuyến nôngkhuyến lâm. M. Buchy ( 1997 ) cho rằng để hoàn toàn có thể hiểu tận căn nguyên mọi yếu tố trong nghiên cứu và điều tra cầncó sự tham gia của người đang thực thi những chương trình, những hoạt động giải trí LNXH, nghĩa làcần có sự tham gia của người dân. Điều này được minh hoạ bằng một ví dụ là trong giaođất, giao rừng thì việc nghiên cứu và điều tra không phải vấn đáp thắc mắc bao nhiêu hộ mái ấm gia đình trongthôn không nhận đất hoặc không được giao đất ? mà phải vấn đáp những câu hỏi tại sao điều đólại xảy ra và chúng có ý nghĩa gì ? và nếu điều đó xảy ra do thực thi chương trình sai thì tạisao lại có chuyện chương trình bị thực thi sai ? Để vấn đáp những câu hỏi tựa như như trên một cách không thiếu và đúng mực phải có sựtham gia cùng khám phá và nghiên cứu và phân tích của những nhà nghiên cứu, nông dân, cán bộ khuyếnnông khuyến lâm. Sự tham gia như vậy hoàn toàn có thể được coi là những việc làm điều tra và nghiên cứu. Trênđây chỉ nói lên sự thiết yếu điều tra và nghiên cứu có sự tham gia của những bên. Vậy những yếu tố nàocần được ưu tiên điều tra và nghiên cứu ? Chúng ta hãy giả định hai yếu tố mà điều tra và nghiên cứu về LNXH cần chăm sóc, đó lànghiên cứu những yếu tố kinh tế tài chính xã hội và những yếu tố vật lý sinh học trong khoanh vùng phạm vi cộngđồng nông thôn để tăng trưởng LNXH.Vấn đề thứ nhất chính là điều tra và nghiên cứu những mối quan hệ xã hội và hàng rào về thể chếvà tổ chức triển khai cho tăng trưởng LNXH như : – Quan hệ qua. lại giữa những người sống trong hội đồng. – Quan hệ giữa những người sống trong hội đồng và những tổ chức triển khai khuyến nôngkhuyến lâm. – Xác định những tiềm năng và xung đột trong hội đồng. – Nghiên cứu những giải pháp về xung đột sử dụng tài nguyên. Nghiên cứu những yếu tố vềcơ chế chủ trương, Vấn đề thứ hai là điều tra và nghiên cứu những ràng buộc và quan hệ tự nhiên cần đề cập và ứngdụng trong tăng trưởng LNXH. Đó là những nghành : – Lựa chọn cây xanh ; Hệ thống vườn ươm ; Hệ thống lâm sinh ; Gây trồng cây đặc sản nổi tiếng ; – Kỹ thuật canh tác. .. . Tại mỗi hội đồng có rất nhiều yếu tố cần nghiên cứu và điều tra, sự lựachọn vấn đềnghiên cứu là một yếu tố quan trọng, mà ngay từđây đã yên cầu có sự thamgia của người dân sống trong hội đồng. Trong LNXH, nhu yếu nghiên cứu và điều tra không phảixuất phát từ người làm điều tra và nghiên cứu mà nó được hình thành từ người sẽ sử dụng kết quảnghiên cứu sau này. Người nông dân gặp những vướng mắc về một yếu tố kỹ thuật haychính sách mà họ cần phải xử lý thì đó hoàn toàn có thể xuất phát điểm của điều tra và nghiên cứu LNXHhay nhu yếu nghiên cứu và điều tra mở màn Open. Điều quan trọng là làm thế nào nhữngngười làm điều tra và nghiên cứu hiểu và biết được nhu yếu đích thực của hội đồng. Phương pháptiếp cận cùng tham gia hoàn toàn có thể giúp người làm nghiên cứu và điều tra hiểu được yếu tố này. 3.5.1. 2. Từ nông dân đến nông dân – Một phương pháp tiếp cận có sự tham gia trongnghiên cứu LNXHCác câu hỏiđặt ra là : Khi người nông dân trở thành một người quản trị họ phải cần cócác thông tin, vậy những thông tin nào họ cần phải có để họ quản trị tết hơn trang trại củahọ ? những nhà nghiên cứu tìm được những thông tin họ cần bằng cách nào và chuyển giaođến nông dân thế nào để họ có năng lực sử dụng được ? Một điều hiển nhiên trong quy trình này là tạo ra thông tin hai chiều giữa nông dânvà những nhà nghiên cứu. Một trong những phương pháp lôi cuốn sự tham gia vào quá trìnhnghiên cứu mà Rhoaders and Booth ( 1982 ) yêu cầu là cách tiếp cận ” Từ nông dân đếnnông dân ” như trong Sơ đồ 3.4. Ghi chú : Phần đen trong những vòng tròn diễn đạt sự tương hỗ từ bên ngoài. Sơ đồ 3.4. Mô hình tiếp cận từ nông dân đến nông dân ” trong điều tra và nghiên cứu LNXH ( Mô phỏng theo Rhoaders and Booth, 1982 ) Sơ đồ 3.4 diễn đạt cách tiếp cận cùng tham gia trong điều tra và nghiên cứu hay tăng trưởng côngnghệ theo 4 quá trình với những ý nghĩa sau : Giai đoạn I : Chuẩn đoán với mục tiêu là cùngxác định những yếu tố sẽ được nông dân và những nhà nghiên cứu cùng phối hợp thực thi. Giai đoạn II : Xác định giải pháp với tiềm năng là cùng tìm những giải pháp tiềm năng để giảiquyết yếu tố. Giai đoạn III : Thửnghiệm trên đồng ruộng của nông dân với mục tiêu tạora sự thuyết phục và đồng ý của nông dân những giải pháp kỹ thuật. Giai đoạn IV : Nôngdân nhìn nhận và gật đầu với tiềm năng là tạo ra quy trình học hỏi, nâng cao kiến thức và kỹ năng củanông dân về những vấn đềđể phổ cập và lan rộng ra. 3.5.1. 3. Phát triển công nghệ tiên tiến có sự tham gia ( PTD ) Phát triển công nghệ tiên tiến có sự tham gia của nông dân là một hình thức tiếp cận mới, trong đó những kiến thức và kỹ năng địa phương của người nông dân cũng được coi là một yếu tố quan trọngnhư bất kể quan điểm nào của những nhà khoa học. Đây là những hoạt động giải trí nhằm mục đích hướng đến sựthay đổi kỹ thuật hiện tại của nông dân, tăng cường năng lượng thử nghiệm hiện tại của nôngdân. Phát triển kỹ thuật có sự tham gia chính là sự phối hợp giữa kiến thức và kỹ năng địa phương củacộng đồng với năng lượng điều tra và nghiên cứu của những tổ chức triển khai tăng trưởng và thôi thúc một tiến trìnhhọc hỏi lẫn nhau. Nó gồm có việc xác lập thử nghiệm và update những kỹ thuật mớiđể xử lý những yếu tố của địa phương. Mục đích sau cuối là tăng cường kinhnghiệm và năng lực quản trị kỹ thuật của hội đồng và người dân địa phương bằng chínhnội lực của họ, trong đó hoạt động giải trí của người dân giữ vai trò chủ yếu trong hàng loạt tiếntrình. Phát triển kỹ thuật có sự tham gia là cách tiếp cận mới, hấp dẫn được nông dân vàoviệc tăng trưởng những kỹ thuật nông lâm nghiệp tương thích với điều kiện kèm theo đơn cử của họ, trong đóngười nông dân sử dụng những kỹ năng và kiến thức và năng lực trong thực tiễn của mình để thử nghiệm cáckỹ thuật mới cùng phối hợp với cán bộ nghiên cứu và điều tra và khuyến nông lâm. Phát triển côngnghệ có sự tham gia của nông dân là sự tác động ảnh hưởng qua lại giữa kiến thức và kỹ năng địa phương và kiếnthức khoa học, là tác dụng trao đổi thông tin giữa những bên tham gia nhưnhà khoa học, cánbộ khuyến lâm và nông dân để tìm ra những thử nghiệm mới có lợi cho những bên tham gia theoSơ đồ 3.5. Sơ đồ 3.5. Mối quan hệ giữa những bên tham gia trong tăng trưởng công nghệ tiên tiến có sự tham giaTiến trình tăng trưởng có sự tham gia được triển khai theo những quá trình hầu hết sau : – Tạo lập những mối quan hệ và nhìn nhận năng lực tăng trưởng có sự tham gia của người dânTrong quá trình này những nhà nghiên cứu và cán bộ khuyến lâm cùng với nông dânđánh giá về những điều kiện kèm theo tự nhiên, kinh tế tài chính xã hội, văn hoá và những ảnh hưởng tác động từ bên ngoài, nhìn nhận tiềm năng và những hạn chế của mạng lưới hệ thống canh tác địa phương. – Phát triển những yếu tố cần thử nghiệm Các nhà nghiên cứu và cán bộ khuyến lâm cùngbàn bạc với nông dân về những kỹ năng và kiến thức địa phương đang sống sót, tìm kiếm những sáng tạo độc đáo thửnghiệm. Trên cơ sở đàm đạo người nông dân sẽ xác lập những chủ đề hay yếu tố họmuốn thử nghiệm và tăng trưởng. – Giai đoạn thực thi những thử nghiệm Các bên tham giatiến hành phong cách thiết kế những thử nghiệm, sau đó nông dân là người trực tiếp quản trị và thực hiệncác thử nghiệm đó, cán bộ nghiên cứu và điều tra và cán bộ khuyến lâm đóng vai trò tư vấn, cung cấpthông tin và phối hợp hoạt động giải trí. Các nhà nghiên cứu tích lũy thông tin, sử dụng những côngcụ thống kê thích hợp để nghiên cứu và phân tích và đánhgiá tác dụng thử nghiệm. Toàn bộ quy trình hoạt động giải trí, giám sát và nhìn nhận đều có sự thamgia của những bên tương quan. – Giai đoạn san sẻ hiệu quả thử nghiệm Đây là quy trình tiến độ được thực thi trải qua cáchoạt động đào tạo trong cộngđồng, san sẻ hiệu quả thử nghiệm với những hộ nông dân khác. Duy trì tương hỗ cho quy trình PTDThực hiện vững chắc gồm có những hoạt động giải trí như tương hỗ cơ sở vật chất, tư liệu hoákinh nghiệm, đúc rút kinh nghiệm tay nghề để nhân rộng v.v 3.5.1. 4. Tiến trình vận dụng PRA trong điều tra và nghiên cứu LNXHPRA là phương pháp nhìn nhận nông thôn có sự tham gia của dân cư. PRA khôngnhững là phương pháp dùng để lập kế hoạch tăng trưởng hội đồng mà còn là phương phápdùng để lôi cuốn người dân vào nghiên cứu và điều tra LNXH, tăng trưởng công nghệ tiên tiến thích hợp. PRAđược triển khai bằng một tập hợp những công cụ. Sau đây là tiến trình có năng lực sử dụngPRA vào quy trình nghiên cứu và điều tra LNXH : – Người dân tham gia nhìn nhận thực trạng, phát hiện yếu tố và xác lập những vấn đềcần giải quyếtBằng những công cụ PRA thiết kế xây dựng sa bàn, vẽ sơ đồ phác hoạ, khảo sát tuyến, thảo luậnnhóm nông dân, họp dân, phỏng vấn hộ mái ấm gia đình hoàn toàn có thể xác lập được tình hình của địaphương, từđó hoàn toàn có thể phát hiện được những yếu tố cần xử lý. – Xác định ưu tiên điều tra và nghiên cứu và chuyển giao công nghệ tiên tiến Nông dân hoàn toàn có thể đưa ra những nhucầu nghiên cứu và điều tra và chuyển giao ca ) nữ nghệ thông qua những cuộc đàm đạo nhóm nông dântiêu biểu và họp dân. Các công cụ và kỹ thuật nghiên cứu và phân tích như nghiên cứu và phân tích sơ đồ hình cây, nghiên cứu và phân tích theo luồng, phân loại ưu liêntheo phương pháp bảng ô vuông hay so sánh cặp đôi. Kết quả nghiên cứu và phân tích được thông quacác cuộc họp dân. – Xây dựng tiềm năng và kế hoạch điều tra và nghiên cứu Nông dân được lôi cuốn vào quy trình xác địnhmục tiêu và thiết kế xây dựng kế hoạch điều tra và nghiên cứu trải qua những cuộc đàm đạo nhóm nông dânvà trải qua những cuộc họp toàn thôn. Khung logic nghiên cứu và điều tra được cán bộ nghiên cứuthiết kế và hướng dẫn cho nông dân để họ hoàn toàn có thể nghiên cứu và phân tích những tiềm năng và tác dụng mongđợi. Kế hoạch nghiêncứu được đàm đạo trực tiếp với nông dân và diễn đạt trên những bảng biểu và sơ đồ quy trình tiến độ, trong đó ghi rõ nghĩa vụ và trách nhiệm của những bên tham gia. – Người dân tham gia vào những hoạt động giải trí phong cách thiết kế, thực thi những thử nghiệm và quy mô. Cùng thao tác với nông dân trên đồng ruộng là công cụ quan trọng và có ích đểnông dân tham gia vào quy trình điều tra và nghiên cứu. Sự đối thoại và hành vi trực tiếp với nôngdân là phương tiếp cận nghiên cứu và điều tra LNXH. – Nông dân tham gia vào quy trình giám sát, nhìn nhận và phổ cập hiệu quả. Phươngpháp giám giám sát và nhìn nhận có sự tham gia của người dân được ápdụng để nông dân có năng lực tự thuyết phục và quản trị những hiệu quả điều tra và nghiên cứu. Mô hìnhphổ biến lan rộng được vận dụng vào quy trình chuyển giao tác dụng nghiên cứu và điều tra. 3.5.2. Tiếp cận có sự tham gia trong giảng dạy LNXH3. 5.2.1. Đào tạo tập huấn viên ( TOT ) TOT là quy trình giảng dạy chuyển giao, trong đó người học sau khi học hoàn toàn có thể vậndụng kỹ năng và kiến thức, kỹ năng học được để giảng dạy tiếp cho người khác. Như vậy người học saukhi học sẽ trở thành những tiểu giáo viên. Hình thức đào tạo và giảng dạy này rất tương thích với phát triểnnguồn nhân lực trải qua huấn luyện và đào tạo phổ cập, lan rộng. Thông qua TOT kỳ vọng sẽ đáp ứngđược nhu yếu về cán bộ khuyến nông khuyến lâm những cấp và năng lực phân phối những dịchvụđào tạo cho nông dân. • Đối tượng đào tạoĐối tượng chính để đào tạo và giảng dạy là cán bộ làm trong ngành nông lâm nghiệp và phát triểnnông thôn cấp huyện và tỉnh, những cán bộ của những chương trình, dự án Bất Động Sản LNXH có những lĩnhvực trình độ như trồng trọt, chăn nuôi, thú y, lâm nghiệp, khu công trình nông thôn, kếhoạch, kinh tế tài chính, Việc lựa chọn đối tượng người tiêu dùng đào tạo và giảng dạy tiêu điểm là cán bộ cấp huyện có những lýdo và ưu điểm sau : – Đội ngũ cán bộ cấp huyện có trình độ vững, kinh nghiệm tay nghề đa dạng chủng loại khi làmviệc với hội đồng, phần nhiều họ xuất thân từ địa phương. – Vị trí công tác làm việc ở cấp huyện có quan hệ trực tiếp và liên tục với cấp xã và thônbản từ trước nên thuận tiện trong huấn luyện và đào tạo và quản lý. – Cán bộ cấp huyện có năng lực phân phối những dịch vụ kỹ thuật và tư vấn cho cộngđồng thuận tiện hơn về mặt thời hạn, nghĩa vụ và trách nhiệm cao và ngân sách thấp hơn so với cán bộ từtrung ương, tỉnh hay dự án Bất Động Sản trên địa phận của địa phương. – Kinh nghiệm từ nhiều dự án Bất Động Sản trên cho thấy việc lựa chọn cán bộ trình độ cấphuyện để đào lạo thành tập huấn viên là trọn vẹn hài hòa và hợp lý, tương thích với tiềm năng phát triểnnguồn nhân lực cho địa phương, thôi thúc nhanh và có hiệu suất cao khi thực thi dự án Bất Động Sản. • Tiến trình và phương pháp của TOTNhững kinh nghiệm tay nghề của TOT được vận dụng tại những chương trình dự án Bất Động Sản tăng trưởng nhưChương trình 5322, Dự án Lâm nghiệp khu vực Nước Ta – ADB, Dựán Quản lý đầunguồn có sự tham gia của người dân tại huyện Hoành Bồ, Quảng Ninh, Dự án Phát triểncơ sở hạ tầng nông thôn quy mô nhỏ tại tỉnh Quảng Nam và thành phốĐà Năng cho thấytiến trình đào tạo và giảng dạy TOT nhiều cấp nhưđược miêu tả trong Bảng 3.2. – Khóa giảng dạy cơ bản Khoá giảng dạy này hoàn toàn có thể gồm có 1 đến 3 lớp tuỳ theo nhu yếu vàkhả năng của học viên. Mỗi lớp được triển khai từ 3 – 5 ngày tại huyện theo một chuyên đềcụ thể. Sau mỗi lớp của khoá giảng dạy cơ bản sẽ triển khai khoá huấn luyện và đào tạo thực hành thực tế. Việc lựachọn sự tiếp nối đuôi nhau giữa những khoá địa thế căn cứ vào kiến thức và kỹ năng, kỹ năng và kiến thức cần phải có của học viên đểtiến hành khoá huấn luyện và đào tạo thực hành thực tế hoặc khoá huấn luyện và đào tạo nâng cao. Phương pháp giảng dạy chongười lớn tuổi được vận dụng, nghĩa là huấn luyện và đào tạo lấy người học làm TT để tạo ra quátrình đối thoại hơn là giảng bài. Các phần triết lý chiếm không quá 40 %, phần còn lạidành cho luận bàn, thao tác theo nhóm vàthực hành. Giáo viên giữ vai trò thôi thúc hơn là giảng giải. Sản phẩm của mỗi lớp là kếhoạch bài giảng do mỗi học viên thiết kế xây dựng cho riêng mình .

Source: https://vh2.com.vn
Category : Truyền Thông