Điều tra xu thế sản xuất kinh doanh thương mại ( SXKD ) hàng quý gồm có 6.500 doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, sản xuất và 6.600 doanh...
11 Phát minh làm thay đổi lịch sử thế giới
11 Phát minh làm thay đổi lịch sử quốc tế
Từ những phát minh tiên phong đến những tiến bộ khoa học và y học táo
bạo, hãy tìm hiểu thêm về 11 phát triển đã thay đổi quá trình lịch sử
loài người.Bạn đang đọc: 11 Phát minh làm thay đổi lịch sử thế giới
1. Máy in
Máy in đầu tiên của Gutenberg.
Trước sự trỗi dậy của Internet, không có sự đổi mới nào giúp ích cho việc
truyền bá và dân chủ hóa tri thức hơn báo in của Johannes Gutenberg. Được
phát triển vào khoảng năm 1440 ở Mainz, Đức, máy của Gutenberg được cải
tiến trên các máy ép hiện có thông qua việc sử dụng một khuôn cho phép sản
xuất nhanh các miếng hợp kim chì. Phương pháp sao chép sách theo dây
chuyền lắp ráp này cho phép một máy in duy nhất có thể tạo ra tới 3.600
trang mỗi ngày. Đến năm 1500, hơn 1.000 máy ép Gutenberg đã hoạt động ở
Châu Âu, và đến năm 1600, họ đã tạo ra hơn 200 triệu cuốn sách mới. Báo
chí in ấn không chỉ làm cho sách có giá cả phải chăng đối với tầng lớp
thấp, mà còn giúp khơi dậy Thời đại Khai sáng và tạo điều kiện cho việc
truyền bá những ý tưởng mới và thường gây tranh cãi. Năm 1518, những người
theo tu sĩ người Đức Martin Luther đã sử dụng máy in để sao chép và phổ
biến tác phẩm tiêu biểu của ông “The Ninety-Five Theses”*, khởi đầu cho
cuộc Cải cách Tin lành và thúc đẩy các cuộc xung đột như Chiến tranh Ba
mươi năm (1618-48). Báo chí in ấn đã chứng tỏ sức ảnh hưởng trong việc
thúc đẩy các cuộc cách mạng, sự biến động tôn giáo và tư tưởng khoa học
đến nỗi Mark Twain sau này đã viết, “Thế giới ngày nay là gì, tốt và xấu
đều do Gutenberg.”*“The Ninety-Five Theses” 95 luận đề của Martin Luther hay
Tranh luận về sức mạnh của Ân Xá là một danh sách của các
luận đề cho một cuộc tranh cãi hàn lâm viết bởi Martin Luther 1517. Nó đề
bạt quan điểm của Luther chống lại những gì ông nhận thấy là những thực
hành lạm dụng của những người giảng đạo bán ơn toàn xá, mà là giấy chứng
nhận sẽ giảm hình phạt tạm thời vì tội phạm của người mua hoặc những người
thân yêu của họ đã ăn năn hối lỗi.
2. La bàn
Mô hình của một chiếc muôi hoặc sinan thời nhà Hán ( 206 trước Công nguyên – 220 sau Công nguyên ) .
La bàn từ hoàn toàn có thể đã lỗi thời bởi những vệ tinh và mạng lưới hệ thống xác định toàn thế giới, nhưng ảnh hưởng tác động của chúng so với việc điều hướng và mày mò bắt đầu là không hề lường trước được. Ban đầu được phát minh ở Trung Quốc, vào thế kỷ 14, la bàn đã thay thế sửa chữa thoáng đãng những phương tiện đi lại thiên văn như một công cụ điều hướng chính cho những thủy thủ. La bàn cung ứng cho những nhà thám hiểm một chiêu thức đáng đáng tin cậy để đi qua những đại dương trên quốc tế, một bước cải tiến vượt bậc đã kích hoạt Kỷ nguyên Khám phá và mang lại cho châu Âu sự giàu sang và quyền lực tối cao mà sau này thôi thúc Cách mạng Công nghiệp. Quan trọng nhất, la bàn được cho phép tương tác giữa những nền văn hóa truyền thống quốc tế bị cô lập trước kia .
3. Tiền giấy
Tiền Giao tử thời nhà Tống, loại
tiền giấy sớm nhất quốc tế .
Trong suốt phần lớn lịch sử loài người, tiền ở dạng kim loại quý, tiền xu
và thậm chí là nguyên liệu thô như gia súc hoặc rau quả. Sự ra đời của
tiền giấy đã mở ra một kỷ nguyên mới táo bạo – một thế giới mà tiền tệ có
thể mua hàng hóa và dịch vụ mặc dù không có giá trị nội tại. Tiền giấy
được sử dụng rộng rãi ở Trung Quốc vào thế kỷ thứ IX, nhưng mãi đến cuối
những năm 1600 mới xuất hiện ở châu Âu. Được thúc đẩy bởi tình trạng thiếu
tiền thường xuyên, các ngân hàng đã phát hành tiền giấy như một lời hứa
chống lại các khoản thanh toán kim loại quý trong tương lai. Vào cuối thế
kỷ 19, nhiều quốc gia đã bắt đầu phát hành đấu thầu hợp pháp do chính phủ
hậu thuẫn mà không thể chuyển đổi thành vàng hoặc bạc được nữa. Việc
chuyển sang tiền giấy không chỉ cứu trợ các chính phủ đang gặp khó khăn
trong thời kỳ khủng hoảng – như đã làm đối với Hoa Kỳ trong Nội chiến – mà
nó còn mở ra một kỷ nguyên mới của quy định tiền tệ quốc tế đã thay đổi bộ
mặt kinh tế toàn cầu. Có lẽ còn quan trọng hơn, tiền giấy là bước đầu tiên
quan trọng trong một hệ thống tiền tệ mới dẫn đến sự ra đời của thẻ tín
dụng và ngân hàng điện tử.
4. Thép
Thép được sản xuất theo Quy trình Bessemer tại Penistone Steel
Works, South Yorkshire.Trong khi các xã hội ban đầu của con người sử dụng rộng rãi đá, đồng và
sắt, thì chính thép đã thúc đẩy Cách mạng Công nghiệp và xây dựng các
thành phố hiện đại. Bằng chứng về các công cụ thép đã có từ 4.000 năm
trước, nhưng hợp kim này không được sản xuất hàng loạt cho đến khi phát
minh ra Quy trình Bessemer*, một kỹ thuật tạo ra thép bằng gang nóng chảy,
vào những năm 1850. Sau đó, thép bùng nổ trở thành một trong những ngành
công nghiệp lớn nhất trên hành tinh và được sử dụng trong việc tạo ra mọi
thứ, từ cầu, đường sắt đến các tòa nhà chọc trời và động cơ. Nó tỏ ra có
ảnh hưởng đặc biệt ở Bắc Mỹ, nơi có trữ lượng quặng sắt lớn đã giúp Hoa Kỳ
trở thành một trong những nền kinh tế lớn nhất thế giới.
5. Đèn điện
Thomas Edison cung với bóng đèn sợi đốt mà ông đã tạo ra trong
phòng thí nghiệm của mình, vào khoảng năm 1920.
Mặc dù chúng dễ dàng được coi là đương nhiên, nhưng tất cả những gì
chỉ cần một thời gian ngắn mất điện để nhắc nhở chúng ta về tầm quan
trọng của đèn nhân tạo. Được tiên phong vào đầu thế kỷ 19 bởi Humphry
Davy và đèn hồ quang carbon của ông, đèn điện đã phát triển trong suốt
những năm 1800 nhờ công sức của các nhà phát minh như Warren de la
Rue, Joseph Wilson Swan và Thomas Alva Edison. Chính Edison và Swan đã
được cấp bằng sáng chế cho bóng đèn có tuổi thọ cao đầu tiên vào năm
1879 và 1880, giải phóng xã hội khỏi sự phụ thuộc gần như hoàn toàn
vào ánh sáng ban ngày. Đèn điện tiếp tục được sử dụng trong mọi thứ từ
chiếu sáng gia đình, đèn đường đến đèn pin và đèn pha ô tô. Mạng lưới
dây điện phức tạp được dựng lên để cung cấp năng lượng cho các bóng
đèn sớm cũng giúp hình thành hệ thống dây điện đầu tiên, mở đường cho
vô số thiết bị gia dụng khác.
6. Thuần hóa Con Ngữa
Phù điêu miêu tả ky binh vua Ramses II .
Kể từ khi được thuần hóa cách đây khoảng 5.500 năm, ngựa đã gắn bó chặt
chẽ với sự phát triển của con người. Họ cho phép mọi người đi những khoảng
cách xa và tạo cơ hội cho các nền văn hóa giao dịch với nhau, trao đổi ý
tưởng và công nghệ. Sức mạnh và sự nhanh nhẹn của ngựa, được vận dụng để
vận chuyển hàng hóa, cày xới đất nông nghiệp và thậm chí phá rừng. Có lẽ
ảnh hưởng nhất của tất cả, ngựa đã thay đổi bản chất của chiến tranh.
Không có gì đáng sợ hơn một cỗ xe kéo hoặc một chiến binh cưỡi ngựa, và
thành thạo việc sử dụng kỵ binh thường chiếm ưu thế trong trận chiến.
7. Bóng bán dẫn
Một bản sao của bóng bán dẫn hoạt động giải trí tiên phong được phát minh vào năm 1947 bởi John Bardeen, Walter Brattain và William Shockley tại Phòng thí nghiệm Bell . Một sự đổi mới không được đánh giá cao về mặt hình sự, bóng bán dẫn là
một thành phần thiết yếu trong hầu hết mọi thiết bị điện tử hiện đại. Được
phát triển lần đầu tiên vào cuối năm 1947 bởi Phòng thí nghiệm Bell, những
thiết bị bán dẫn nhỏ bé này cho phép kiểm soát chính xác lượng và dòng
điện chạy qua các bảng mạch. Ban đầu được sử dụng trong radio, bóng bán
dẫn đã trở thành một phần nguyên tố của mạch điện trong vô số thiết bị
điện tử bao gồm tivi, điện thoại di động và máy tính. Số lượng bóng bán
dẫn trong các mạch tích hợp tăng gấp đôi gần hai năm một lần — hiện tượng
được gọi là Định luật Moore — vì vậy tác động đáng kể của chúng đối với
công nghệ sẽ chỉ tiếp tục phát triển.
8. Ống kính lúp
Nhà thơ người Anh John Milton đến thăm nhà thiên văn học người Ý Galileo Galilei .
Thấu kính lúp có vẻ như là một phát minh không mấy nổi bật, nhưng việc sử
dụng chúng đã giúp nhân loại có cái nhìn thoáng qua về mọi thứ, từ những
ngôi sao và thiên hà xa xôi cho đến hoạt động từng phút của các tế bào
sống. Ống kính lần đầu tiên được sử dụng vào thế kỷ 13 như một dụng cụ hỗ
trợ cho những người nhìn yếu, và những chiếc kính hiển vi và kính thiên
văn đầu tiên được ra đời vào cuối thế kỷ 16 và đầu thế kỷ 17. Những nhân
vật như Robert Hook và Anton van Leeuwenhoek sẽ tiếp tục sử dụng kính hiển
vi để quan sát các tế bào và các hạt khác, trong khi Galileo Galilei và
Johannes Kepler sử dụng kính thiên văn để lập biểu đồ vị trí của Trái đất
trong vũ trụ. Những ứng dụng ban đầu này là những bước đầu tiên trong quá
trình phát triển các thiết bị đáng kinh ngạc như kính hiển vi điện tử và
Kính viễn vọng Không gian Hubble. Kính lúp kể từ đó đã dẫn đến những đột
phá mới trong nhiều lĩnh vực bao gồm thiên văn học, sinh học, khảo cổ học,
đo thị lực và phẫu thuật.
9. Điện báo
Samuel Morse, người phát minh ra máy điện từ ĐK, cũng như hai thiết bị riêng không liên quan gì đến nhau để gửi và nhận tin nhắn .
Điện báo là thiết bị đầu tiên trong một chuỗi dài các đột phá về thông
tin liên lạc mà sau này bao gồm radio, điện thoại và email. Được tiên
phong bởi nhiều nhà phát minh trong thế kỷ 18 và 19, máy điện báo sử dụng
mã Morse nổi tiếng của Samuel Morse để truyền tải thông điệp bằng cách
ngắt dòng điện không ngừng dọc theo dây liên lạc. Các đường dây điện báo
được nhân lên trong suốt những năm 1850, và bởi năm 1902 dây cáp xuyên đại
dương đã bao quanh toàn cầu. Máy điện báo ban đầu và các thiết bị kế thừa
không dây của nó đã trở thành những tiến bộ lớn đầu tiên trong giao tiếp
toàn cầu. Khả năng gửi tin nhắn nhanh chóng qua khoảng cách xa đã tạo ra
tác động không thể xóa nhòa đối với chính phủ, thương mại, ngân hàng, công
nghiệp, chiến tranh và phương tiện truyền thông tin tức, đồng thời hình
thành nền tảng của thời đại thông tin.
10. Thuốc kháng sinh
Giáo sư Alexander Fleming, người đã phát hiện ra penicillin vào năm
1928, đã hình dung đang làm việc trong phòng thí nghiệm của mình vào
năm 1943.
Một bước tiến vượt bậc trong lĩnh vực y học, thuốc kháng sinh đã cứu sống
hàng triệu người bằng cách tiêu diệt và ngăn chặn sự phát triển của vi
khuẩn có hại. Các nhà khoa học như Louis Pasteur và Joseph Lister là những
người đầu tiên nhận ra và cố gắng chống lại vi khuẩn, nhưng Alexander
Fleming mới là người có bước tiến đầu tiên trong lĩnh vực kháng sinh khi
ông tình cờ phát hiện ra loại nấm ức chế vi khuẩn được gọi là penicillin
vào năm 1928. Thuốc kháng sinh được chứng minh là một cải tiến lớn đối với
thuốc sát trùng — loại thuốc diệt tế bào người cùng với vi khuẩn — và việc
sử dụng chúng đã lan rộng nhanh chóng trong suốt thế kỷ 20. Không nơi nào
tác dụng của chúng rõ ràng hơn trên chiến trường: Trong khi gần 20% binh
sĩ mắc bệnh viêm phổi do vi khuẩn đã chết trong Thế chiến thứ nhất, với
thuốc kháng sinh – cụ thể là Penicillin – con số đó giảm xuống chỉ còn 1%
trong Thế chiến thứ hai. Thuốc kháng sinh bao gồm penicillin, vancomycin,
cephalosporin và streptomycin đã tiếp tục chống lại hầu hết các dạng nhiễm
trùng đã biết, bao gồm cúm, sốt rét, viêm màng não, lao và hầu hết các
bệnh lây truyền qua đường tình dục.11. Động cơ hơi nước
Động cơ hơi nước quay bằng sáng chế của James Watt.
Ô tô, máy bay, nhà máy, xe lửa, tàu vũ trụ, không phương thức vận chuyển
nào trong số này có thể thực hiện được nếu không có sự đột phá ban đầu của
động cơ hơi nước. Việc sử dụng thực tế đầu tiên của động cơ đốt ngoài có
từ năm 1698, khi Thomas Savery phát triển một máy bơm nước chạy bằng hơi
nước. Động cơ hơi nước sau đó được hoàn thiện vào cuối những năm 1700 bởi
James Watt, và tiếp tục là nền tảng cho một trong những bước tiến công
nghệ quan trọng nhất trong lịch sử nhân loại trong cuộc Cách mạng Công
nghiệp. Trong suốt những năm 1800, đốt ngoài cho phép cải thiện theo cấp
số nhân trong giao thông vận tải, nông nghiệp và sản xuất, đồng thời cũng
là động lực cho sự trỗi dậy của các siêu cường thế giới như Anh và Mỹ.
Quan trọng hơn hết, nguyên lý cơ bản của động cơ hơi nước về năng lượng
thành chuyển động đã tạo tiền đề cho những cải tiến sau này như động cơ
đốt trong và tuabin phản lực, thúc đẩy sự phát triển của ô tô và máy bay
trong thế kỷ 20.
Source: https://vh2.com.vn
Category : Chế Tạo