Networks Business Online Việt Nam & International VH2

Lý luận tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững nền kinh tế ở Việt Nam

Đăng ngày 26 May, 2023 bởi admin

TÓM TẮT:

Thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2001 – 2010, Việt Nam đã tranh thủ thời cơ, thuận lợi, vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, nhất là những tác động tiêu cực của 2 cuộc khủng hoảng tài chính – kinh tế khu vực và toàn cầu, đạt được những thành tựu to lớn và rất quan trọng, nhiều mục tiêu chủ yếu của Chiến lược đã được thực hiện, đạt bước phát triển mới cả về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, kinh tế tăng trưởng nhanh. Bài viết tập trung đề cập về tăng trưởng kinh tế,, đồng thời đưa ra những giải pháp để phát triển bền vững nền kinh tế ở Việt Nam

 Từ khóa: Tăng trưởng kinh tế, phát triển bền vững, chiến lược phát triển kinh tế.

1. Đặt vấn đề

Tăng trưởng kinh tế là một trong những vấn đề cốt lõi của lý luận về phát triển kinh tế. Tăng trưởng và phát triển kinh tế là mục tiêu hàng đầu của tất cả các nước trên thế giới, là thước đo chủ yếu về sự tiến bộ trong mỗi giai đoạn của mỗi quốc gia.  Mục tiêu tổng quát của kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn 2010 – 2020 của Việt Nam là “Đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, đạt được bước chuyển biến quan trọng về nâng cao hiệu quả và tính bền vững của sự phát triển, sớm đưa Việt Nam ra khỏi tình trạng kém phát triển. Cải thiện rõ rệt đời sống vật chất văn hóa, tinh thần của nhân dân. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức, tạo nền tảng để đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Giữ vững ổn định chính trị và trật tự, an toàn xã hội. Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia. Nâng cao vị thế của Việt Nam trong khu vực và trên 
trường quốc tế.” 

Trong những năm qua, kinh tế Việt Nam đã đạt được nhiều thành tích đáng kể, tăng trưởng luôn ở mức cao, tuy nhiên, so với thực tiễn và tiềm năng vẫn còn một số hạn chế nhất định trong quá trình phát triển kinh tế đất nước. Để thúc đẩy kinh tế đất nước phát triển bền vững, cần tiếp tục có nhiều giải pháp được thực hiện song hành trong thời gian tới.

2. NHỮNG LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ SỰ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG

2.1. Tăng trưởng kinh tế 

Tăng trưởng kinh tế tài chính là sự ngày càng tăng thu nhập của nền kinh tế tài chính trong một khoảng chừng thời hạn nhất định ( thường là một năm ) .
Sự ngày càng tăng được biểu lộ ở quy mô và vận tốc. Quy mô tăng trưởng phản ánh sự ngày càng tăng nhiều hay ít, còn vận tốc tăng trưởng được sử dụng với ý nghĩa so sánh tương đối và phản ánh sự ngày càng tăng nhanh hay chậm giữa những thời kì. Thu nhập của nền kinh tế tài chính hoàn toàn có thể biểu lộ dưới dạng hiện vật hoặc giá trị. Thu nhập bằng giá trị phản ánh qua những chỉ tiêu GNP, GNI và được tính cho toàn thể nền kinh tế tài chính hoặc tính trung bình trên đầu người .
Như vậy, thực chất của tăng trưởng là phản ánh sự biến hóa về lượng so với nền kinh tế tài chính. Ngày nay, nhu yếu tăng trưởng kinh tế tài chính được gắn liền với tính bền vững hay việc bảo vệ chất lượng tăng trưởng ngày càng cao. Theo góc nhìn này, điều được nhấn mạnh vấn đề nhiều hơn là sự ngày càng tăng liên tục, có hiệu suất cao của chỉ tiêu quy mô và vận tốc tăng thu nhập trung bình đầu người. Hơn thế nữa, quy trình ấy phải được tạo nên bởi tác nhân đóng vai trò quyết định hành động là khoa học, công nghệ tiên tiến và vốn nhân lực trong điều kiện kèm theo một cơ cấu tổ chức kinh tế tài chính hợp lý .

Để đạt được sự tăng trưởng kinh tế tốt nhất là đề đạt được sự tăng trưởng ở mức cao thì cần có sự phối hợp đồng bộ giữa điều hành vĩ mô và điều khiển vi mô, kết hợp nhân tố khách quan và nhân tố chủ quan, vận dụng các quy luật kinh tế và sử dụng các công cụ đòn bẩy như thuế, tiền tệ, lãi suất, việc làm,… Tăng trưởng kinh tế là vấn đề cực kỳ quan trọng, liên quan đến sự thịnh suy của một quốc gia. Trên cơ sở giải quyết vấn đề tăng trưởng kinh tế tạo ra nhiều của cải mới, người ta mới có thể giải quyết hàng loạt vấn đề khác như cân bằng ngân sách, đầu tư chiều sâu, phúc lợi xã hội, giải quyết việc làm, chống lại các loại tội phạm, đảm bảo ngân sách cho quốc phòng an ninh,… Ngược lại nếu không đạt được sự tăng trưởng kinh tế ở mức độ cần thiết thì trong xã hội sẽ có khả năng nảy sinh hàng loạt vấn đề rất nan giải. Bài học của Việt Nam trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế trầm trọng (khoảng những năm 1976 – 1986) đã cho ta thấy rõ vai trò của sự tăng trưởng kinh tế quan trọng như thế nào. 

2.2.  Phát triển bền vững

Phát triển bền vững là sự phát triển nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu những nhu yếu hiện tại của con người nhưng không tổn hại tới sự thỏa mãn nhu cầu những nhu yếu của thế hệ tương lai .
Để thiết kế xây dựng một xã hội phát triển bền vững, Chương trình Môi trường Liên Hợp quốc đã đề ra 9 nguyên tắc :
– Tôn trọng và chăm sóc đến đời sống hội đồng .
– Cải thiện chất lượng đời sống của con người .
– Bảo vệ sức sống và tính phong phú của Trái đất .
– Quản lý những nguồn tài nguyên không tái tạo được .
– Tôn trọng năng lực chịu đựng được của Trái đất .
– Thay đổi tập tục và thói quen cá thể .
– Để cho những hội đồng tự quản lý môi trường tự nhiên của mình .
– Tạo ra một khuôn mẫu vương quốc thống nhất, thuận tiện cho việc phát triển và bảo vệ .
– Xây dựng một khối liên minh toàn thế giới .
Phát triển bền vững đang là thử thách cho mọi vương quốc, nhất là trong điều kiện kèm theo toàn thế giới hóa hội nhập kinh tế tài chính quốc tế. Việc lựa chọn con đường, giải pháp và thể chế, chủ trương bảo vệ phát triển bền vững luôn là mối chăm sóc số 1 của mọi người trong bước đường phát triển .
Tiêu chí nhìn nhận

Tăng trưởng kinh tế được xem xét dưới góc độ chất lượng. Chất lượng tăng trưởng kinh tế được thể hiện ở sự phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững của nền kinh tế, thể hiện qua các đặc điểm sau: 

– Tốc độ tăng trưởng cao và được duy trì trong 1 thời hạn dài ;
– Phát triển có hiệu suất cao, bộc lộ qua hiệu suất lao động, hiệu suất gia tài cao và không thay đổi, thông số, hiệu suất cao sử dụng vốn ( ICOR ) tương thích, và góp phần của tác nhân hiệu suất tổng hợp ( TPF ) cao ;
– Nền kinh tế tài chính có tính cạnh tranh đối đầu cao ;
– Tăng trưởng kinh tế tài chính gắn liền với bảo vệ hòa giải đời sống xã hội ;
– Tăng trưởng kinh tế tài chính song song với bảo vệ môi trường sinh thái ;

3. THỰC TRẠNG TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG NỀN KINH TẾ Ở VIỆT NAM

3.1.  Tình hình cụ thể

Bước vào năm năm ngoái, nền kinh tế tài chính Nước Ta liên tục gặp nhiều khó khăn vất vả, thử thách. Khủng hoảng kinh tế tài chính của một số ít nền kinh tế tài chính lớn trong những năm trước đã đẩy kinh tế tài chính quốc tế vào thực trạng suy thoái và khủng hoảng, làm thu hẹp đáng kể thị trường xuất khẩu, thị trường vốn, thị trường lao động và tác động ảnh hưởng xấu đi tới nhiều nghành kinh tế tài chính – xã hội khác. Ở trong nước, thiên tai dịch bệnh xảy ra liên tục trên địa phận cả nước cũng đã gây ảnh hưởng tác động lớn đến sản xuất và đời sống dân cư .

Trong bối cảnh không thuận lợi đó, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 30/2008/NQ-CP ngày 11/12/2008 về những giải pháp cấp bách nhằm ngăn chặn 
suy giảm, duy trì tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội; Ngày 6/4/2015, Bộ 
Chính trị đã ra Kết luận về tình hình kinh tế – xã hội quý I/2015 và các giải pháp chủ yếu đến cuối năm 2015. Ngày 19/6/2015, Quốc hội Khoá XIV đã ra Nghị quyết số 72/2015/QH14 điều chỉnh mục tiêu tổng quát của Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội năm 2015 là “Tập trung cao độ mọi nỗ lực ngăn chặn suy giảm kinh tế, phấn đấu duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế hợp lý, bền vững, giữ ổn định kinh tế vĩ mô; chủ động phòng ngừa lạm phát cao trở lại, bảo đảm an sinh xã hội, quốc phòng, an ninh, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, trong đó, mục tiêu hàng đầu là ngăn chặn suy giảm kinh tế”. 

Nhờ sự chỉ huy, chỉ huy, quản lý và điều hành nhạy bén, kịp thời, tập trung chuyên sâu và kinh khủng của Đảng, nhà nước ; sự nỗ lực và dữ thế chủ động khắc phục khó khăn vất vả, sự phát minh sáng tạo của những Bộ, Ngành, địa phương, những tập đoàn lớn kinh tế tài chính, doanh nghiệp, cơ sở sản xuất và của toàn dân nên Nước Ta đã ngăn ngừa được suy giảm kinh tế tài chính, càng về cuối năm càng nâng cao được vận tốc tăng trưởng .

3.2. Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước 

Theo Tổng cục thống kê, Tổng sản phẩm trong nước ( GDP ) quý IV năm 2018 ước tính tăng 7,31 % so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực nông, lâm nghiệp và thủy hải sản tăng 3,90 % ; khu vực công nghiệp và thiết kế xây dựng tăng 8,65 % và khu vực dịch vụ tăng 7,61 %. Tăng trưởng quý IV / 2018 thấp hơn tăng trưởng quý IV / 2017 nhưng cao hơn tăng trưởng quý IV những năm 2011 – năm nay. Trên góc nhìn sử dụng GDP quý IV năm 2018, tiêu dùng sau cuối tăng 7,51 % so với cùng kỳ năm trước ; tích góp gia tài tăng 9,06 % ; xuất khẩu sản phẩm & hàng hóa và dịch vụ tăng 10,69 % ; nhập khẩu sản phẩm & hàng hóa và dịch vụ tăng 9,50 %. GDP cả năm 2018 tăng 7,08 %, là mức tăng cao nhất kể từ năm 2008 trở về đây, khẳng định tính kịp thời và hiệu suất cao của những giải pháp được nhà nước phát hành, chỉ huy kinh khủng những cấp, những ngành, những địa phương cùng nỗ lực thực thi. Trong mức tăng chung của toàn nền kinh tế tài chính, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy hải sản tăng 3,76 %, góp phần 8,7 % vào mức tăng trưởng chung ; khu vực công nghiệp và kiến thiết xây dựng tăng 8,85 %, góp phần 48,6 % ; khu vực dịch vụ tăng 7,03 %, góp phần 42,7 % .
Tổng sản phẩm trong nước ( GDP ) quý IV / 2019 ước tính tăng 6,97 % so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực nông, lâm nghiệp và thủy hải sản tăng 1,62 % ; khu vực công nghiệp và kiến thiết xây dựng tăng 7,92 % và khu vực dịch vụ tăng 8,09 %. Trên góc nhìn sử dụng GDP quý IV / 2019, tiêu dùng sau cuối tăng 7,29 % so với cùng kỳ năm trước ; tích góp gia tài tăng 8,28 % ; xuất khẩu sản phẩm & hàng hóa và dịch vụ tăng 5,05 % ; nhập khẩu sản phẩm & hàng hóa và dịch vụ tăng 6,71 % .

GDP năm 2019 đạt kết quả ấn tượng với tốc độ tăng 7,02% (Quý I tăng 6,82%, quý II tăng 6,73%; quý III tăng 7,48%; quý IV tăng 6,97%), vượt mục tiêu của Quốc hội đề ra từ 6,6%-6,8%, khẳng định tính kịp thời và hiệu quả của các giải pháp được Chính phủ ban hành, chỉ đạo quyết liệt các cấp, các ngành, các địa phương và cộng đồng doanh nghiệp cùng nỗ lực thực hiện để đạt và vượt mục tiêu tăng trưởng. Mức tăng trưởng năm nay tuy thấp hơn mức tăng 7,08% của năm 2018 nhưng cao hơn mức tăng của các năm 2011-2017. Trong mức tăng chung của toàn nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,01%, đóng góp 4,6% vào mức tăng chung; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 8,90%, đóng góp 50,4%; khu vực dịch vụ tăng 7,3%, đóng góp 45%.

Trong khu vực công nghiệp và kiến thiết xây dựng, ngành công nghiệp năm 2019 duy trì mức tăng trưởng cao với 8,86 %, góp phần 2,91 điểm Xác Suất vào vận tốc tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế tài chính. Ngành công nghiệp chế biến, sản xuất liên tục đóng vai trò chủ chốt dẫn dắt nền kinh tế tài chính tăng trưởng với mức tăng 11,29 %, góp phần 2,33 điểm Tỷ Lệ. Ngành công nghiệp khai khoáng tăng nhẹ ở mức 1,29 % sau 3 năm sụt giảm liên tục, góp phần 0,09 điểm Xác Suất vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế tài chính. Ngành thiết kế xây dựng duy trì đà tăng trưởng tích cực với vận tốc 9,1 %, góp phần 0,66 điểm Phần Trăm vào mức tăng chung .
Khu vực dịch vụ năm 2019 tăng 7,3 %, chỉ thấp hơn mức tăng 7,47 % của năm 2011 và 7,44 % của năm 2017 trong quy trình tiến độ 2011 – 2019. Trong khu vực dịch vụ, góp phần của 1 số ít ngành dịch vụ thị trường có tỷ trọng lớn vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm năm 2019 như sau : Bán buôn và kinh doanh bán lẻ tăng 8,82 % so với năm 2018, là ngành có vận tốc tăng trưởng cao thứ hai trong khu vực dịch vụ nhưng góp phần lớn nhất vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm toàn nền kinh tế tài chính ( 0,96 điểm Tỷ Lệ ) ; hoạt động giải trí kinh tế tài chính, ngân hàng nhà nước và bảo hiểm tăng 8,62 %, góp phần 0,56 điểm Xác Suất ; ngành vận tải đường bộ, kho bãi tăng cao nhất trong khu vực dịch vụ với mức tăng 9,12 %, góp phần 0,3 điểm Tỷ Lệ ; dịch vụ lưu trú và nhà hàng siêu thị tăng 6,71 %, góp phần 0,28 điểm Tỷ Lệ .
Riêng khu vực nông, lâm nghiệp và thủy hải sản năm 2019 đạt mức tăng trưởng thấp do hạn hán, biến hóa khí hậu tác động ảnh hưởng tới hiệu suất và sản lượng cây cối, ngành chăn nuôi chịu thiệt hại nặng nề bởi dịch tả lợn châu Phi, nông sản gặp khó khăn vất vả về thị trường tiêu thụ và giá xuất khẩu. Tăng trưởng của khu vực nông, lâm nghiệp và thủy hải sản năm 2019 đạt 2,01 %, chỉ cao hơn mức tăng 1,36 % của năm năm nay trong quy trình tiến độ 2011 – 2019. Ngành nông nghiệp đạt mức tăng thấp 0,61 %, là mức tăng thấp nhất trong tiến trình 2011 – 2019, góp phần 0,07 điểm Phần Trăm vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế tài chính ; ngành lâm nghiệp tăng 4,98 % nhưng chiếm tỷ trọng thấp nên chỉ góp phần 0,04 điểm Xác Suất. Điểm sáng của khu vực này là ngành thủy hải sản tăng trưởng khá ở mức 6,3 %, góp phần 0,21 điểm Phần Trăm do sản lượng nuôi trồng và khai thác đạt khá .

Về cơ cấu kinh tế năm 2019, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 13,96% GDP; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 34,49%; khu vực dịch vụ chiếm 41,64%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 9,91% (Cơ cấu tương ứng của năm 2018 là: 14,68%; 34,23%; 41,12%; 9,97%).

Trên góc nhìn sử dụng GDP năm 2019, tiêu dùng sau cuối tăng 7,23 % so với năm 2018 ; tích góp gia tài tăng 7,91 % ; xuất khẩu sản phẩm & hàng hóa và dịch vụ tăng 6,71 % ; nhập khẩu sản phẩm & hàng hóa và dịch vụ tăng 8,35 % .

4. Giải pháp để phát triển bền vững nền kinh tế ở Việt Nam

Phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững, phát triển bền vững là nhu yếu xuyên thấu trong Chiến lược của Đảng .
Phải phát triển bền vững về kinh tế tài chính, giữ vững không thay đổi kinh tế tài chính vĩ mô, bảo vệ bảo mật an ninh kinh tế tài chính. Đẩy mạnh vận động và di chuyển cơ cấu tổ chức kinh tế tài chính, quy đổi quy mô tăng trưởng, coi chất lượng, hiệu suất, hiệu suất cao, sức cạnh tranh đối đầu là ưu tiên số 1, chú trọng phát triển theo chiều sâu, phát triển kinh tế tri thức. Tăng trưởng kinh tế tài chính phải tích hợp hòa giải với phát triển văn hóa truyền thống, thực thi tân tiến và công minh xã hội, không ngừng nâng cao chất lượng đời sống của nhân dân. Phát triển kinh tế tài chính – xã hội phải luôn coi trọng bảo vệ và cải tổ môi trường tự nhiên, dữ thế chủ động ứng phó với biến hóa khí hậu. Nước ta có điều kiện kèm theo phát triển nhanh và nhu yếu phát triển nhanh cũng đang đặt ra rất là cấp thiết. Phát triển bền vững là cơ sở để phát triển nhanh, phát triển nhanh để tạo nguồn lực cho phát triển bền vững. Phát triển nhanh và bền vững phải luôn gắn chặt với nhau trong quy hoạch, kế hoạch và chủ trương phát triển kinh tế tài chính – xã hội .
Phải đặc biệt quan trọng coi trọng giữ vững không thay đổi chính trị – xã hội, tăng cường quốc phòng, bảo mật an ninh, bảo vệ vững chãi độc lập, chủ quyền lãnh thổ, thống nhất và toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ để bảo vệ cho quốc gia phát triển nhanh và bền vững .
Tiếp tục hoàn thành xong thể chế kinh tế thị trường khuynh hướng xã hội chủ nghĩa nhằm mục đích cung ứng sự nghiệp thay đổi của Đảng và thực thi những tiềm năng kinh tế tài chính – xã hội .
Điều cần chú ý quan tâm là thay đổi hoạt động giải trí ngân hàng nhà nước – kinh tế tài chính là khâu cải tiến vượt bậc trong suốt tiến trình thay đổi nền kinh tế tài chính. Cơ chế quản trị, giám sát hoạt động giải trí ngân hàng nhà nước – kinh tế tài chính được thay đổi theo hướng thông thoáng hơn, tương thích với tự do hóa kinh tế tài chính nhằm mục đích tạo thiên nhiên và môi trường thuận tiện cho những tổ chức triển khai tín dụng thanh toán hoạt động giải trí theo nguyên tắc thị trường. Tập trung triển khai xong mạng lưới hệ thống pháp lý về kinh tế thị trường. Tạo lập đồng nhất và quản lý và vận hành thông suốt những loại thị trường, nhất là thị trường kinh tế tài chính. Chú trọng link giữa thị trường tiền tệ với thị trường vốn. Kết hợp ngặt nghèo chủ trương tiền tệ với chủ trương tài khóa để không thay đổi kinh tế tài chính vĩ mô, tăng dự trữ ngoại tệ, khuyến khích thực hành thực tế tiết kiệm chi phí trong tiêu dùng, tập trung chuyên sâu vốn cho góp vốn đầu tư phát triển. Cơ chế điều hành quản lý chủ trương tiền tệ được chuyển từ chính sách kế hoạch hóa sang chính sách quản lý dựa vào thị trường với việc từng bước vô hiệu những giải pháp trấn áp tiền tệ trực tiếp như những kế hoạch tiền mặt, kế hoạch tín dụng thanh toán, trần tín dụng thanh toán ấn định lãi suất vay và đưa vào vận dụng những công cụ chủ trương tiền tệ gián tiếp như nhiệm vụ thị trường mở, chiết khấu, dự trữ bắt buộc được quản lý và vận hành linh động và tương thích với thông lệ quốc tế .
Phát triển nhanh, hiệu suất cao và bền vững, tăng trưởng kinh tế tài chính song song với triển khai tân tiến, công minh xã hội và bảo vệ thiên nhiên và môi trường .
Phát huy mọi nguồn lực để phát triển nhanh và có hiệu suất cao những loại sản phẩm, ngành, nghành mà Nước Ta có lợi thế, phân phối nhu yếu trong nước và tăng nhanh xuất khẩu, không ngừng nâng cao sức cạnh tranh đối đầu trên thị trường trong nước và ngoài nước. Tăng nhanh hiệu suất lao động xã hội và nâng cao chất lượng tăng trưởng. Triệt để tiết kiệm chi phí, chống tiêu tốn lãng phí, tăng tích góp cho góp vốn đầu tư phát triển .

       Tăng nhanh năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ, nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đẩy mạnh việc ứng dụng có hiệu quả các công nghệ nhập khẩu. Đi nhanh vào công nghệ hiện đại ở những ngành và lĩnh vực then chốt để tạo bước nhảy vọt về công nghệ và kinh tế, tạo tốc độ tăng trưởng vượt trội ở những sản phẩm và dịch vụ chủ lực. Công nghiệp hoá gắn với hiện đại hoá ngay từ đầu và trong suốt các giai đoạn phát triển. Nâng cao hàm lượng tri thức trong các nhân tố phát triển kinh tế – xã hội, từng bước phát triển kinh tế tri thức ở nước ta.

Tiếp tục phát triển những thành phần kinh tế tài chính để đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế tài chính, chuyển dời cơ cấu tổ chức kinh tế tài chính, xóa đói giảm nghèo .
Qua hơn 20 năm thay đổi, nền kinh tế tài chính nước ta đã đạt được những thành tựu đáng kể. Thực tiễn cho thấy phát triển kinh tế tài chính sản phẩm & hàng hóa là tiến trình thấp của kinh tế thị trường, tăng nhanh sản xuất sản phẩm & hàng hóa trong điều kiện kèm theo quốc gia còn nghèo thì phát triển nền kinh tế tài chính nhiều thành phần là đúng hướng. Những tẩy chay về kinh tế tài chính tư nhân đã từ từ không còn mặc cảm. Chính nhờ phát triển kinh tế tài chính tư nhân, kinh tế tài chính trang trại đã xử lý nhiều việc làm cho người lao động, tăng thu nhập cho dân cư, góp thêm phần xóa đói giảm nghèo. Trong thực tiễn đã Open nhiều quy mô kinh tế tài chính hoạt động giải trí sản xuất – kinh doanh thương mại có hiệu suất cao, trở thành triệu phú. Đến Đại hội Đảng X, được cho phép đảng viên làm kinh tế tài chính tư nhân là một bước nhận thức mới trong tiến trình hội nhập kinh tế tài chính quốc tế. Mục tiêu là đưa Nước Ta trở thành một nước công nghiệp, dân giàu, nước mạnh, xã hội công minh, dân chủ, văn minh .
Để triển khai tiềm năng này, kinh tế tài chính nhà nước phải là đầu tàu để cùng những thành phần kinh tế tài chính khác phát triển. Kinh tế nhà nước sẽ xuất hiện ở những nơi khó khăn vất vả, xung yếu, làm những việc mà kinh tế tài chính tư nhân và những thành phần kinh tế tài chính khác không hề làm được, hoặc làm không hiệu suất cao. Điều quan trọng là bất kể một đảng cầm quyền nào thì việc quản lý và điều hành nền kinh tế tài chính – xã hội đều phải kiến thiết xây dựng một nền kinh tế tài chính mạnh. Sức mạnh của nền kinh tế tài chính là phải điều phối được nhịp độ tăng trưởng kinh tế tài chính, kiềm chế được vận tốc tăng lạm phát kinh tế, tự chủ được kinh tế tài chính vương quốc không phụ thuộc vào vào kinh tế tài chính bên ngoài. Sự độc lập trong tiến trình quản lý quốc gia đi theo tiềm năng và xu thế đã chọn là bộc lộ thế mạnh của một vương quốc. Để làm được điều đó, kinh tế tài chính nhà nước cần được nắm giữ và coi trọng phát triển .
Phát triển những mô hình dịch vụ trong nền kinh tế thị trường sẽ tạo nguồn thu lớn thôi thúc nền kinh tế tài chính phát triển, theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa .

Ở các nước phát triển, các loại hình dịch vụ phát triển chiếm tỷ trọng cao (Mỹ chiếm 70%, Anh, Pháp, Đức là 60%, Nhật Bản là 50%, Hàn Quốc 50%,…) trong nền kinh tế. Sở dĩ ở các nước công nghiệp có các loại hình dịch vụ phát triển. Do yêu cầu khách quan của nền kinh tế thị trường đòi hỏi phải có các dịch vụ mới thúc đẩy được sản xuất kinh doanh phát triển.

Điều đáng chú ý quan tâm là những mô hình dịch vụ ở mỗi ngành lại có tính đặc trưng riêng yên cầu phải có trình độ tương thích. Trong tiến trình hội nhập kinh tế tài chính quốc tế, những mô hình dịch vụ phải vươn lên Giao hàng cho những nước. Vấn đề đặt ra là những mô hình dịch vụ phải nâng cao, có nhiệm vụ vững mới cung ứng được nhu yếu của người mua trong và ngoàinước. Sự phát triển kinh tế tài chính – xã hội của mỗi tiến trình yên cầu những mô hình dịch vụ phải vươn lên thích ứng chớp lấy để Giao hàng có hiệu suất cao .

5. Kết luận

Tăng trưởng là điều kiện cần, là phương tiện, còn phát triển là động lực, là mục tiêu của nền kinh tế. Để có một nền kinh tế phát triển bền vững phải có sự kết hợp chặt chẽ nhiều yếu tố như bảo vệ môi trường, có cơ cấu kinh tế một cách hợp lý và đặc biệt là phải quan tâm đến việc cải thiện các 
vấn đề xã hội và đời sống cho người dân.  Bền vững về môi trường là giữ gìn được không gian sinh tồn của con người cung cấp được tài nguyên, chứa đựng, xử lý được các phế thải, bền vững về xã hội là mở rộng cơ hội lựa chọn, nâng cao năng lực lựa chọn, mọi người cùng được tham gia và hưởng lợi từ quá trình phát triển.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

  1. Trần Đình Mạnh, Trần Đình Hùng (2018), Phát triển kinh tế Việt Nam theo hướng bền vững, Tạp chí Tài chính, Kỳ 2 tháng 6/2018.
  2. Tổng cục Thống kê (2019), Tình hình kinh tế – xã hội quý IV và năm 2019.
  3. Thanh Hằng (2019). Kỷ lục mới của kinh tế Việt Nam,

A DISCUSSION ON THE ECONOMIC GROWTH

AND SUSTAINABLE ECONOMIC DEVELOPMENT OF VIETNAM

Master. PHAM THI HANG
Dong Nai Technology University
PHAM THI NGOC
Van Lang University

ABSTRACT:

During the implementation of the 2001-2010 socio-economic development strategy, Vietnam took advantage of opportunities and made the most out of advantages to overcome many difficulties and challenges, especially the adverse impacts of two regional and global financial – economic crises. The country has gained great and very important achievements and completed many major goals of the national development strategy, achieving encouraged developments in terms of production forces, production relations and fast economic growth. This paper analyzes the economic development of Vietnam and proposes some solutions for Vietnam’s sustainable economic development.

Keywords: Economic growth, sustainable development, economic development strategy.

[ Tạp chí Công Thương – Các tác dụng nghiên cứu và điều tra khoa học và ứng dụng công nghệ tiên tiến ,

Số 20, tháng 8 năm 2020 ]

Source: https://vh2.com.vn
Category : Đánh Giá