Hướng dẫn cách làm cơm cháy tương hột kho quẹt ngon đơn giản dễ làm Cơm cháy tương hột kho quẹt là món chay vô cùng thơm ngon. Cùng Bách...
Thực trạng công nghiệp Việt Nam thời gian qua – https://vh2.com.vn
I. Những thành tựu đạt được
Công nghiệp là ngành kinh tế tài chính quan trọng, những năm gần đây có góp phần lớn nhất cho ngân sách nhà nước, trở thành ngành xuất khẩu chủ yếu với vận tốc tăng trưởng ở mức cao. Cơ cấu các ngành công nghiệp có sự chuyển biến tích cực, một số ít ngành công nghiệp như : điện, điện tử, công nghệ thông tin và viễn thông, sản xuất thiết bị nguồn năng lượng, dệt may, da giày, kiến thiết xây dựng … đã có những bước tăng trưởng can đảm và mạnh mẽ, góp thêm phần tích cực trong xử lý việc làm, vận động và di chuyển cơ cấu tổ chức lao động, tăng hiệu suất và nâng cao đời sống của nhân dân .Trong 10 năm qua, công nghiệp Nước Ta đã đạt được 1 số ít thành tựu đáng quan tâm sau :
– Công nghiệp là ngành đóng góp ngày càng lớn trong nền kinh tế. Bình quân giai đoạn 2006 – 2017, công nghiệp chiếm hơn 30% trong GDP của cả nước. Ngành công nghiệp cũng là ngành đóng góp lớn nhất cho ngân sách nhà nước.
– Sản xuất công nghiệp liên tục tăng trưởng với tốc độ khá cao. Tổng giá trị sản xuất công nghiệp tăng liên tục trong giai đoạn 2006 – 2017, giá trị gia tăng công nghiệp tăng bình quân 6,79%/năm.
Năm 2018, trong mức tăng trưởng của toàn nền kinh tế tài chính, khu vực công nghiệp tăng 8,79 %, góp phần 2,85 điểm Phần Trăm vào vận tốc tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế tài chính .Ngành công nghiệp chế biến, sản xuất liên tục khẳng định chắc chắn là điểm sáng của khu vực công nghiệp và là động lực chính của tăng trưởng với mức tăng 12,98 %, tuy thấp hơn mức tăng của cùng kỳ năm 2017 nhưng cao hơn nhiều so với mức tăng các năm 2012 – năm nay [ 1 ], góp phần 2,55 điểm Phần Trăm vào vận tốc tăng tổng giá trị tăng thêm của nền kinh tế tài chính. Tuy nhiên, ngành công nghiệp khai khoáng liên tục xu thế giảm theo xu thế tái cơ cấu tổ chức chung ( giảm 3,11 % ), làm giảm 0,23 điểm Tỷ Lệ mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế tài chính .Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp ước tính tăng 10,2 %, vượt mức chỉ tiêu kế hoạch đã được đặt ra từ đầu năm ( tăng 9 % ), tuy thấp hơn mức tăng 11,3 % của năm 2017 nhưng cao hơn mức tăng các năm 2012 – năm nay [ 2 ]. Ngành công nghiệp chế biến, sản xuất tăng trưởng với vận tốc cao, tương thích với khuynh hướng tái cơ cấu tổ chức quy mô tăng trưởng của toàn ngành công nghiệp .
– Cơ cấu các ngành công nghiệp có sự chuyển biến tích cực, tăng tỷ trọng của công nghiệp chế biến, chế tạo và giảm tỷ trọng của ngành khai khoáng, phù hợp với định hướng tái cơ cấu ngành. Đóng góp vào tăng trưởng GDP của công nghiệp chế biến, chế tạo liên tục tăng từ năm 2015. Tỷ trọng GDP của nhóm ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng từ 14,6% bình quân giai đoạn 2011 – 2015 lên 16,2% năm 2016, 17,4% năm 2017 và 18,3% ước cho năm 2018; của nhóm ngành khai khoáng giảm từ 8,8% bình quân giai đoạn 2011 – 2015 xuống 7,6% năm 2016, 6,6% năm 2017 và 6% ước cho năm 2018.
Một số ngành công nghiệp đã có bước tăng trưởng can đảm và mạnh mẽ, nhất là các ngành điện tử, dệt may, da – giày, chế biến thực phẩm … Tỷ trọng các doanh nghiệp có trình độ công nghệ cao và công nghệ tiên tiến trung bình ngày càng tăng. Đã có một số ít doanh nghiệp công nghiệp có quy mô lớn và có năng lực cạnh tranh đối đầu trên thị trường trong nước và quốc tế .
– Công nghiệp trở thành ngành xuất khẩu chủ đạo với tốc độ tăng trưởng ở mức cao; cơ cấu sản phẩm công nghiệp xuất khẩu đã có sự dịch chuyển tích cực. Trong giai đoạn 2006 – 2016, kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp tăng gần 3,5 lần, chiếm tới 90% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, trong đó tỷ trọng các sản phẩm công nghiệp chế biến, chế tạo ngày càng tăng. Nhiều mặt hàng công nghiệp như da – giày, dệt may, điện tử có vị trí xếp hạng xuất khẩu cao so với khu vực và thế giới.
– Đã hình thành và phát triển được một số tập đoàn công nghiệp tư nhân trong nước có tiềm lực tốt hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp chế biến chế tạo. Điển hình như trong lĩnh vực sản xuất lắp ráp ô tô là các Tập đoàn VinGroup, Trường Hải, Thành Công; trong lĩnh vực sản xuất chế biến sữa và thực phẩm là Vinamilk, TH; trong lĩnh vực sắt thép, kim khí là Tập đoàn Hoa Sen, Tập đoàn Hòa Phát, Công ty TNHH Hòa Bình Minh, Công ty thép Pomina, Công ty CP thép Nam Kim… Đây là những tín hiệu tốt cho thấy các chủ trương chung của Đảng, cơ chế chính sách của Chính phủ đã tạo được niềm tin tưởng và hứng khởi cho các doanh nghiệp tập trung đầu tư phát triển lớn, dài hạn trong các ngành công nghiệp trọng điểm của đất nước.
– Phát triển công nghiệp đã góp phần tích cực trong giải quyết việc làm và nâng cao đời sống của nhân dân. Lực lượng lao động trong ngành công nghiệp ngày càng tăng về số lượng. Bình quân mỗi năm, ngành công nghiệp tạo thêm khoảng 300.000 việc làm.
II. Những tồn tại và hạn chế
Mặc dù đạt được 1 số ít thành tựu, tuy nhiên, nền công nghiệp nước ta thời hạn qua tăng trưởng chưa cung ứng được nhu yếu công nghiệp hóa, tân tiến hóa quốc gia, hầu hết tăng trưởng theo các tiềm năng thời gian ngắn, thiếu tính bền vững và kiên cố. Những hạn chế, sống sót của công nghiệp Nước Ta hầu hết gồm :
– Tăng trưởng công nghiệp chưa đáp ứng được yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Công nghiệp chưa thực sự là nòng cốt thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Trong nhiều năm qua, tỷ trọng của công nghiệp trong GDP thay đổi không lớn. Tốc độ tăng trưởng công nghiệp có xu hướng tăng song vẫn ở mức thấp so với yêu cầu công nghiệp hóa.
– Tái cơ cấu các ngành công nghiệp thực hiện còn chậm, chưa tạo ra những thay đổi đáng kể về cơ cấu ngành, chưa tạo ra động lực mạnh mẽ thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
– Trình độ công nghệ nhìn chung còn thấp, chậm được đổi mới, nhất là đối với các doanh nghiệp công nghiệp trong nước. Hiện nay, phần lớn doanh nghiệp công nghiệp nước ta vẫn đang sử dụng công nghệ tụt hậu so với mức trung bình của thế giới từ 2 – 3 thế hệ, đặc biệt là trình độ cơ khí chế tạo (là trụ cột của sản xuất công nghiệp).
– Công nghiệp chưa thu hút mạnh mẽ lao động để tạo ra sự dịch chuyển cơ cấu lao động chung của nền kinh tế đáp ứng yêu cầu của công nghiệp hóa. Tỷ lệ lao động công nghiệp trong tổng lao động có việc làm của nước ta thấp hơn nhiều so với các nước khác đã thực hiện thành công công nghiệp hóa trong giai đoạn nửa đầu của thời kỳ dân số vàng.
– Nội lực của ngành công nghiệp còn yếu, phụ thuộc nhiều vào các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong khi việc chuyển giao công nghệ còn hạn chế; năng lực, hiệu quả của các doanh nghiệp công nghiệp trong nước ở mức thấp.
– Năng lực cạnh tranh của ngành công nghiệp còn thấp, kém xa các nước khác trong khu vực và châu lục.
– Khả năng tham gia vào chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu của các sản phẩm công nghiệp Việt Nam còn rất hạn chế, chủ yếu tham gia vào khâu gia công, lắp ráp. Phần lớn các mặt hàng công nghiệp của Việt Nam có hàm lượng công nghệ thấp, ngoại trừ hàng điện tử chủ yếu do khu vực FDI nắm giữ. Số lượng sản phẩm công nghiệp chủ lực Việt Nam có lợi thế so sánh đang có xu hướng giảm.
– Chất lượng năng suất lao động ngành công nghiệp còn thấp, có khoảng cách khá xa so với các nước khác.
– Nhiều ngành công nghiệp ưu tiên phát triển không đạt mục tiêu đã đề ra. Trong số các ngành ưu tiên theo xác định của Chính phủ, có các ngành công nghiệp ưu tiên có tốc độ tăng trưởng khá cao là dệt may, da – giày, thép, điện tử. Tuy nhiên, các ngành công nghiệp này chỉ thực sự tham gia được ở một vài khâu có giá trị gia tăng thấp trong chuỗi giá trị, phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu nguyên vật liệu, các sản phẩm trung gian, máy móc thiết bị sản xuất trong khi nguồn lực nhà nước hỗ trợ các ngành này thông qua ưu đãi về thuế là khá lớn. Nhiều ngành công nghiệp ưu tiên khác không đạt mục tiêu đã đề ra.
– Công nghiệp hỗ trợ kém phát triển. Hiện nay, công nghiệp hỗ trợ mới đáp ứng được khoảng 10% nhu cầu trong nước về sản phẩm công nghiệp hỗ trợ đối với các sản phẩm chủ yếu là linh kiện và chi tiết đơn giản, có giá trị thấp trong cơ cấu giá trị sản phẩm. Tỷ lệ nội địa hóa của hầu hết các ngành công nghiệp ở mức thấp.
– Vốn đầu tư vào khu vực công nghiệp đa số tập trung vào các ngành có thời gian hoàn vốn ngắn như công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và chế biến thực phẩm, số dự án đầu tư vào công nghệ cao chưa nhiều.
– Liên kết vùng trong phát triển công nghiệp còn hạn chế và kém hiệu quả. Không gian phát triển công nghiệp hiện nay còn bị chia cắt theo địa giới hành chính, thiếu sự hợp tác và phân công lao động trong vùng, chưa có sự phân bố hợp lý trên phạm vi toàn quốc dựa trên lợi thế so sánh. Việc kết hợp và lồng ghép chính sách phát triển ngành công nghiệp với chính sách phát triển vùng chưa hiệu quả, chưa xây dựng được mạng lưới các cụm công nghiệp.
– Phát triển công nghiệp gắn kết chưa chặt chẽ với các ngành kinh tế khác, đặc biệt là nông nghiệp.
Ngành công nghiệp tăng trưởng thiếu kết nối ngặt nghèo đã tác động ảnh hưởng đến việc phát huy tối đa lợi thế của các ngành kinh tế tài chính khác, trong đó đặc biệt quan trọng là nông nghiệp. Giữa công nghiệp và nông nghiệp là mối link cộng sinh, không hề tăng trưởng ngành này mà không cần đến sự tăng trưởng của ngành kia, và ngược lại. Đối với công nghiệp, nông nghiệp là nguồn cung nguyên vật liệu nguồn vào như mía, bông, trà, gạo, lúa mì … cho ngành công nghiệp chế biến. Ngược lại, so với nông nghiệp, công nghiệp là ngành phân phối công cụ lao động, máy móc thiết bị giúp nâng cao hiệu suất cao sản xuất như máy kéo, máy cày, máy thu hoạch, máy bơm nước, phân bón … tăng hiệu suất cao tiếp cận thị trường cho các loại sản phẩm nông nghiệp trải qua các hoạt động giải trí kiến thiết xây dựng đường sá, chợ, nhà hàng, nhà kho … Trong các chủ trương tăng trưởng công nghiệp phục vụ nông nghiệp, nông thôn, trọng tâm là việc cơ khí hóa nông nghiệp và tăng trưởng các ngành công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy hải sản .
Xem thêm: Ẩm thực Đài Loan – Wikipedia tiếng Việt
+ Đối với việc cơ khí hóa nông nghiệp : Theo số liệu của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, mức độ trang bị động lực cho nông nghiệp của Việt Nam trung bình đạt 1,6 mã lực ( HP ) / ha canh tác, thấp hơn nhiều so với Vương Quốc của nụ cười ( 4 HP / ha ), Trung Quốc ( 8 HP / ha ), Nước Hàn ( 10 HP / ha ) .Hiện nay, Nước Ta phải nhập khẩu gần 70 % số máy móc phục vụ nông nghiệp, phần đông trong số đó có nguồn gốc từ Trung Quốc. Tại đồng bằng sông Cửu Long, việc cơ giới hóa canh tác được thực thi đa phần trong ngành trồng lúa, mía đường. Ngược lại, tỷ suất này còn rất thấp với các cây xanh cạn khác ở vùng Tây Bắc, Tây Nguyên. Trên thực tiễn, có rất nhiều loại máy nông nghiệp, nhờ vào vào quá trình canh tác, thu hoạch các loại cây xanh khác nhau, điều kiện kèm theo thổ nhưỡng và khí hậu của từng vùng miền .Hiện nay, ngành Cơ khí phục vụ nông nghiệp đang phải đương đầu với hai yếu tố quan trọng cần xử lý. Thứ nhất là chất lượng sắt kẽm kim loại của chi tiết cụ thể máy nông nghiệp chưa được góp vốn đầu tư đúng mức, đa phần ở các khâu công nghệ tiên tiến rèn, đúc chi tiết cụ thể máy, công nghệ tiên tiến gia công và công nghệ tiên tiến nhiệt luyện để tăng độ bền và tuổi thọ cụ thể máy. Thứ hai là chất lượng nguồn nhân lực chưa cung ứng nhu yếu về quản lý và vận hành máy móc cơ giới hóa nông nghiệp .Thực tế này cho thấy ngành cơ khí nông nghiệp lúc bấy giờ còn nhiều yếu kém, chưa có sự chăm sóc góp vốn đầu tư can đảm và mạnh mẽ. Mặc dù Nhà nước đã phát hành nhiều chủ trương và chủ trương nhằm mục đích thôi thúc tăng trưởng nông nghiệp, nhưng việc tổ chức triển khai thực thi chưa đem lại tác dụng như mong đợi .+ Công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy hải sản đã đạt được những bước tăng trưởng tích cực những năm gần đây. Cả nước đã hình thành mạng lưới hệ thống khoảng chừng hơn 7.500 doanh nghiệp chế biến nông lâm thủy hải sản, trong đó có một số ít ngành hàng có công nghệ tiên tiến văn minh, cung ứng nhu yếu khắc nghiệt của các thị trường xuất khẩu. Tốc độ tăng trưởng giá trị ngày càng tăng hàng năm đạt 5-7 % .Nhờ công nghiệp chế biến nông sản tăng trưởng mạnh mà các mặt hàng nông sản xuất khẩu tăng trung bình khoảng chừng 8-10 % / năm. Bước đầu đã có một số ít ngành hàng, doanh nghiệp góp vốn đầu tư thay đổi công nghệ tiên tiến, chú trọng vận dụng tiêu chuẩn kỹ thuật tiên tiến và phát triển, phân phối nhu yếu về chất lượng, bảo đảm an toàn thực phẩm và các thị trường hạng sang .Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, sự tăng trưởng của ngành công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy hải sản của nước ta chưa tương ứng với tiềm năng. Phần lớn trong số các mẫu sản phẩm nông lâm thủy hải sản chế biến được xuất khẩu là ở dưới dạng sơ chế thô. Theo nhìn nhận của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, giá trị hàng nông sản chế biến của nước ta thường thấp hơn từ 15 – 50 % so với các loại sản phẩm cùng loại từ những nước khác .
III. Nguyên nhân của các hạn chế, yếu kém
– Môi trường kinh tế vĩ mô chưa thuận lợi cho việc phát triển các ngành công nghiệp. Sau khi gia nhập WTO năm 2007, qui mô nền kinh tế được mở rộng. Tuy nhiên trong thời gian dài đến năm 2015, môi trường kinh tế vĩ mô còn chưa ổn định, chưa tạo điều kiện và khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực sản xuất. Một số lĩnh vực kinh doanh dịch vụ đem lại tỷ suất lợi nhuận cao đã thu hút phần lớn nguồn lực của xã hội. Bên cạnh đó việc thu hồi vốn chậm, tỷ suất lợi nhuận thấp do lãi suất tín dụng cao chưa khuyến khích và đánh thức được sự quan tâm của xã hội đầu tư vào lĩnh vực sản xuất công nghiệp (thiếu tinh thần xã hội sản xuất). Điều đó dẫn đến số lượng các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp kém phát triển và ít ỏi như hiện nay.
(Việc khởi tạo doanh nghiệp công nghiệp chế tạo gặp nhiều khó khăn và rủi ro so với việc thành lập doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ. Theo số liệu từ Tổng cục Thống kê, tỷ lệ doanh nghiệp công nghiệp chế biến, chế tạo thành lập mới chỉ chiếm hơn 12,5% tổng số doanh nghiệp thành lập mới trong năm 2016. Hiện nay, số lượng doanh nghiệp hoạt động trong các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo chỉ chiếm khoảng gần 15% tổng số doanh nghiệp trong nền kinh tế
Trong khi đó, riêng quận Oita, một trong 23 quận của thành phố Tokyo có hơn 3000 doanh nghiệp chế tạo, tỉnh Kanagawa có 60.000 doanh nghiệp chế biến chế tạo tương đương với số doanh nghiệp chế biến chế tạo của Việt Nam, (75.000 năm 2017) trong đó phần lớn các doanh nghiệp CNHT có qui mô vừa, nhỏ và siêu nhỏ nhưng tham gia rất sâu vào các chuỗi sản xuất toàn cầu ở các phân đoạn có giá trị gia tăng rất cao như cung cấp linh kiện và phụ tùng cho công nghiệp hàng không).
– Chính sách phát triển công nghiệp thời gian qua chưa thực sự hiệu quả. Chưa tạo lập được môi trường kinh doanh công nghiệp thuận lợi, minh bạch, ổn định và thúc đẩy cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh; Chính sách phát triển các ngành công nghiệp ưu tiên và ngành công nghiệp mũi nhọn còn quá dàn trải; Chính sách phát triển công nghiệp của nhiều địa phương còn hình thức, chưa phù hợp với lợi thế so sánh, thiếu sự phối hợp dẫn đến cạnh tranh không lành mạnh, làm ảnh hưởng đến quy hoạch công nghiệp của vùng, của quốc gia; Chưa có các chính sách đủ mạnh để chuyển dịch cơ cấu nội bộ ngành công nghiệp theo hướng gia tăng các ngành công nghiệp công nghệ cao.
– Chưa có đột phá trong huy động, phân bổ và sử dụng hiệu quả các nguồn lực cho phát triển công nghiệp. Nguồn đầu tư của xã hội cho phát triển công nghiệp phụ thuộc ngày càng nhiều vào nước ngoài. Đầu tư của nhà nước vào các ngành công nghiệp thiếu trọng tâm, kém hiệu quả. Tín dụng cho phát triển công nghiệp, nhất là công nghiệp chế biến, chế tạo, công nghiệp công nghệ cao, các ngành công nghiệp ưu tiên còn ở mức thấp. Thị trường chứng khoáng phát triển chưa tương xứng với yêu cầu phát triển công nghiệp.
– Chất lượng lao động ngành công nghiệp chưa đáp ứng được yêu cầu. Khoa học và công nghệ chưa thực sự đóng vai trò đột phá cho phát triển nhanh và bền vững ngành công nghiệp.
– Chính sách phát triển các doanh nghiệp công nghiệp còn nhiều hạn chế. Thiếu các chính sách đủ mạnh để tăng cường năng lực của các doanh nghiệp công nghiệp tư nhân trong nước. Chính sách thu hút FDI chậm được đổi mới đáp ứng yêu cầu cơ cấu lại ngành công nghiệp.
– Hệ thống doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ kém phát triển. Phần lớn các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ (CNHT) Việt Nam đều là doanh nghiệp vừa và nhỏ, trình độ sản xuất chưa cao, rất khó khăn tiếp cận và đáp ứng được yêu cầu được khách hàng. Khoảng cách giữa yêu cầu của khách hàng và khả năng của các nhà cung cấp nội địa khá lớn. Các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ phải đáp ứng tiêu chuẩn của người mua, nhà sản xuất không tự đặt ra tiêu chuẩn cho sản phẩm của mình, chưa kể các yêu cầu về giá cả và tiến độ giao hàng.
Tuy nhiên, để sản xuất được các linh phụ kiện chi tiết cụ thể này cũng là yếu tố khó khăn vất vả so với các doanh nghiệp Nước Ta. Các doanh nghiệp Nước Ta cần nâng cao trình độ sản xuất, trình độ công nghệ tiên tiến. Đây cũng là yếu tố nan giải so với phần nhiều các doanh nghiệp Nước Ta do tiềm lực chưa đủ mạnh. Các giải pháp tương hỗ, tu dưỡng các doanh nghiệp đủ năng lực sản xuất, cung ứng được nhu yếu quan trọng hơn các khuyến mại sẽ được hưởng. Trên trong thực tiễn, bên cạnh các điều kiện kèm theo khác như trình độ công nghệ tiên tiến, vốn, nguồn nhân lực, doanh nghiệp phải đạt được các chuẩn mực quốc tế về quản trị sản xuất là điều kiện kèm theo tiên quyết. Bên cạnh đó, việc các MNCs thường sử dụng nhà thầu phụ cùng quốc tịch cũng là rào cản lớn trong tăng trưởng công nghiệp tương hỗ, thậm chí còn các doanh nghiệp có trình độ công nghệ tiên tiến thấp, sản xuất loại sản phẩm đơn thuần cũng là rào cản so với các doanh nghiệp Nước Ta .Việc nhờ vào phần nhiều linh phụ kiện và phụ tùng nhập khẩu đã làm cho giá trị ngày càng tăng do ngành công nghiệp chế biến chế tạo rất thấp so với các vương quốc trong khu vực .
– Chưa hình thành được các Tập đoàn công nghiệp có quy mô tầm cỡ khu vực trong lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo để tạo hiệu ứng lan tỏa cho công nghiệp Việt Nam.
Các Tập đoàn công nghiệp lớn đóng vai trò đầu mối trong việc thay đổi, tăng trưởng mẫu sản phẩm, bảo vệ nguyên vật liệu, xác định sản xuất, chuyển giao thông tin và công nghệ tiên tiến, tổ chức triển khai phục vụ hầu cần luân chuyển và thực thi marketing và tăng cường tiêu thụ. Các doanh nghiệp dẫn dắt trong từng chuỗi giá trị đóng vai trò quan trọng : họ trấn áp mặt hàng nào được sản xuất, nơi sản xuất, người sản xuất, số lượng, giá thành và theo quá trình nào. Nếu công nghiệp Nước Ta không hình thành được các tập đoàn lớn công nghiệp có quy mô khu vực và toàn thế giới ở hạ nguồn, nền kinh tế tài chính sẽ thiếu tác động ảnh hưởng lan tỏa để tăng trưởng .
– Mức độ liên kết và hợp tác kinh doanh giữa các doanh nghiệp trong cùng một ngành và giữa các ngành còn hạn chế, chưa tạo được mối liên kết phát triển giữa các ngành theo hướng hợp tác chuyên môn hoá phù hợp với cơ chế thị trường. Nhiều doanh nghiệp đầu tư khép kín, chưa phối hợp năng lực sẵn có của các doanh nghiệp khác để tăng nội lực cho ngành và đạt hiệu quả sản xuất kinh doanh cao hơn. Điều này một mặt làm tăng chi phí đầu tư cho sản xuất, mặt khác gây lãng phí năng lực chung của toàn ngành, tạo ra những cạnh tranh không đáng có giữa các doanh nghiệp trong ngành.
Mối link giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước còn lỏng lẻo. Trong mỗi một chuỗi đáp ứng của các doanh nghiệp FDI, doanh nghiệp Việt chỉ tham gia ở những khâu tạo giá trị thấp. Số lượng doanh nghiệp trong nước đáp ứng cho các doanh nghiệp FDI và chuỗi đáp ứng tại Nước Ta còn hạn chế, đặc biệt quan trọng là trong các ngành công nghiệp quan trọng như sản xuất, lắp ráp xe hơi, điện tử, máy công nghiệp. Khó khăn khi thôi thúc link giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp FDI một phần do số lượng doanh nghiệp công nghiệp tương hỗ, đặc biệt quan trọng là doanh nghiệp cung ứng được các nhu yếu chất lượng, có năng lực đáp ứng cho doanh nghiệp FDI, nhà cung ứng chuỗi vệ tinh còn rất rất ít. Công nghệ sản xuất, mạng lưới hệ thống quản trị, chủng loại loại sản phẩm đáp ứng còn hạn chế và chưa phân phối được nhu yếu cao của người mua. Thiếu các chương trình tương hỗ nâng cao năng lượng, thôi thúc link từ nhà nước và các cơ quan tương hỗ doanh nghiệp. Mối link, trao đổi thông tin giữa doanh nghiệp công nghiệp tương hỗ Nước Ta và doanh nghiệp FDI, doanh nghiệp vệ tinh còn hạn chế .
– Huy động vốn tài nguyên chưa hiệu quả. Trừ một số loại khoáng sản có tài nguyên, trữ lượng lớn, phù hợp với khai thác quy mô công nghiệp như dầu khí, than (49 tỷ tấn), bôxít (6,85 tỷ tấn), titan (650 triệu tấn khoáng vật nặng), apatit (2,6 tỷ tấn), đất hiếm (21 triệu tấn), đá hoa trắng (35 tỷ tấn) v.v., còn lại đa phần các loại khoáng sản có quy mô tài nguyên trữ lượng thuộc loại vừa và nhỏ, phân tán, điều kiện khai thác phức tạp, không phù hợp với đầu tư quy mô lớn, hiện đại.
Việc cấp giấy phép khai thác, chế biến tài nguyên của các địa phương những năm gần đây ngày càng tăng lớn, chưa chú trọng nhiều đến tiêu chuẩn năng lượng, công nghệ tiên tiến, giảm thiểu ô nhiễm môi trường tự nhiên, các điều kiện kèm theo bảo vệ sau khi cấp giấy phép … mà chỉ mới chăm sóc đến các khoản góp phần cho ngân sách địa phương … đã làm tiêu tốn lãng phí tài nguyên. Một số mỏ có quy mô lớn như mỏ sắt Thạch Khê, cromit Cổ Định … chưa được kêu gọi kịp thời, tiến trình tiến hành lê dài chưa tận dụng hiệu suất cao để góp phần vào tăng trưởng kinh tế tài chính quốc gia. Với quy mô nền kinh tế tài chính với GDP hơn 200 tỷ USD năm năm nay như lúc bấy giờ, nếu kêu gọi được thêm tài nguyên tài nguyên đưa vào chế biến sâu khoảng chừng 1,5 tỷ USD sẽ làm tăng GDP khoảng chừng 0,5 % GDP Nước Ta .
PV (Theo Báo cáo của Bộ Công Thương)
Source: https://vh2.com.vn
Category : Ẩm Thực