Có thể nói rằng sau khi các trang mạng xã hội có hoạt động livestream được rất nhiều người sử dung. Nó dường như đóng một vai trò đặc biệt...
Ghi âm lời nói có được xem là chứng cứ trong vụ án tranh chấp dân sự không ?
Ghi âm lời nói trong vụ án tranh chấp dân sự là việc sử dụng phương tiện, thiết bị kỹ thuật để ghi lại âm thanh, lời nói. Ghi âm lời nói có thể xem là chứng cứ vụ án tranh chấp dân sự khi đáp ứng các điều kiện theo quy định của pháp luật. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi sẽ tư vấn cụ thể về ghi âm lời nói có là chứng cứ trong vụ án dân sự hay không và điều kiện để ghi âm trở thành chứng cứ.
Sử dụng các phương tiện kĩ thuật, công nghệ điện tử để ghi âm lời nói
Quy định về chứng cứ trong tố tụng dân sự
Khái niệm về chứng cứ
Theo quy định
tại Điều 93 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 thì chứng cứ trong vụ việc dân sự là:
- Những gì có thật được đương sự và cơ quan, tổ chức,
cá nhân khác giao nộp, xuất trình cho Tòa án trong quá trình tố tụng; - Hoặc do Tòa án thu thập được theo trình tự, thủ
tục do Bộ luật này quy định; - Được Tòa án sử dụng làm căn cứ để xác định các
tình tiết khách quan của vụ án cũng như xác định yêu cầu hay sự phản đối của
đương sự là có căn cứ và hợp pháp.
Chứng cứ trong vụ án dân sự gồm những gì ?
Nguồn chứng cứ được pháp luật tại Điều 94 Bộ luật Tố tụng dân sự năm ngoái :
- Tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được, dữ liệu
điện tử; - Vật chứng;
- Lời khai
của đương sự; - Lời khai của người làm chứng;
- Kết luận giám
định; - Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ;
- Kết quả định giá tài sản, thẩm định giá tài sản;
- Văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý do người
có chức năng lập; - Văn bản công chứng, chứng thực;
- Các nguồn khác mà pháp luật có quy định.
Để các nguồn này được xác định thành chứng cứ trong vụ án dân sự thì phải đảm bảo các điều kiện được quy định tại Điều 95 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.
Ghi âm lời nói trong vụ án tranh chấp dân sự
Xác định ghi âm lời nói là chứng cứ trong vụ án dân sự như thế nào?
Ghi âm lời nói là việc sử dụng phương tiện, thiết bị
kỹ thuật để ghi lại âm thanh, lời nói, là một dữ liệu điện tử. Trên thực tế,
ghi âm lời nói có thể là bản ghi âm công khai hoặc là ghi âm lén (đối với các
trường hợp ngoại tình, buôn bán,…)
Dựa trên cơ sở Điều 94, Điều 95 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm ngoái ; khoản 2 Điều 3 Nghị quyết 04/2012 / NQ-HĐTP, những tài liệu nghe được, nhìn được phải được xuất trình kèm theo văn bản xác nhận nguồn gốc của tài liệu đó hoặc văn bản về vấn đề tương quan tới việc thu âm, thu hình đó. Các tài liệu này hoàn toàn có thể là băng ghi âm, đĩa ghi âm, băng ghi hình, đĩa ghi hình, phim, ảnh, …
Từ những cơ sở pháp lý này ta hoàn toàn có thể Tóm lại, ghi âm lời nói được xem là chứng cứ nếu cung ứng điều kiện kèm theo được pháp lý lao lý .
Các điều kiện kèm theo để ghi âm được xem ra chứng cứ
Điều kiện so với bản ghi âm
Ghi âm lời nói để được xem là chứng cứ bắt buộc phải có tài liệu chứng minh kèm theo Căn cứ theo khoản 2 Điều 3 Nghị quyết 04/2012 / NQ-HĐTP, Điều 14 Luật Giao dịch điện tử 2005, khoản 2 Điều 95 Bộ luật Tố tụng dân sự năm ngoái để bản ghi âm được xác lập là chứng cứ cần có :
- Văn bản trình bày của người có tài liệu đó về xuất
xứ của tài liệu nếu họ tự thu âm, thu hình; - Hoặc văn bản có xác nhận của người đã cung cấp
cho người xuất trình về xuất xứ của tài liệu đó; - Hoặc văn bản về sự việc liên quan tới việc thu
âm, thu hình đó. - Giá trị chứng cứ của bản ghi âm được xác định
căn cứ vào độ tin cậy của cách thức khởi tạo, lưu trữ hoặc truyền gửi bản ghi
âm đó; cách thức bảo đảm và duy trì tính toàn vẹn của “ghi âm lời nói”; cách thức
xác định người khởi tạo và các yếu tố phù hợp khác; - Nếu đương sự không xuất trình các văn bản nêu
trên, thì bản ghi âm lời nói mà đương sự giao nộp không được coi là chứng cứ.
Ví dụ được quy định trong Nghị quyết 04/2012/NQ-HĐTP
về văn bản trình bày của người nộp bản ghi âm:
- Ông A cho ông B vay 5 triệu đồng với thời hạn 12 tháng. Việc vay tài sản không lập thành hợp đồng, nhưng được ông A ghi âm lại toàn bộ nội dung thỏa thuận về việc vay tài sản, việc giao nhận tiền và thời điểm thanh toán nợ giữa ông A và ông B để làm bằng chứng cho việc vay tài sản của ông B.
- Đến hạn trả nợ, ông B không trả số tiền đó cho ông A. Ông A khởi kiện ông B ra Toà án. Trong trường hợp này, cùng với việc giao nộp băng ghi âm, ông A phải gửi văn bản trình bày về sự việc liên quan tới việc thu âm đó.
Ngoài ra, trường hợp nếu những bên đương sự đều thừa nhận giọng nói trong băng ghi âm là của mình, thừa nhận nội dung trao đổi trong băng ghi âm là đúng thực sự khi xét xử vụ án thì TANDTC cũng công nhận là chứng cứ mà hoàn toàn có thể không nhu yếu bên phân phối bản ghi âm lời nói phải xuất trình những tài liệu kèm theo .
Điều kiện so với đương sự cung ứng bản ghi âm
Đương sự trong vụ án tranh chấp dân sự trọn vẹn có quyền phân phối bản ghi âm làm chứng cứ nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi và nghĩa vụ hợp pháp của mình địa thế căn cứ trên cơ sở Điều 6 Luật Tố tụng Dân sự năm ngoái nếu bản ghi âm đó cung ứng những điều kiện kèm theo xác lập chứng cứ theo Điều 95 của Luật Tố tụng dân sự năm ngoái .
Đây là bài viết hướng dẫn về xác lập chứng cứ trong vụ án dân sự của chúng tôi. Quý bạn đọc có vướng mắc, rắc rối hoặc có nhu yếu tư vấn pháp luật dân sự, vui mừng liên hệ qua hotline của Công ty Luật Long Phan để được tương hỗ. Xin cảm ơn .
☆ ☆ ☆ ☆ ☆
Scores: 3.97 (17 votes)
{{#error}}
{ { error } }
{{/error}}
{{^error}}
Thank for your voting !
{{/error}}
Error ! Please check your network and try again !
Source: https://vh2.com.vn
Category : Nghe Nhìn