Networks Business Online Việt Nam & International VH2

Phân tích nhân vật Mị trong truyện Vợ chồng A Phủ | Văn mẫu 12

Đăng ngày 06 June, 2023 bởi admin

    Phân tích nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ, tham khảo cách làm và bài văn mẫu hay phân tích nhân vật Mị, qua đó có thêm tài liệu trong quá trình học Ngữ văn lớp 12.

I. Hướng dẫn làm bàiphân tích nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ

1.

Phân tích nhu yếu đề bài

– Dạng bài : Phân tích nhân vật trong tác phẩm văn học

– Yêu cầu về nội dung: Tâm trạng, tính cách, phẩm chất, hành động của nhân vật Mị

– Phạm vi tư liệu dẫn chứng: Các chi tiết, hình ảnh,… có trong văn bản tác phẩm Vợ chồng A Phủ, đặc biệt là những chi tiết sự việc xoay quanh nhân vật Mị.

– Phương pháp lập luận chính : nghiên cứu và phân tích .

2. Luận điểm về nhân vật Mị

– Luận điểm 1: Mị vốn là một cô gái Mèo xinh đẹp, tài năng và có đời sống tâm hồn phong phú

– Luận điểm 2: Mị có số phận bi thảm khi trở thành con dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra

– Luận điểm 3: Sức sống mãnh liệt trong Mị

II. Lập dàn ý nghiên cứu và phân tích nhân vật Mị

Sau khi đã xác lập được nhu yếu về nội dung và hình thức lập luận tương thích cho đề bài, hãy cùng nhau bước vào kiến thiết xây dựng mạng lưới hệ thống chi tiết cụ thể dàn ý nghiên cứu và phân tích nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ ( Tô Hoài ) .

1. Mở bài phân tích nhân vật Mị

– Giới thiệu khái quát về tác giả Tô Hoài

– Giới thiệu tóm tắt nội dung truyện ngắn Vợ chồng A Phủ

– Khái quát về nhân vật : Mị là hình tượng đẹp cho sức sống tiềm tàng của người phụ nữ bị áp bức .

2. Thân bài phân tích nhân vật Mị

a) Luận điểm 1: Mị vốn là một cô gái Mèo xinh đẹp, tài năng và có đời sống tâm hồn phong phú

– Mị – một cô gái trẻ, đẹp : “ trai đến đứng nhẵn cả vách đầu buồng Mị ”, “ có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị ” .- Tài năng : tài thổi sáo “ Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo ”- Tấm lòng hiếu thảo : câu nói của Mị với cha, Mị nhiều lần nghĩ đến việc ăn lá ngón tự tử nhưng vì nghĩ đến cha cô lại từ bỏ .

b) Luận điểm 2: Mị có số phận bi thảm khi trở thành con dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra

– Mị chính là nạn nhân của chính sách cho vay nặng lãi vốn sống sót từ ngàn đời- Mị bị hành hạ về mặt thể xác+ Mị trở thành cỗ máy lao động không biết mệt, không biết nghỉ+ Mị bị đánh đập tàn ác- Mị bị đầu độc, nhục mạ ý thức+ Cúng trình ma – bị ràng buộc bởi sự hù dọa của thế lực thần quyền+ Sống trong một căn buồng kín kẽ – đời sống tù túng+ Vô tâm, dửng dưng, hờ hững với nỗi đau của người khác

c) Luận điểm 3: Sức sống mãnh liệt trong Mị

– Diễn biến tâm trạng của Mị trong đêm tình mùa xuân+ Nghe tiếng sáo và những âm thanh trong khoảng trống xung quanh+ Nhẩm thầm lời bài hát+ Mị uống rượu để quên đi nỗi tủi nhục của mình+ Tâm hồn Mị hồi sinh và kí ức sống dậy : những kỉ niệm tuổi trẻ, khát khao yêu thương trong Mị ùa về và Mị ý thức thâm thúy về thân phận tủi nhục, cay đắng+ Mị muốn được đi chơi, Mị sửa soạn đi chơi+ A Sử trói đứng Mị trong đêm hôm. A Sử đã trói Mị, trói thể xác của Mị nhưng không hề trói được tâm hồn Mị- Mị cắt dây cởi trói cho A Phủ+ Lúc đầu, Mị dửng dưng với A Phủ+ Nhìn thấy giọt nước mắt của A Phủ : thương A Phủ và thương cho mình, thấy nhà Pá Tra sao ác thế+ Mị nảy ra dự tính cắt dây cởi trói cho A Phủ, nhưng rồi Mị sợ+ Mị quyết định hành động cắt dây cởi trói cho A Phủ và hai người chạy trốn khỏi Hồng Ngài=> Mị là một người con gái lặng lẽ nhưng vô cùng can đảm và mạnh mẽ, hành vi cởi trói cho A Phủ đã nói lên ý chí của Mị, muốn đạp đổ cường quyền, thần quyền của bè lũ thống trị gian ác, mong cầu một đời sống tự do, bình đẳng .

3. Kết bài nghiên cứu và phân tích nhân vật Mị

– Khái quát về nhân vật Mị : Mị là hiện thân những đau khổ của người phụ nữ miền núi và người dân miền núi trước cách mạng ; là hiện thân của sức sống tiềm tàng và sức mạnh vùng lên giải phóng .- Cảm nhận, nhìn nhận của em : Qua nhân vật, giúp tất cả chúng ta hiểu hơn về năng lực và tấm lòng nhân đạo của Tô Hoài .

>>> Hướng dẫn soạn bài Vợ chồng A Phủ giúp xây dựng ý cho bài văn phân tích nhân vật Mị

III. Văn mẫu tìm hiểu thêm phân tích nhân vật Mị

1. Phân tích nhân vật Mị đại diện cho số phận của những người con dâu gạt nợ ở miền núi

Tây Bắc là mảnh đất đã gây biết bao thương nhớ cho các nhà văn trong đó có Tô Hoài. “Vợ chồng A Phủ” là tác phẩm được ông sáng tác năm 1952 và in trong tập “Truyện Tây Bắc”. Đây là kết quả của chuyến đi thực tế tám tháng lên vùng cao Tây Bắc của nhà văn. Nổi bật trong truyện ngắn này là nhân vật Mị, người đã gây được nhiều ấn tượng, cảm xúc cho bạn đọc.

Mị là nhân vật chính trong phần mở màn của tác phẩm “ Vợ chồng A Phủ ”. Đây là nhân vật tiêu biểu vượt trội, đại diện thay mặt cho số phận của những người con dâu gạt nợ ở miền núi. Mị có thực trạng thật đáng thương, xấu số. Cô được sinh ra trong một mái ấm gia đình nghèo nàn. Vì không có tiền cưới vợ nên bố Mị đã vay tiền bố của thống lí Pá Tra, mỗi năm phải nộp lãi một nương ngô. Đến khi mẹ của Mị chết vẫn chưa trả hết số nợ .Trước khi về làm dâu gạt nợ nhà thống lí, Mị là cô gái xinh đẹp, có tài thổi kèn lá hay như thổi sáo. Những đêm tình mùa xuân “ trai đến đứng nhẵn vách đầu buồng Mị ”. Mị có sức hút, sức mê hoặc như bông hoa rừng đầy hương sắc. Vẻ đẹp của cô nàng người Mông khiến chàng trai nào cũng muốn có được .Mị là cô gái yêu tự do, dám lên tiếng phản đối lệ tục dùng con người làm vật thế mạng cho món nợ vật chất của người thân trong gia đình còn sống sót trong đời sống của người dân Tây Bắc. Khi thống lí Pá Tra nói với bố Mị rằng : “ Cho tao đứa con gái này về làm dâu thì tao xóa hết nợ cho ” thì Mị thẳng thắn vấn đáp : “ Con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải làm nương ngô giả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu ”. Lời nói của Mị đã chứng tỏ cô là một người có nhận thức thâm thúy về đời sống, Mị đồng ý làm nương ngô cả đời để trả nợ chứ không làm con dâu gạt nợ và sống đời sống mất tự do trong nhà thống lí .

Khi bị bắt về làm con dâu gạt nợ, Mị vô cùng đau đớn và phẫn uất: “Có đến hàng mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc”. Mị chuẩn bị sẵn lá ngón để tự tử nhưng nghĩ đến bố “Mị không đành lòng chết”. Hành động định tự tử của Mị nhìn bề ngoài là hành động tiêu cực nhưng thực chất lại thể hiện sự đấu tranh mãnh liệt đòi giải thoát kiếp trâu ngựa. Hành động ấy còn thể hiện thái độ không chấp nhận cuộc sống thực tại, không chấp nhận thân phận nô lệ của Mị.
Nhưng thời gian trôi đi khiến sự phản kháng trong con người Mị không còn mạnh mẽ nữa. Cô được giới thiệu gián tiếp qua lời kể của tác giả nên khiến câu chuyện khách quan và chân thực hơn. Hình ảnh người con gái ấy hiện lên qua các công việc “ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa”, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi, đi cõng nước dưới khe suối. Bất kể làm gì thì “cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”.

Mị gần như câm lặng và cam chịu số phận “ Ở lâu trong cái khổ Mị quen khổ rồi ” .. Gia đình thống lí Pá Tra “ có nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện nhất làng ”, phong phú là vậy nhưng con dâu phải thao tác như thân trâu ngựa. Mị cũng tưởng mình là con trâu, con ngựa “ chỉ biết việc ăn cỏ, việc đi làm mà thôi ”. Nhưng con trâu, con ngựa “ làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ ” còn Mị phải thao tác cả đêm lẫn ngày, không một phút nghỉ tay. Những việc làm hái thuốc phiện, giặt đay, xe đay, bẻ ngô, hái củi, tước sợi đay hiện ra như một dòng chảy không khi nào ngừng khiến Mị “ lùi lũi như con rùa nơi trong xó cửa ” .Hình như đời sống của người con dâu gạt nợ đã khiến cô trở nên câm lặng, “ càng ngày Mị càng không nói ”. Không những thế, Mị còn mất hết ý niệm về thời hạn, khoảng trống. Điều ấy được tác giả đặc tả qua chi tiết cụ thể : “ Ở cái buồng Mị nằm, kín kẽ, có một chiếc hành lang cửa số bằng một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng ”. Và chính Mị cũng đã nghĩ rằng “ mình cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra, đến khi nào chết thì thôi ” .Ngỡ tưởng cô gái ấy sống sót như cái xác không hồn trong nhà thống lí nhưng không khí của mùa xuân đã làm tâm hồn và lòng yêu đời của Mị trỗi dậy. Tiếng sáo rủ bạn đi chơi mang âm hưởng bồi hồi, tha thiết, rạo rực khiến Mị nhớ đến quá khứ, nhớ đến đời sống tự do của mình trước đây. Mị nhẩm thầm theo lời bài hát :

“Mày có có con trai con gái rồi
Mày đi làm nương
Ta không có con trai con gái
Ta đi tìm người yêu”.

Tiếng sáo có sức điệu đàng đến lạ kì. Nó đưa Mị trở về sống với những xúc cảm của một thời tươi tắn. Mị không còn “ lùi lũi ”, chịu đựng nữa. Dường như cô muốn thoát ra khỏi cái vỏ bọc để sống đúng là chính mình. Mị uống rượu, “ uống ừng ực từng bát ” rồi Mị say, “ Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người nhảy đồng, người hát, nhưng lòng Mị thì đang sống về những ngày trước ”. Trước đây, Mị đã từng là một cô gái thổi sáo giỏi, “ có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị ” .

Không khí của những đêm tình mùa xuân tràn về khiến lòng Mị phơi phới trở lại và “đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước”. Mị nhận ra mình vẫn còn trẻ lắm và cũng muốn đi chơi như bao nhiêu người khác. Ý định muốn đi chơi của Mị đã trở thành hành động khi cô “lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào ống đèn cho sáng” rồi “quấn lại tóc”, “với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách”. Hành động ấy của Mị đã thể hiện sự hồi sinh trong tâm hồn, thể hiện một sức sống mãnh liệt mà bấy lâu nay bị những khổ cực đè nén khiến nó không có cơ hội được bộc lộ.
Nhưng giữa lúc lòng yêu đời trỗi dậy mãnh liệt thì cũng là lúc Mị bị vùi dập phũ phàng. A Sử biết Mị muốn đi chơi nên “xách cả một thúng sợi đay ra trói đứng Mị vào cột nhà”, A Sử “quấn luôn tóc lên cột, làm cho Mị không cúi, không nghiêng đầu được nữa”. Trong không gian của bóng tối, Mị vẫn nghe thấy những âm thanh dìu dặt của tiếng sáo, nó “đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi”.

A Sử hoàn toàn có thể trói buộc Mị về thể xác nhưng không hề trói buộc được Mị về tâm hồn. Tiếng sáo da diết như mời gọi đã khiến “ Mị vùng bước tiến ” nhưng Mị không hề cất bước vì “ tay chân đau không cựa được ”. Nỗi đau về thể xác khiến Mị quay về thực tại, Mị đau đớn, “ thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa ”. Mị đã ý thức được đời sống thực tại và xót xa cho số phận của bản thân mình .Bằng một sức sống mãnh liệt tiềm ẩn bên trong con người, Mị đã tự giải thoát cho chính mình qua hành vi cắt dây trói, giải cứu cho A Phủ và cùng anh trốn khỏi Hồng Ngài đến khu du kích Phiềng Sa. A Phủ là người cạnh tranh đối đầu với A Sử – con trai thống lí Pá Tra trong lần A Sử cùng chúng bạn kéo vào làng chơi và dọa đánh bọn con trai lạ. Vì đấu tranh cho cái thiện, cho chính nghĩa mà A Phủ bị bắt làm nô lệ cho nhà thống lí .Khi nhìn thấy “ một dòng nước mắt lấp lánh lung linh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại ”, Mị chợt nhớ lại đêm mình bị A Sử trói đứng như vậy. Từ thản nhiên, hờ hững, Mị đã có sự đồng cảm với tình cảnh, thân phận của A Phủ. Suy cho cùng, cả hai người đều là những vật thế mạng cho món nợ của người thân trong gia đình hoặc của chính mình .Giai cấp thống trị ở miền núi đã tận dụng lệ tục cổ hủ đó để bóc lột sức lao động của họ biến họ trở thành thân trâu ngựa làm giàu cho mình. Bằng tấm lòng thương người, Mị đã “ cắt nút dây mây ” và bảo A Phủ “ Đi ngay ”. Hành động ấy vô cùng táo bạo bởi nếu mái ấm gia đình thống lí biết thì Mị sẽ là người bị trói tay vào chỗ của A Phủ .Khát vọng giải thoát bản thân và khát vọng về một đời sống tự do đã thôi thúc Mị bỏ trốn cùng A Phủ. Sức sống trong cô đã bùng lên can đảm và mạnh mẽ để đấu tranh chống lại cường quyền, thần quyền và phụ quyền. Hành động cắt dây trói cho A Phủ cũng là hành vi cắt dây trói cho chính mình, chấm hết cuộc sống nô lệ, bị ép chế của Mị .Có thể nói, Mị là linh hồn của phần một trong truyện “ Vợ chồng A Phủ ”. Nhân vật này được Tô Hoài khắc họa bằng bút pháp thành viên hóa và thẩm mỹ và nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật tinh xảo. Qua nhân vật Mị, nhà văn đã bộc lộ những tư tưởng nhân đạo thâm thúy. Đây cũng là một trong những yếu tố góp thêm phần quan trọng làm ra sự thành công xuất sắc của tác phẩm .( Nguồn : Lớp văn thầy Nhật )

2. Phân tích nhân vật Mị hay nhất mẫu số 2

Tô Hoài là nhà văn rất thành công xuất sắc trong những nhà văn thuộc nền văn xuôi văn minh. Tác phẩm của ông thường viết về những yếu tố thân mật thân quen trong đời sống thường ngày. Tác phẩm Vợ chồng A Phủ là tác phẩm viết về đề tài Tây Bắc mang lại những giá trị thâm thúy. Nhân vật tiêu biểu vượt trội trong tác phẩm là Mị, một phụ nữ phải chịu nhiều xấu số, nhưng có vẻ như đẹp tâm hồn và có sức sống mãnh liệt, dám đứng lên đấu tranh tìm lại niềm hạnh phúc cho mình .Nhân vật Mị hiện lên trong cách ra mắt của tác giả ở ngay đầu câu truyện gợi lên cho người đọc một sự hấp dẫn lạ kì. Chỉ bằng vài câu chữ, tác giả đã cho người đọc tưởng tượng ra được đời sống đầy đau khổ mà Mị đang phải hứng chịu trong nhà Pá Tra. ” Ai ở xa về, có dịp vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tầu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi ” .Hình ảnh người con gái với vẻ mặt và ánh mắt vô hồn bên cạnh cái quay sợi, tảng đá, tàu ngựa ; cô gái là con dâu nhà thống lí quyền thế, phong phú nhưng sao mặt khi nào ” buồn rười rượi “. Khuôn mặt đó gợi ra một số phận đau khổ, xấu số nhưng cũng ngầm ẩn một sức mạnh tiềm tàng .Mị trước đó là một người con gái đẹp của núi rừng Tây Bắc, cô có tài có sắc, có một tâm hồn tràn trề khát khao đời sống, khát khao yêu đương, có rất nhiều tình nhân và cô cũng đã trao gửi tình yêu cho một người trai làng yêu cô tha thiết .Nhưng số phận suôn sẻ không đến với cô, người con gái tài hoa miền sơn cước đó phải chịu một cuộc sống bạc mệnh. Để cứu nạn cho cha, sau cuối cô đã chịu bán mình, chịu sống cảnh làm người con dâu gạt nợ trong nhà thống lí. Danh nghĩa là con dâu nhưng cô đã phải chịu mọi khổ cực đến tận cùng của một kẻ tôi tớ. Thân phận Mị không chỉ là thân trâu ngựa, ” Con trâu con ngựa làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái ở cái nhà ngày thì vùi vào việc làm cả ngày lẫn đêm ” .Không những bị đày đọa về thể xác, Mị còn bị dày vò về một nỗi đau niềm tin không lối thoát. Một cô Mị mới hồi nào còn rạo rực yêu đương, giờ đây lặng câm, ” lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa “. Và nhất là hình ảnh căn buồng Mị, kín kẽ với cái hành lang cửa số lỗ vuông bằng bàn tay, Mị ngồi trong đó trông ra khi nào cũng thấy mờ mờ trăng trắng không biết là sương hay là nắng .Đó quả thực là một thứ âm ti trần gian giam hãm thể xác Mị, cách li tâm hồn Mị với cuộc sống, cầm đồ tuổi xuân và sức sống của cô. Tiếng nói tố cáo chính sách phong kiến miền núi ở đây đã được cất lên nhân danh quyền sống. Cái chính sách ấy đáng lên án, chính do nó làm cạn khô nhựa sống, làm tàn lụi đi ngọn lửa của niềm vui sống trong những con người vô cùng đáng sống .Quá khổ cực và muốn giải thoát cho mình bằng cái chết, nhưng lại lo cho cha nên Mị đã cố sống. Khi cha Mị không còn nữa, thì Mị lại buông trôi, lê dài mãi sự sống sót vật vờ, như một vật phẩm không xúc cảm. Muốn chết nghĩa là vẫn còn muốn chống lại một đời sống không ra sống, nghĩa là xét cho cùng, còn thiết sống. Còn khi đã không thiết chết, nghĩa là sự tha thiết với đời sống cũng không còn, lúc đó thì lên núi hay đi nương, thái cỏ ngựa hay cõng nước … cũng chỉ là cái xác không hồn của Mị mà thôi .Cuộc sống của Mị cứ thế lầm lũi trôi qua ngày này sang tháng khác, những tưởng con người thật sự của Mị đã chết đi. Nhưng bên trong cái hình ảnh con rùa lầm lũi kia đang còn một con người, có khao khát sống đến mãnh liệt. Khát vọng niềm hạnh phúc hoàn toàn có thể bị vùi lấp, bị lãng quyên trong đáy sâu của một tâm hồn đã chai cứng vì đau khổ, nhưng không hề bị tiêu tan. Gặp thời cơ thuận tiện thì nó lại cháy lên. Và khát vọng niềm hạnh phúc đó đã bất chợt cháy lên, thật nồng nàn và xót xa trong một đêm xuân đầy ắp tiếng gọi của tình yêu .Chính không khí mùa xuân của Hồng Ngài năm ấy đã làm trỗi dậy sức sống ở con người Mị. Gió rét, sắc vàng ửng của cỏ tranh, sự đổi khác sắc tố kì ảo của những loài hoa đẹp đã góp thêm phần tạo ra sự cuộc làm mưa làm gió trong một tâm hồn đã bấy nhiêu năm tê dại vì đau khổ. Tác nhân quan trọng là hơi rượu. Ngày tết năm đó Mị cũng uống rượu, Mị lén uống từng bát, ” uống ừng ực ” rồi say đến lịm người đi. Cái say cùng lúc vừa gây sự quên béng vừa đem về nỗi nhớ .Mị quên béng thực tại ( nhìn mọi người nhảy đồng, người hát mà không nghe, không thấy và cuộc rượu tan khi nào cũng không hay ) nhưng lại nhớ về ngày trước ( ngày trước, Mị thổi sáo cũng giỏi … ), và quan trọng hơn là Mị vẫn nhớ mình là một con người, vẫn có cái quyền sống của một con người : ” Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày Tết. Huống chi Mị và A Sử, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau ” .

Tiếng sáo thật có ý nghĩa bởi tiếng sáo là tiếng gọi của mùa xuân, của tình yêu và tuổi trẻ. Tiếng sáo rập rờn trong đầu Mị, nó đã trở nên tiếng lòng của người thiếu phụ. Mị đã thức dậy với sức sống tiềm tàng và cảm thức về thân phận. Cho nên trong thời khắc ấy, ta mới thấy Mị đầy rẫy những mâu thuẫn. Lòng phơi phới nhưng Mị vẫn theo quán tính bước vào buồng, ngồi xuống giường, trông ra cái lỗ vuông mờ mờ trăng trắng. Và khi lòng ham sống trỗi dậy thì ý nghĩ đầu tiên là được chết ngay đi.

Hòa mình vào không khí náo nhiệt của mùa xuân, tâm hồn tưởng như đã chết của Mị dần được sưởi ấm, nó lướn dần và lấn chiếm hẳn trọn bộ tâm hồn và tâm lý của Mị, cho tới khi Mị trọn vẹn chìm hẳn vào trong ảo giác : ” Mị muốn đi chơi. Mị cũng sắp đi chơi “. Phải tới thời gian đó Mị mới có hành vi như một kẻ mộng du : quấn lại tóc, với thêm cái váy hoa, rồi rút thêm cái áo. Tất cả những việc đó, Mị đã làm như trog một giấc mơ, tuyệt nhiên không nhìn thấy A Sử bước vào, không nghe thấy A Sử hỏi .Dù bị A Sử trói vào cột nhưng Mị vẫn chìm đắm với những giấc mơ về một thời xuân trẻ, đang bồng bềnh trong cảm xúc du xuân. Tâm hồn Mị đang còn sống trong thực tại ảo, sợi dây trói của đời thực chưa thể làm kinh động ngay lập tức giấc mơ của kẻ mộng du. Cái cảm xúc về hiện tại quyết liệt, Mị chỉ cảm thấy khi vùng chân bước theo tiếng sáo mà tay chân đau không cựa được. Nhưng nếu cái mơ không đến một lần nữa thì sự tỉnh ra cũng vậy .Lại một tiến trình chập chờn nữa giữa cái mơ và cái tỉnh, giữa tiếng sáo và nỗi đau nhức của dây trói và tiếng con ngựa đạp vách, nhai cỏ, gãi chân. Nhưng giờ đây thì theo chiều ngược lại, tỉnh dần ra, đau đớn và tê dại dần đi, để sáng hôm sau lại trở lại với vị trí của con rùa nuôi trong câm lặng, mà còn câm lặng hơn trước .Sức sống le lói của Mị đã bùng phát lên thành hành vi, đó là hành vi Mị cởi trói cho A Phủ. Cũng như Mị, A Phủ là nạn nhân của chế độ độc tài phong kiến miền núi. Những va chạm mang đầy tính tự nhiên của lứa tuổi người trẻ tuổi trong những đêm tình mùa xuân đã đưa A Phủ trở thành con ở gạt nợ trong nhà thống lí. Và bản năng của một người con vốn sống gắn bó với núi rừng, ham thích săn bắn đã đẩy A Phủ tới hiện thực phũ phàng : bị trói đứng .Và chính thực trạng bi thương đó đã thức tỉnh lòng thương cảm trong con người Mị. Nhưng tình thương đó không phải tự nhiên bùng phát trong Mị mà là tác dụng của một quy trình đấu tranh giằng xé trong quốc tế nội tâm của cô. Mấy hôm đầu Mị vô cảm, lãnh đạm với hiện thực trước mắt : ” A Phủ là cái xác chết đứng đó cũng thế thôi “. Câu văn như một mình chứng sự tê dại trong tâm hồn Mị .Bước ngoặt khởi đầu từ những dòng nước mắt : ” Đêm ấy A Phủ khóc. Một dòng nước mắt lấp lánh lung linh bò xuống hai lõm má đã xạm đen “. Và giọt nước mắt kia là giọt nước ở đầu cuối làm tràn trề cốc nước. Nó đưa Mị từ cõi quên trở về với cõi nhớ. Mị nhớ mình đã từng bị trói, đã từng đau đớn và bất lực. Mị cũng đã khóc, nước mắt chảy xuống cổ, xuống cằm không biết lau đi được. A Phủ, nói đúng hơn là dòng nước mắt của A Phủ, đã giúp Mị nhớ ra mình, xót thương cho mình .Con người Mị lúc này đã tỉnh táo, Mị đã nhận thức được những đau khổ mà Mị đã phải chịu đựng và thương cho người có cùng cảnh ngộ như mình là A Phủ. Nhưng nó còn vượt lên số lượng giới hạn thương mình : ” Mình là đàn bà … chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi còn người kia việc gì mà phải chết “. Nhưng khi cởi trói cho A Phủ xong, Mị càng tỉnh táo hơn và giật mình chạy theo A Phủ. Lòng ham sống của một con người như được thổi bùng lên trong Mị, phối hợp với nỗi sợ hãi, lo ngại cho mình. Mị như tìm lại được con người thật, một con người còn đầy sức sống và khát vọng đổi khác số phận .Phải nói rằng, nhà văn đã có sự am hiểu thâm thúy về cuộc tuy nhiên của con người Tây Bắc, có sự cảm thông thâm thúy so với những người phụ nữ nơi đây, nhà văn mới hoàn toàn có thể phát hiện ra cái vẻ đẹp nằm sâu trong tâm hồn người phụ nữ xấu số ấy .Thông qua nhân vật Mị nhà văn đã thay toàn dân tố cáo cái thế lực phong kiến đã áp bức, bóc lột và chà đạp nên quyền sống cơ bản của con người. Cũng qua nhân vật ấy Tô Hoài đã ca tụng khát vọng sống mãnh liệt, khát vọng tự do niềm hạnh phúc của những con người nghèo khó ấy, đồng thời bộc lộ sự đoàn kết trợ giúp lẫn nhau, tình giai cấp của dân tộc bản địa Việt trong những khó khăn vất vả khó khăn .

Tham khảo:

3. Phân tích nhân vật Mị – lay lắt đói khổ, nhục nhã, Mị vẫn sống, âm thầm, tiềm tàng, mãnh liệt

Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên nhận xét về văn chương của Tô Hoài : “ Văn chương của Tô Hoài thấm đậm chất Kẻ Chợ trong giọng điệu, cái nhìn, nhân vật, cảnh sắc. Ông viết nhiều về TP.HN, cả chuyện xưa và chuyện nay, đã đành. Ngay cả khi ông viết về miền núi, về những chuyện lịch sử vẻ vang, dã sử, về những chuyến đi quốc tế thì thấp thoáng trong và ngoài trang sách của ông vẫn là tính cách và cốt cách của một nhà văn Kẻ Chợ hóm hỉnh, tinh quái, khôn ngoan, rành đời ” .Kỳ thực, tôi rất cảm phục nhận định và đánh giá này khi nói về một tác giả mà bản thân mình rất thương mến – Tô Hoài. Từ ký ức tuổi thơ với hình ảnh Dế mèn, cho đến khi trưởng thành được đọc “ Vợ chồng A Phủ ” toàn bộ những gì còn lại trong tôi chính là sự mê hoặc, sự chân thực, dí dỏm trong từng lời văn của ông. Đọc “ Vợ chồng A Phủ ”, được khám phá về nhân vật Mị, ta càng thêm thấm thía nhận định và đánh giá mà Tô Hoài san sẻ về đứa con ý thức của mình : “ Nhưng điều kỳ diệu là dẫu trong cùng cực đến thế mọi thế lực của tội ác cũng không giết được sức sống con người. Lay lắt đói khổ, nhục nhã, Mị vẫn sống, bí mật, tiềm tàng, mãnh liệt. ”Tô Hoài – nhà văn lớn của nền văn học Nước Ta văn minh. Với vốn am hiểu sâu rộng về nhiều nghành khác nhau, tác giả này thường lựa chọn được những hình ảnh, từ ngữ rất tương thích để đưa vào trong từng trang văn của mình. Tô Hoài sáng tác nhiều ở những mảng đề tài khác nhau, hoàn toàn có thể kể tới như truyện cho mần nin thiếu nhi, truyện về Tây Bắc và viết cả về TP. Hà Nội. Nhà thơ Trần Đăng Khoa khi được tiếp xúc với người nghệ sĩ này đã trầm trồ thán phục rằng : “ Tô Hoài là nhà Thành Phố Hà Nội học ” bởi những kỹ năng và kiến thức mà ông biết không có trong bất kỳ một cuốn sách nào, một thư viện nào. Sáng tác nhiều như vậy, nhưng nhà văn này lại dành một sự chăm sóc đặc biệt quan trọng cho hình ảnh của người lao động đặc biệt quan trọng là đồng bào Tây Bắc .

Theo như Tô Hoài tâm sự, vì mảnh đất miền Tây đã để thương để nhớ cho ông nhiều quá nên ông đã quyết định quay trở lại đây, trả món ân tình bằng một tập truyện “Tây Bắc” xuất sắc. “Vợ chồng A Phủ” là một trong số ba truyện ngắn in trong tập truyện này. Tác phẩm là thành quả đẹp của chuyến đi thực tế dài 8 tháng và năm 1952 cùng bộ đội. Thời gian ở đây, được sống, được làm việc, được tiếp xúc đã giúp cho ngòi bút của nhà văn nay có biết bao nhiêu cảm hứng để xây lên những áng văn đẹp và tình cho đời. Không quên sứ mệnh của một nhà văn, Tô Hoài nhìn thấy những con người vất vả, yêu câu chuyện mà họ kể lại viết thành những tác phẩm để đời. “Vợ chồng A Phủ” chính vì lý do đó mà đã thể hiện mạnh mẽ một trong những phẩm chất cao đẹp của người lao động – sức sống tiềm tàng. Điều này thật giống với nhận định Tô Hoài đã từng tâm sự: “Nhưng điều kỳ diệu là dẫu trong cùng cực đến thế mọi thế lực của tội ác cũng không giết được sức sống con người. Lay lắt đói khổ, nhục nhã, Mị vẫn sống, âm thầm, tiềm tàng, mãnh liệt.”

Nhận định của nhà văn muốn đề cập tới hai yếu tố trái chiều : Một bên là sự rình rập đe dọa thường trực của cường quyền, bạo quyền, thần quyền ; bên còn lại là số phận nhỏ bé của những con người lam lũ. Giữa một xã hội đầy những bất công, Tô Hoài lên tiếng thay cho đồng bào dân tộc bản địa thấp cổ bé họng, nhận định và đánh giá vừa mang đặc thù tố cáo xã hội phong kiến mục ruỗng, vừa mang giá trị tôn vinh vẻ đẹp – sức sống tiềm tàng của con người. Trong cùng cực, đau thương họ vẫn nghĩa về sự sống, dám đấu tranh cho sự sống. Mị là nhân vật nổi bật như vậy .Lật giở từng trang văn của Tô Hoài, ta phát hiện hình ảnh của nhân vật Mị Open thầm lặng bên những vật vô tri vô giác. Cách Open đó thật đặc biệt quan trọng : “ Ai ở xa về có việc vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô con gái ngồi quay sợi bên tảng đá, trước cửa cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi ”. Đó là sự Open rất khác lạ của một cô gái trẻ. Hình ảnh của một con người cô độc, bí mật, gần như lẫn vào những sự vật vô tri : cái quay sợi, tảng đá, tàu ngựa, … trong khung cảnh đông đúc, sinh động của nhà quan Thống lí. Là con dâu của một mái ấm gia đình quyền thế có “ nhiều nương ngô, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện nhất làng ”, vậy tại sao khi nào cô ấy cũng buồn ? Tác giả đã tạo ra trường hợp có yếu tố để dẫn dắt người đọc cùng khám phá số phận của nhân vật Mị trong truyện .Mị là một cô gái có nhiều thiệt thòi nhưng sự thiệt thòi đó không khiến cô đánh mất những tham vọng của mình. Cô là con gái lớn trong một mái ấm gia đình nghèo ở vùng cao Tây Bắc, mồ côi mẹ từ nhỏ, lớn lên trong vòng tay che chở của cha. Khi lớn lên, Mị trở thành một thiếu nữ xinh đẹp, một bông hoa của núi rừng, đã làm say lòng bao chàng trai Tây Bắc : “ Trai đến đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị ”. Mị có tài thổi sáo bằng lá, thổi kèn lá hay như thổi sáo, khiến cho trai làng “ ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị ”. Những tháng năm tuổi trẻ, Mị cũng đã có một tình yêu đẹp cho riêng mình. Là một cô gái toàn vẹn cả sắc lẫn tài như vậy, lẽ ra cô phải được hưởng một đời sống niềm hạnh phúc. Thế nhưng, chỉ vì món nợ truyền kiếp, món nợ tiền kiếp từ ngày cha mẹ mới lấy nhau để lại, Mị đã trở thành cô con dâu gạt nợ không công cho nhà thống lí .Thằng A Sử – con trai nhà Thống lí lừa bắt Mị, buộc người con gái đẹp Tây Bắc trẻ trung thành cô con dâu gạt nợ không công cho nhà địa chủ. Ban đầu cô phản kháng : “ Có đến hàng mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc ”. Mị đã định ăn lá ngón tự tử. Trước khi chết cô đã về lạy cha, nhưng lời kêu van thống thiết của người cha già đã khiến Mị phải nuốt nỗi cay đắng, tủi nhục vào lòng, đành quay trở lại nhà Thống lí. Thương người cha già, Mị không còn dự tính tự tử nữa. Hành động dám chết khi cảm thấy cuộc sống của mình không còn bất kể ý niệm nào là một trong những biểu lộ của lòng ham sống vô tận. Thế nhưng, Mị lại không hề can đảm và mạnh mẽ làm điều mình muốn làm. Người cha trước mặt Mị khiến cô biết mình chưa thể buông bỏ mọi chuyện khi chưa làm tròn chữ hiếu. Mị quay lại, đồng ý đời sống làm thân trâu ngựa. Hành động dám sống ngay cả khi cuộc sống không còn ý niệm cũng là một điều đáng quan tâm khi khám phá về nhân vật này. Sự sống có lẽ rằng được nảy mầm từ đây .Quãng đời của Mị sống với A Sử là những ngày khó khăn vất vả, đau khổ. Cuộc sống của cô ngày càng đau khổ, ngày càng khó khăn vất vả, nghiệt ngã. Mị đã trở thành nô lệ, bị chiếm đoạt sức lao động, nhan sắc và cuộc sống. Mị như một công cụ lao động cho nhà Thống lí Pá Tra. Cuộc sống của Mị gắn chặt với những sự vật vô tri. Càng ngày Mị càng ít nói “ lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa ”. Bây giờ Mị không nghĩ đến chuyện chết nữa vì đã quen với cái khổ rồi và cho rằng mình còn sống mà như đã chết, bởi đời sống chẳng còn nghĩa lí. Đời Mị cứ thế lặng lẽ trôi đi. Cái ác của bọn Thống lí đã giết chết phần tốt đẹp trong con người Mị. Mị bị đày đọa đến mức niềm tin phản kháng cũng dần tê liệt .

Tiếng thở dài của cô thể hiện thái độ buông xuôi, phó mặc cho số phận. “Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa…”. Con trâu, con ngựa nhà giàu đêm còn được nghỉ, còn cô không lúc nào ngớt việc. Bị biến thành một thứ công cụ lao động là nỗi cực nhục mà Mị phải chấp nhận và chịu đựng. Nhưng sự ê chề của kiếp sống nô lệ chưa dừng lại ở đó, Mị còn phải chịu sự cầm tù kéo dài về tinh thần. “Ở cái buồng Mị nằm kín mít, có một chiếc cửa sổ, một lỗ vuông bằng bàn tay…”. Cô sống vô cảm, chai lì, không còn ý thức về khổ đau, thời gian, tình yêu, khát vọng và cuộc sống. Đã bao năm rồi, Mị không biết đến mùa xuân, không đi chơi tết. Đó là cuộc sống chết về tinh
thần, sống như một cái xác không hồn ở chốn địa ngục, trần gian. Mị cứ sống như thế, thân phận của 1 cô con dâu gạt nợ không công, bị chà đạp về cả thể xác và tâm hồn.

Là con dâu trong nhà Thống lí Pá Tra bị đày đọa, bóc lột sức lao động, cầm tù về ý thức nhưng từ sâu trong lòng Mị vẫn ấp ủ một ngọn lửa khát vọng sống, tự do, chỉ chờ thời cơ là trỗi dậy can đảm và mạnh mẽ. Sức sống tiềm tàng của Mị được ví như một mầm cây xanh non, chỉ đợi cơn mưa đi ngang qua sẽ bung nở thành cây đời xanh tươi. Và cây đời đó đã thực sự nảy mầm trong đêm tình mùa xuân. Sự hồi sinh của nhân vật Mị được tác giả miêu tả thâm thúy và tinh xảo. Những yếu tố bên ngoài ảnh hưởng tác động vào tâm lí nhân vật như khung cảnh mùa xuân, tiếng sáo gọi bạn tình, men rượu đã thức tỉnh toàn bộ xúc cảm của Mị : chán ghét sự bất công, tàn khốc, khao khát một đời sống tự do, niềm hạnh phúc .Mùa xuân đến với Hồng Ngài. Một mùa xuân hiện ra với sắc tố, âm thanh : tiếng sáo, tiếng khèn, … Không khí nồng nàn, vui mừng của mùa xuân như được tăng thêm bởi bữa rượu ngày Tết ở nhà Thống lí với tiếng chuông đánh ầm ĩ, … Năm nay, nghe được tiếng lòng của những người ham sống, nên có lễ đất trời đã có những biến chuyển khác thường. Mùa xuân đến sớm, gió rét kinh hoàng, khung cảnh trước mặt vừa sôi động, vừa bình yên. Mị cảm nhận được mùa xuân đang về, nhưng những cảm nhận ấy còn mơ hồ. Mị nghe thấy tiếng sáo xa xa, những đêm tình mùa xuân đã tới. Đột nhiên, Mị nhẩm theo lời bài hát của người đang thổi. Sau bao nhiêu năm câm lặng, Mị đã cất lên những lời rỉ tai mùa xuân tiên phong. ” Ngày Tết, Mị cũng uống rượu. Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát ”. Mị đang sống trong một trạng thái khác thường. Men rượu làm cho Mị lâng lâng say, nhưng tâm hồn cô thì từ từ thức tỉnh. Cái cách uống rượu “ ực từng bát ” khiến ta nghĩ như thể Mị đang cố uống cạn những cay đắng, uất hận của phần đời đã qua .Hơi men của rượu đã đưa tâm hồn Mị đi theo tiếng sáo, nó khiến cô nhớ lại những kỉ niệm đẹp của thời con gái, … Người ta thường uống rượu để say, nhưng Mị uống rượu để nhớ. Nhớ lại quá khứ có nghĩa là Mị đã thoát ra khỏi thực trạng sống mà như đã chết. Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng vui sướng như những đêm Tết ngày trước. Mị nhận ra mình còn trẻ lắm và cô muốn đi chơi. Sức sống bấy lâu nay bị đè nén, giờ đây trỗi dậy can đảm và mạnh mẽ, không gì ngăn nổi. Xuất hiện trong tâm lý Mị tiên phong là một ý nghĩ lạ lùng mà rất chân thực. “ Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ không buồn nhớ lại nữa ” .

Nghịch lí trên cho thấy khi niềm khao khát sống được khơi lên, nó sẽ trở thành một mãnh lực xung đột gay gắt với trạng thái vô nghĩa của thực tại. Mị đã ý thức được thực tại của mình. Đó là biểu hiện của lòng khát khao sống mãnh liệt. Trong khi đó, tiếng sáo gọi bạn tình cứ thôi thúc, mời gọi. Tiếng sáo là biểu tượng về khát vọng tình yêu. Tiếng sáo được miêu tả song hành với diễn biến tâm trạng Mị. Nó chính là ngọn gió
thổi bùng lên đốm lửa vẫn đang cháy âm ỉ trong lòng cô gái khao khát tình yêu. Tiếng sáo đầy ám ảnh đã nhập vào thế giới tâm hồn Mị. Giờ đây tâm hồn Mị đang rập rờn tiếng sáo.

Sức sống trỗi dậy trong tâm hồn Mị như những đợt sóng ào ạt. Hành động Mị vào phòng lấy mỡ thắp nến cho sáng có nghĩa là Mị đang soi sáng tâm hồn mình để tìm lối thoát. Con người đích thực trong Mị đã sống lại, hòa lẫn với con người thực tại khiến tâm hồn cô chập chờn bất định. Dường như không đếm xỉa gì đến những xiềng xích tàn tệ của nhà Thống lí Pá Tra, Mị hành vi như một con người tự do theo tâm lý, cảm hứng của mình. Cô quấn lại tóc, rút cái váy hoa trên vách, sửa soạn đi chơi Tết. Giữa lúc khát vọng sống của Mị trỗi dậy mãnh liệt nhất thì cũng là lúc nó bị vùi dập phũ phàng nhất. A Sử đi chơi về, thấy Mị có dự tính đi chơi xuân liền đánh Mị, trói đứng Mị vào cột nhà khiến cô không hề cúi, nghiêng đầu được. Sau đó thổi tắt ngọn đèn và đóng sầm cửa lại. Thằng A Sử nó muốn dìm Mị vào trong bóng tối, muốn dập tắt mong ước hồi sinh của Mị .Thế nhưng, A Sử chỉ trói được thể xác của Mị, nhưng không trói được tâm hồn của Mị. “ Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những game show, những đám chơi ”. Tâm hồn Mị vẫn đi theo tiếng sáo và quên nỗi đau thể xác. Đến khi cô muốn “ vùng bước tiến ” thì mới biết mình đang bị trói, tay chân đau nhức, Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa. Nhưng vào khuya, cô lại quên ngay hiện tại và bồi hồi sống lại cùng tiếng sáo. Mị “ lúc mê, lúc tỉnh ”. Những ký ức tươi đẹp, những đau đớn của hiện tại. Mị khóc mà nước mắt chẳng thể lau. Cứ thế đến hết đêm cho đến khi trời tang tảng sáng khi nào cũng không biết. Mị bàng hoàng tỉnh và thấy im ắng, không biết có chuyện gì xảy ra nữa. Mị chợt nhớ lại câu truyện mà người ta hay kể ở nhà Thống lí Pá Tra, rất lâu rồi có một người vợ chết vì bị chồng trói trong nhà ba ngày. Nghĩ thế, Mị sợ lắm. Cô còn thử cựa quậy xem mình còn sống hay đã chết. Đây là một trong những chi tiết cụ thể biểu lộ lòng ham sống mãnh liệt của người con gái này dù trong cảnh đói khổ, lay lắt, nhục nhã .Tô Hoài đã đặt sự hồi sinh của Mị bên cạnh trường hợp đầy thảm kịch : khát vọng sống mãnh liệt và hiện thực phũ phàng, nhưng sức sống của Mị lại càng kinh hoàng hơn. Nhà văn muốn khẳng định chắc chắn con người có sức sống mãnh liệt mặc dầu bị đày dọa, dẫm đạp đến thế nào. Thế rồi sau đêm mùa xuân, Mị thậm chí còn còn câm lặng hơn lúc trước, quay lại với đời sống đọa đầy của mình và gật đầu nó như những điều thông thường. Chuyện sẽ không có gì khác nếu như đêm mùa đông đó không xảy ra. Quả thực, nói như nhà văn Tô Hoài, dẫu cho có đau đớn, nhục nhã thế nào, sức sống tiềm tàng của Mị vẫn luôn bí mật trôi chảy, chỉ đợi thời cơ là bùng lên thành đám cháy lớn, giải phóng cho chính mình .Mùa đông trên núi cao dài và lạnh, Mị chỉ có nhà bếp lửa là người bạn duy nhất của mình. Mị có thói quen sưởi lửa hàng đêm dù rất nhiều lần thằng A Sử nó về nhìn thấy Mị sưởi lửa nó đã đạp Mị ngã dụi xuống đất. Nhưng Mị không bỏ được. Bếp lửa so với người con gái này không chỉ là công cụ sưởi ấm mà quan trọng hơn đó còn là người bạn sưởi ấm tâm hồn của Mị trong những năm tháng đầy chai sạn này. Đêm hôm đó, cũng nhờ nhà bếp lửa, Mị nhìn thấy giọt nước mắt của A Phủ – chàng trai gạt nợ cho nhà thống lý hoàn toàn có thể ngày mai, ngày kia sẽ chết. Chỉ vì đánh A Sử để bảo vệ người trẻ tuổi làng, A Phủ trở thành người làm gạt nợ không công cho nhà Thống lý để trả hết số nợ sau một vụ xử kiện đầy oan uổng diễn ra tại nhà Thống lý. Từ khi đi ở trừ nợ cho nhà quan Thống lí Pá Tra, A Phủ làm “ phăng phăng ”, việc gì cũng làm tốt cả. Nhưng sơ ý, vì mải mê bẫy nhím nên hổ đã bắt mất một con bò. A Phủ không trốn tránh nghĩa vụ và trách nhiệm mà đã dũng mãnh nhận lỗi và xin Pá Tra cho mượn súng để đi bắn hổ nhưng bị phủ nhận. Suốt mấy ngày đêm, anh bị cha con Thống lí Pá Tra trói đứng vào một cây cột trong góc nhà chờ chết. Người con trai dũng mãnh ấy đã lâm vào tình cảnh vô vọng. Nhưng đời sống của anh chưa hẳn đã dừng lại tại đây. A Phủ đã được Mị cắt dây cởi trói và cứu thoát .Ban đầu tận mắt chứng kiến cảnh A Phủ bị trói, Mị vẫn trọn vẹn vô cảm “ thản nhiên ngồi thổi lửa, hơ tay ”. Bởi ở nhà Thống lý, việc người bị trói cho đến chết là chuyện xảy ra hàng ngày. Cộng thêm với việc bản thân Mị trong thực trạng lúc bấy giờ cũng đã vô cảm, Mị quá khổ, nên không thể nào thấu được cho nỗi khổ của người khác. Nhưng vào một đêm Mị tỉnh dậy sưởi lửa, cô nhìn thấy một dòng nước mắt chảy trên má A Phủ đen và xám lại. Đó là khoảnh khắc cô nhớ lại đêm tình mùa xuân của mình, khi cô cũng bị trói đứng, nước mắt lăn xuống mà không thể nào lau đi. Từ thương mình, tới thương người, Mị cảm thấy thương A Phủ, cảm nhận được sự gian ác của nhà Thống lí Pá Tra. “ Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết … ”. “ Chúng nó thật gian ác … ”. “ Người kia việc gì mà phải chết thế ”. Mị nhớ lại đời mình, lại tưởng tượng cảnh A Phủ tự trốn thoát. Nghĩ thế, “ Mị cũng không thấy sợ …. ”. Lòng thương người đã cho cô quả cảm để cắt dây cởi trói cho A Phủ .Ban đầu, cô sợ mình phải đứng thế vào chỗ đó và “ Mị đứng lặng trong bóng tối ”. Nhưng sức sống mãnh liệt đã khiến cô có đủ dũng mãnh chạy theo A Phủ, trốn khỏi Hồng Ngài đến Phiềng Sa và giác ngộ cách mạng. Hành động của Mị trọn vẹn là tự phát. Cô cởi trói cho A Phủ cũng chính là giải thoát cho cuộc sống mình. Đó là quy luật tất yếu của nhận thức “ tức nước vỡ bờ ”. Hành động cầm dao cắt đứt dây mây đầy dứt khoát, biểu lộ cho lòng ham sống của cô gái này đã thực sự phát cháy thành ngọn lửa. Sau vài giây ngây người ra, Mị đã quyết định hành động chạy theo A Phủ lao vào bóng tối. Kể từ đây, những ép chế về cường quyền, bạo quyền và thần quyền đều ở lại. Mị muốn được giải thoát. Hành động giải thoát cho người nhưng cũng chính là giải thoát cho mình. Diễn biến tâm trạng của nhân vật Mị quả thực rất đúng với đánh giá và nhận định của nhà văn Tô Hoài : “ Nhưng điều kỳ diệu là dẫu trong cùng cực đến thế mọi thế lực của tội ác cũng không giết được sức sống con người. Lay lắt đói khổ, nhục nhã, Mị vẫn sống, bí mật, tiềm tàng, mãnh liệt. ”Mị là một cô gái trẻ đẹp, bị đẩy vào thực trạng bi đát, phải sống triền miên trong đau khổ khiến cô dần tê liệt. Nhưng trong Mị vẫn tiềm tàng về sức sống, nó đã thức dậy và giúp cô có hành vi táo bạo giải thoát cho cuộc sống mình. Cô có đời sống nội tâm bí mật nhưng can đảm và mạnh mẽ. Trước những thế lực của tội ác : cường quyền, bạo quyền và ngay cả những ép chế về thần quyền, con người ta vẫn sẵn sàng chuẩn bị bước qua, hướng tới sự tự do, giải phóng cho chính cuộc sống của mình .Qua việc miêu tả số phận và cuộc sống của nhân vật Mị, cách kể chuyện tự nhiên, sinh động, mê hoặc ; ngôn từ hồn nhiên, giàu hình ảnh ; nghệ thuật và thẩm mỹ kiến thiết xây dựng nhân vật, nghiên cứu và phân tích tâm lí tinh xảo, miêu tả phong tục tập quán rực rỡ … Nhà văn Tô Hoài đã làm sống lại quãng đời tăm tối, tủi cực của người dân miền núi Tây Bắc dưới ách thống trị dã man của bọn chúa đất, thực dân phong kiến. Từ đó làm sáng tỏ nhận định và đánh giá : “ Nhưng điều kỳ diệu là dẫu trong cùng cực đến thế mọi thế lực của tội ác cũng không giết được sức sống con người. Lay lắt đói khổ, nhục nhã, Mị vẫn sống, bí mật, tiềm tàng, mãnh liệt ”. Mị và “ Vợ chồng A Phủ ” sẽ còn sống mãi trong trái tim fan hâm mộ như cách mà miền Tây và vẻ đẹp con người mảnh đất này đã sống mãi trong trái tim và tâm hồn của Tô Hoài .

Nghe bài văn phân tích nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ hay nhất

4. Phân tích nhân vật Mị mẫu số 4:

Tô Hoài là một trong những cây bút xuất sắc của văn học Việt Nam. Ông viết trên nhiều mảng đề tài và ở mảng nào Tô Hoài cũng chứng tỏ mình là bậc thầy trong miêu tả phong tục và nếp sinh hoạt của con người. Đằng sau những phong tục tập quán đó chúng ta còn thấy được số phận, điệu hồn, tính cách của mỗi người dân Việt Nam. Vợ chồng A Phủ có thể coi là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của ông. Đằng sau những trang văn phong tục là cuộc đời đầy bất hạnh, đau khổ của Mị, nhưng đồng thời trong cô còn có sức sống tiềm tàng mãnh liệt.

Mị là nhân vật TT trong tác phẩm, vì thế sự Open của nhân vật được sẵn sàng chuẩn bị rất là kĩ lưỡng. Mở đầu tác phẩm là sự Open của Mị gắn liền với những việc làm lặp đi lặp lại, cùng với khuôn mặt khi nào cũng buồn rười rượi. Chi tiết này đã hé mở cho tất cả chúng ta thấy cả một quốc tế nội tâm đầy đau khổ, xấu số. Rồi ngòi bút của Tô Hoài ngược về quá khứ, để cho người đọc thấy được một Mị – người con gái tươi tắn, xinh đẹp và rất năng lực .Tiếng sáo của Mị đã khiến cho biết bao chàng trai xao xuyến đi theo. Không chỉ vậy Mị còn là cô gái yêu lao động, yêu tự do, nhất định muốn lao động để trả nợ chứ không chịu làm con dâu gạt nợ. Ở Mị quy tụ vừa đủ những phẩm chất xinh xắn để được sống cuộc sống niềm hạnh phúc tuy nhiên do những thế lực thần quyền chà đạp, đàn áp mà cuộc sống của cô vô cùng xấu số, đáng thương .Mị là hiện thân cho những đau khổ xấu số của người phụ nữ miền núi. Cô thao tác triền miên, hơn cả trâu ngựa trong nhà. Công việc trở thành nỗi ám ảnh khiến Mị không hề nghĩ đến bất kể điều gì, Mị bị bóc lột nặng nề về thể xác. Không chỉ vậy cô còn bị giam hãm trong căn phòng nhỏ mà chỉ có một ô hành lang cửa số bé bằng bàn tay, nhìn ra ngoài chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng .Không chỉ vậy cô còn bị bóc lột về niềm tin, lấy A Phủ về nhưng chưa khi nào Mị được làm người vợ thực sự, bởi A Sử vẫn đi lấy những người khác, chuẩn bị sẵn sàng trói đứng Mị mà không hề thương tiếc. Ngoài ra, Mị còn bị ép chế về thần quyền, đây là thế lực vô hình như lại có sức ép chế vô cùng kinh khủng. Khi Mị đã bị cúng trình ma, Mị tin rằng cả đời mình sẽ không thoát khỏi nơi đây nên Mị lầm lũi sống qua ngày, chờ cho đến lúc chết. Sự áp chết nặng nề cả về thể xác và ý thức, từ cường quyền đến thần quyền đã đẩy Mị từ cô gái tươi tắn giàu sức sống trở thành một cô gái tội nghiệp, đáng thương. Điều đó là lời tố cáo đanh thép nhất với bọn cầm quyền phong kiến đương thời .Nhưng liệu Mị đã mất đi trọn vẹn sự phản kháng, mất đi trọn vẹn niềm tin, niềm hy vọng vào đời sống. Thực tế chỉ cần có những chất xúc tác tương thích, đúng thời gian thì niềm tin đó sẽ bùng lên mãnh liệt và biến thành hành vi. Ẩn sâu trong Mị vẫn có khát vọng sống, nó được biểu lộ trong đêm tình mùa xuân và đêm đông cứu A Phủ .Sức sống tiềm tàng của Mị trước hết bộc lộ trong đêm tình mùa xuân. Mùa xuân là mùa của cây cối đâm trồi nảy lộc, mùa của yêu thương và nảy sinh sự sống. Lấy thời gian này là trọn vẹn phải chăng. Tâm lí Mị chịu ảnh hưởng tác động can đảm và mạnh mẽ bởi những sắc tố tươi đẹp, bùng cháy rực rỡ, những âm thanh vui tươi, rộn ràng của những đứa trẻ ngoài sân. Tất cả những yếu tố đó đã tác động ảnh hưởng tích cực đến tâm hồn Mị .Nhưng quan trọng nhất là sự tác động ảnh hưởng của men rượu và tiếng sáo gọi bạn tình. Bản thân việc Mị uống rượu không lạ, vì ngày tết Mị cũng uống rượu như biết bao người khác. Nhưng cách uống lại rất là không bình thường, Mị uống ừng ực từng bát, như uống đi sự phẫn uất, nốt tủi hờn vào trong. Đồng thời chất men sẽ là chất xúc tác can đảm và mạnh mẽ để Mị triển khai cuộc làm mưa làm gió, chối bỏ thực tại tìm về quá khứ. Và quan trọng nhất là âm thanh tiếng sáo, tiếng sáo Open từ xa đến gần, gợi nhắc Mị nhớ về một thời quá vãng tự do, niềm hạnh phúc .Cùng với hơi men và tiếng sáo, Mị chối bỏ thực tại, tìm về với khóa khứ, Mị lịm đi và nhớ về ngày trước, quá khứ tươi đẹp. Mặc dù vậy Mị vẫn đi vào buồng mà không đi ra ngoài đi chơi như những người khác. Nhưng chính lúc ấy tiếng sáo lại xuất hiên đầy hữu ý, đã thôi thúc Mị, để Mị can đảm và mạnh mẽ chối bỏ thực tại từ bỏ đời sống hiện tại. Mị bỏ ra ngoài, lấy ống mỡ sắn một miếng, thắp đèn lên cho sáng .Hành động thắp đèn của Mị còn cho thấy Mị đang tự thắp sáng mơ ước, hy vọng cho cuộc sống của chính mình. Mị khao khát được đi chơi, được ra ngoài như mọi người, Mị đã lấy váy và sẵn sàng chuẩn bị đi thì bị A Sử chặn lại. Hắn nhẫn tâm trói đứng Mị vào cột nhà. Nhưng dù thể xác Mị bị trói nhưng tâm hồn cô đã phiêu diêu về một nơi khác, nơi đời sống niềm hạnh phúc, và tự do của ngày trước .Với diễn biến tâm lí rất là phức tạp, nhưng vẫn vô cùng hợp lý, Mị đã có cuộc làm mưa làm gió tiên phong, sau rất nhiều năm sống trong giam hãm, tù đày, tưởng như đã mất hết hy vọng sống. Tuy chưa thể thoát khỏi nhà thống lí Pá Tra nhưng cũng phần nào cho thấy sức sống tiềm tàng trong Mị, chỉ cần thời cơ thích hợp nó sẽ bùng lên mãnh liệt .Nếu như trong đêm tình mùa xuân Mị vẫn chưa thể tự cứu thoát được bản thân, thì trong đêm đông cứu A Phủ, với sự trợ lực, tác động ảnh hưởng từ đối tượng người dùng khác, Mị không chỉ giải cứu người khác mà còn giải cứu được chính mình. Bằng ngòi bút vô cùng tinh xảo Tô Hoài đã miêu tả vô cùng khôn khéo và tài hoa quy trình tâm lí phức tạp ấySau cuộc làm mưa làm gió không thành lần trước, Mị liên tục rơi vào trạng thái tê liệt về ý thức, vì thế, nhìn A Phủ bị trói đứng Mị cũng không hề có bất kỳ phản ứng gì. Mị hằng đêm đốt củi sưởi ấm cho bản thân, và trong một lần Mị thấy giọt nước mắt xám đen bò dài trên má A Phủ. Giọt nước mắt đó có tác động ảnh hưởng vô cùng mạnh đến niềm tin Mị. Nó đánh động, giúp Mị từ cõi quên trở về cõi nhớ, nhớ lại những đêm bản thân bị đánh, cũng từng khóc như vậy .Trong cô mở màn Open sự cảm thương với người xung quanh : “ Trời ơi ! Nó bắt trói người ta đến chết, nó bắt mình chết cũng thôi, nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà này ”. Đồng thời Mị thoát ra khỏi thực trạng mơ hồ, nhận thức rõ quân địch của mình : “ Chúng nó thật gian ác ”. Đây là bước tiên phong nhen nhóm lên trong Mị ý thức phản kháng .Mị nhớ về thực trạng mình, so sánh tình cảnh của bản than với A Phủ, “ Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi … Người kia việc gì mà phải chết thế ”. Đồng thời bằng sự bản lĩnh, can đảm và mạnh mẽ của mình, Mị đã lấy con dao cắt dây trói cho A Phủ. Hành động diễn ra nhanh gọn, tự phát xong lại rất logic, phải chăng, bộc lộ tình yêu thương giữa con người với con người .Sau cuộc làm mưa làm gió lần thứ nhất giải cứu cho A Phủ, Mị triển khai cuộc làm mưa làm gió lần thứ hai ngay sau đó, để giải cứu cho chính mình. Mị không chỉ cắt đứt sợi dây hữu hình đang trói buộc, giam giữ một người con trai khỏe mạnh thoát khỏi vòng nô lệ, mà còn cắt đứt sợi dây vô hình dung trong tư tưởng, niềm tin đã bị nô lệ hóa của mình, đã trói buộc Mị trong một khoảng chừng thời hạn dài. Đêm tình mùa xuân nếu như mới khơi dậy khát vọng niềm hạnh phúc, yêu thương thì đến đêm đông cứu A Phủ đã làm sáng lên khát vọng được tự do ở con người tưởng như đã bị nô lệ hóa trọn vẹn .Bằng thẩm mỹ và nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật bậc thầy, Tô Hoài đã khắc họa chân thực, rõ nét diễn biến tâm lí, những cung bậc xúc cảm của Mị trong những quy trình tâm lí khác nhau. Tác phẩm cũng làm sáng lên tinh thần nhân đạo thâm thúy của Tô Hoài, cảm thương cho số phận xấu số của nhân vật, nâng niu trân trọng những khát vọng, mơ ước của họ. Đồng thời lên án, tố cáo bọn phong kiến miền núi chà đạp lên quyền sống, quyền niềm hạnh phúc của con người .

4. Phân tích nhân vật Mị ngắn gọn đủ ý mẫu số 4

Tô Hoài là cây bút đầy sức sáng tạo của nền văn học Việt Nam với phong cách viết gần gũi với đời sống của con người. Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” in trong tập “Tây Bắc” là câu chuyện giàu giá trị nhân văn khẳng định sức sống phi thường của con người khi bị áp bức, bóc lột. Đặc biệt, Tô Hoài đã khắc họa thành công nhân vật Mị có sức ám ảnh đối với người đọc.

Tô Hoài đã dẫn dụ người đọc vào câu truyện bằng một lời ra mắt nhẹ nhàng nhưng đầy ý vị “ Ai ở xa về, có dịp vào nhà thống lý Pá Tra thường thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tầu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi ”. Tô Hoài đã rất khôn khéo khi gợi tả hình ảnh của Mị qua những cử chỉ và nét mặt đặc trưng đó. Một sự trái chiều đến đau lòng giữa căn nhà to lớn của thống lý và sự lầm lũi, côi cút của người con gái bí hiểm đó. Một cô gái chịu sự dày vò về ý thức, nhưng có vẻ như lại có sức mạnh, nghị lực khác thường đang được nhen nhóm trong lòng của Mị .Mị vốn là cô gái xinh đẹp, nết na, được nhiều trai làng theo đuổi. Những tưởng rằng đời sống của Mị sẽ sung sướng, niềm hạnh phúc nhưng vì món nợ mà mẹ Mị với nhà thống lí đã khiến cho cuộc sống cô rơi vào bế tắc và vô vọng như giờ đây. Thương cha, thương cho thân phận hẩm hiu của mình mà Mị đành lặng lẽ về làm dâu nhà thống Lý trong tủi nhục và đau khổ .Tô Hoài đã diễn đạt đời sống như chết rồi của Mị tại nhà thống Lý, một đời sống cơ cực, không khác gì thân trâu ngựa. Phận là con dâu nhưng Mị lại bị đối xử không khác gì nô lệ, thậm chí thân trâu ngựa còn có lúc được nghỉ ngơi “ con trâu con ngựa làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái ở nhà này vùi đầu vào việc làm cả ngày lẫn đêm ”. Bị đày đọa về thể xác và niềm tin khiến cho Mị ngày càng rơi vào cảnh bế tắc, vô vọng .Bằng sự quan sát tỉ mỉ và nhạy cảm, Tô Hoài đã khắc họa trạng thái lầm lũi, một kẻ sống lặng câm y hệt “ một con rùa trong xó cửa, căn phòng chỉ có một lỗ sáng to bằng bàn tay ”. Căn phòng đó giống như âm ti trần gian, giam giữ cuộc sống Mị, khiến cho cuộc sống một người con gái đang tuổi thanh xuân phải chôn vùi nơi đây. Thống lí Pá Tra là hiện thân của xã hội phong kiến nhiều khắc nghiệt, hủ tục, đẩy con người vào bước đường cùng không thương tiếc. Những người nông dân thấp cổ bé họng không biết kêu than ai, chỉ biết đồng ý và chịu đựng .Đã có lúc Mị muốn tìm đến cái chết để giải thoát bản thân mình nhưng nghĩ đến cảnh người cha già, thương cha nên cô đành gật đầu đời sống hiện thực. Niềm khát khao sống, khát khao yêu trong con người Mị có vẻ như đã không còn. Mị gật đầu sống, gật đầu sự sống sót như đã chết. Bên trong Mị vẫn còn tiềm ẩn sức sống rất mãnh liệt, chỉ chờ thời cơ thì sức sống sẽ bùng nổ .Tô Hoài đã khắc họa bức tranh mùa xuân tươi đẹp của Hồng Ngài khiến cho chính người đọc cũng cảm thấy thú vị. Nó có vẻ như là đòn kích bẩy để khơi gợi lên niềm tin và nghị lực trong đời sống. Mị đã lén uống rượu, trong cơn say, Mị đã ý thức được bản thân mình muốn gì “ Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng ngày tết vẫn đi chơi. Huống chi Mị và A Sử, không có lòng với nhau mà vẫn ở với nhau ”. Lúc ấy Mị đã ý thức được những khát khao trong lòng mình cháy bỏng như thế nào và tiếng sáo ngoài kia là một trong những động lực khơi gợi lại những kỉ niệm êm đẹp một thời Mị từng có .Nhưng chính hành vi này của Mị đã khiến cho A Sử biết được, hắn trói Mị vào cột và bỏ đó đi chơi. Mị vẫn đang lâng lâng trong hơi men rượu, và ký ức của cô lại ùa về kinh hoàng. Tuy nhiên thực tại đã kéo Mị lại với những gì mà Mị đang đương đầu : đau đớn và tủi nhục, khắp mình mẩy đau nhức .Tuy nhiên hoàn toàn có thể nói cảnh tượng Mị cởi trói cho A Phủ mới là cảnh tượng khắc họa cực kỳ sắc nét và chân thực tâm trạng, khát khao của Mị. Mị đã vùng lên đấu tranh, vùng lên đòi niềm hạnh phúc của chính mình. Giọt nước mắt của A Phủ đêm hôm ấy đã thức tỉnh tình cảm, sự phát cháy trong trái tim của Mị : “ Đêm ấy A Phủ khóc, một dòng nước mắt lấp lánh lung linh bò xuống hai hõm má đã xạm đen ”. Giọt nước mắt ấy đã khiến đổi khác cuộc sống Mị về sau .Chi tiết Mị cởi trói cho A Phủ và quyết định hành động chạy trốn theo A Phủ là một sự bùng nổ về ý thức. Sự đè nén bấy lâu nay trong lòng Mị đã được cải tiến vượt bậc và giải tỏa ra. Mị đã hoàn toàn có thể tự lựa chọn con đường đi cho chính mình, Mị tự đấu tranh, Mị không hề mãi chịu cảnh bị người ta hành hạ, đè nén. Đây chính là sự cải tiến vượt bậc trong con người của Mị. Đây cũng chính là sự thành công xuất sắc của Tô Hoài khi khắc họa hình tượng nhân vật này .“ Vợ chồng A Phủ ” của Tô Hoài là tác phẩm có giá trị nhân văn thâm thúy. Đặc biệt hình tượng nhân vật Mị để lại trong lòng người đọc nhiều ấn tượng thâm thúy nhất .

5. Phân tích nhân vật Mị mẫu số 5

Là một nhà văn gắn bó quen thuộc với nếp sống hoạt động và sinh hoạt, phong tục tập quán của nhiều vùng miền cùng vốn ngôn từ nhiều mẫu mã, lời văn giàu hình ảnh, Tô Hoài đã lưu lại dấu ấn riêng của mình trong trái tim bạn đọc những thế hệ. “ Vợ chồng A Phủ ” là một truyện ngắn điển hình nổi bật trong kho tàng văn chương đồ sộ của nhà văn. Trong truyện, hình tượng nhân vật Mị là một nét rực rỡ lưu lại sự tinh xảo và tài hoa nơi ngòi bút Tô Hoài .Nhà văn Tô Hoài từng san sẻ : “ Câu chuyện Vợ chồng A Phủ là câu truyện trọn vẹn có thực. Tức là nguyên mẫu ở ngoài đời sống. Đợt ấy tôi đi công tác làm việc từ Tà Sùa sang Phù Yên ( Sơn La ). Ở Tà Sùa tôi gặp một cặp vợ chồng người Mèo vào đúng dịp tết truyền thống lịch sử của họ, tức khoảng chừng tháng 11 âm lịch, trước tết Nguyên đán của ta một tháng. Tết người Mèo lê dài cả tháng. Tôi cùng đôi vợ chồng nhà kia đi ăn tết từ bản này sang bản khác. Ăn tết và uống rượu, rồi anh chồng kể chuyện. Anh kể về cuộc sống anh, cuộc sống chị vợ, về chuyện thống lý ở bản anh làm tay sai cho Pháp, rất gian ác, cho nên vì thế anh phải đưa vợ đi chạy trốn nơi khác. Câu chuyện của đôi vợ chồng nọ cộng với vốn hiểu biết của tôi về người Mèo làm cho diễn biến cứ sáng tỏ dần. Và tôi bắt tay vào viết ”. Có lẽ chính bởi những thưởng thức khi được tiếp xúc với một hình mẫu thực cùng với năng lực, vốn hiểu biết về phong tục, lối sống người vùng cao mà nhà văn Tô Hoài đã chắp bút viết nên một tác phẩm xuất sắc. Hình tượng nhân vật Mị nhà văn kiến thiết xây dựng trong truyện đã để lại rất nhiều ấn tượng, nghĩ suy trong lòng fan hâm mộ .Hình tượng nhân vật Mị được nhà văn Tô Hoài thiết kế xây dựng trước hết là một cô gái với những phẩm chất tốt đẹp đáng trân trọng. Đó là một cô nàng người Mèo đang độ tươi tắn, hồn nhiên, được nhiều chàng trai ngày ngày đi theo bởi tài thổi sáo rồi thì “ thổi lá cũng hay như thổi sáo ” làm biết bao người mê say. Đó là một cô gái đã từng được yêu, từng yêu, luôn mang trong mình trái tim cháy bỏng yêu thương, niềm hạnh phúc. Cô gái ấy cũng vô cùng hiếu thảo với mẹ cha, cần mẫn làm lụng cũng như ý thức rõ được giá trị của một đời sống tự do. Mị sẵn sàng chuẩn bị xin cha làm lụng trên nương ngô để trả nợ thay, để không phải về làm dâu nhà thống lí Pá Tra bởi Mị hiểu rằng về đó đồng nghĩa tương quan với việc sa chân vào chốn tù đày, phải sống đời sống tù túng, mang danh con dâu nhà giàu nhưng phận tôi đòi hèn kém .Bên cạnh đó, nhân vật Mị trong truyện còn hiện lên với hình ảnh là một nạn nhân của áp bức bất công, của thế lực phong kiến lộng quyền. Nhiều người nhìn Mị mà ghen tị vì được làm dâu con nhà giàu lắm của nhiều nương ở bản, nhưng thực tiễn, đời sống của Mị chốn nhà quan chẳng hề thuận tiện và niềm hạnh phúc. Là con dâu gạt nợ, ngày ngày Mị bị bóc lột sức lao động, quần quật thao tác suốt ngày đêm đến cái ngưỡng nhiều lúc chính Mị còn cảm tưởng như mình chẳng bằng thân trâu, thân ngựa ngoài kia, rằng “ đàn bà trong cái nhà này chỉ biết vùi đầu vào việc làm ”. Dần dần, sống quá lâu trong cái khổ nên Mị quen khổ rồi, thân xác, tâm hồn ấy đã dần trở nên chai sạn với nỗi đau, với cực khổ đọa đày. Từ khi nào mà Mị bỗng sống đời sống lầm lũi như “ con rùa nuôi trong xó cửa ” .Dẫu cho đời sống có bộn bề trăm nỗi khổ đau, ở nhân vật Mị ta vẫn phát hiện một sức sống tiềm tàng, một khát khao sống, khát khao tự do, niềm hạnh phúc mãnh liệt. Khi giật mình trở thành con dâu gạt nợ nhà thống lí, bị A Sử bắt về làm vợ, Mị đã từng có dự tính ăn lá ngón như là một cách để tự giải thoát mình. Trong đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài, sức sống đất trời rạo rực ngoài kia, không khí xuân tràn lên đời sống muôn người có vẻ như phần nào đã thức tỉnh tâm hồn Mị khỏi những tháng ngày bị vùi mình trong đau khổ. Mị nhẩm thầm theo lời bài hát, trong thoáng chốc tâm hồn ấy như được quay trở lại với thời thanh xuân tươi tắn, nồng nhiệt, với thời được sống tự do, niềm hạnh phúc. Ý thức được giá trị của bản thân, của sự sống, Mị “ thấy phơi phới trở lại ” và rằng “ Mị còn trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi ”. Khi bị A Sử trói không cho đi chơi, tâm hồn Mị vẫn lửng lơ theo tiếng sáo ngoài kia, trong những game show náo nức, rộn ràng. Và khát khao niềm hạnh phúc, khát khao tự do trở nên mãnh liệt nhất khi Mị quyết định hành động cắt dây cởi trói cho A Phủ và sau đó chạy bỏ trốn theo A Phủ .Qua từng trang truyện “ Vợ chồng A Phủ ”, hình ảnh nhân vật Mị được nhà văn Tô Hoài khắc họa chân thực, sôi động và qua số phận, nét đẹp tâm hồn ấy, ta cảm nhận được những thông điệp, những xúc cảm nghĩ suy thâm thúy mà nhà văn muốn gửi gắm tới người đọc để từ đó thêm trân trọng tác phẩm và trân quý năng lực, sự tài hoa tinh xảo của tác giả

» Tham khảo thêm:

IV. Kiến thức bổ trợ về nhân vật Mị

1. Nhà văn Tô Hoài nói về nhân vật Mị

Không phải là Mị không khi nào nhớ đến “ con người tự do ” của mình nữa, mà cái chính là không có một tác nhân nào gợi cho Mị nhớ đến điều đó. Đời sống tủi nhục, mỏi mòn đã hủy hoại Mị, cô ngày càng bị thu hẹp lại trong cái xó buồn bã, nhẫn nhịn : “ mỗi ngày Mị càng không nói, lầm lũi như con rùa nuôi trong xó nhà ”. Mị là con rùa, là tù nhân. Ở buồng nơi Mị nằm chỉ có một chiếc hành lang cửa số nhỏ “ lỗ vuông vuông bằng bàn tay ”. Trong căn buồng đó, Mị được chốc lát một mình, vậy cô hoàn toàn có thể tâm lý, hoàn toàn có thể nhớ lại quá khứ lắm chứ. Nhưng không. Cái hành lang cửa số đó quá bé, và lúc này nhìn ra Mị cũng chỉ hoàn toàn có thể thấy “ trăng trắng, không biết là sương hay nắng ”. Đấy là cái sầm uất của tâm hồn, của số kiếp Mị. Chỉ có chết đi Mị mới thôi nhìn thấy cái u ám và đen tối ở nơi cái lỗ vuông kia. Như vậy rõ ràng đời sống tủi cực và tăm tối đã ép chế và che giấu đi con người thật của Mị, con người tươi tắn, ham yêu, ham sống ngày trước, đến nỗi Mị cũng không nhận ra. Mị là cô gái có đậm chất ngầu, nhưng thời hạn và khổ hạnh ở nhà Pá Tra đã làm đậm chất ngầu ấy không phải bị mài mòn mà bị nhấn chìm hẳn. Đó là sự tha hóa, vào thời Mị, là sự tha hóa do xã hội .

2. Một số đánh giá và nhận định về nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ

– ” Tấm lòng yêu thương của nhà văn vẫn nhận ra : bên trong hình ảnh của một con rùa nuôi trong xó cửa kia, đang còn một con người “. ( Đỗ Kim Hồi )- ” Nhưng điều kì diệu là dẫu trong cùng cực đến thế mọi thế lực của tội ác cũng không giết được sự sống con người. Lay lắt đói khổ, nhục nhã Mị vẫn sống, bí mật, tiềm tàng, mãnh liệt “. ( Tô Hoài )- “ Mị là sự phản ánh số phận đau khổ xấu số của người nông dân nhất là người nông dân miền núi trước cách mạng tháng Tám ”- ” Nhân vật Mị trong truyện ngắn “ Vợ chồng A Phủ ” là một thành công xuất sắc của Tô Hoài trong việc kiến thiết xây dựng con người thức tỉnh ” .- “ Mị là sự phản ánh số phận đau khổ xấu số của người nông dân nhất là người nông dân miền núi trước cách mạng tháng Tám ”- “ Thắp sáng ngọn lửa của khát vọng sống, Tô Hoài cũng làm bừng sáng giá trị nhân văn cao quý của tác phẩm ” .

3. Sơ đồ tư duy phân tích nhân vật Mị

So do tu duy phan tich nhan vat Mi trong Vo chong A Phu

Chi tiết sơ đồ tư duy nghiên cứu và phân tích nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ

>>> Xem thêm: Sơ đồ tư duy Vợ chồng A Phủ các dạng đề khác do Đọc tài liệu tổng hợp và biên soạn.

     Trên đây là gợi ý cách làm cùng các bài văn mẫu chọn lọc hay phân tích nhân vật Mị trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài mà Đọc tài liệu biên soạn và tổng hợp. Ngoài ra, các bạn có thể tìm đọc thêm nhiều bài văn mẫu hay lớp 12 khác theo chương trình học Ngữ Văn 12 tại doctailieu.com.

Source: https://vh2.com.vn
Category : Đánh Giá