Điều tra xu thế sản xuất kinh doanh thương mại ( SXKD ) hàng quý gồm có 6.500 doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, sản xuất và 6.600 doanh...
báo cáo sáng kiến kinh nghiệm tiếng anh – Tài liệu text
báo cáo sáng kiến kinh nghiệm tiếng anh
Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (204.58 KB, 12 trang )
Bạn đang đọc: báo cáo sáng kiến kinh nghiệm tiếng anh – Tài liệu text
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúcBÁO CÁO SÁNG KIẾN
TẠO HỨNG THÚ CHO HỌC SINH VÀ HƯỚNG DẪN PHƯƠNG PHÁP TỰ
HỌC TIẾNG ANH
I. Tác giả sáng kiến:
Họ và tên: Hoàng Tố Uyên
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị: Trường PTCS Thạch Lâm
II. Lĩnh vực áp dụng.
Trong xu thế phát triển của thời đại hiện nay, tiếng Anh là môn học không thể
thiếu của mỗi học sinh. Nhưng việc học ngoại ngữ như thế nào? Dạy ngoại ngữ như
thế nào để có hiệu quả cao hẳn đây là một bài toán khó ở nhiều nơi nói chung và ở
trường PTCS Thạch Lâm nói riêng. Yêu cầu giáo viên cũng như học sinh phải hết sức
nổ lực để tìm ra một phương pháp dạy- học hợp lý cho từng tiết học, ở từng lớp học.
Việc học ngoại ngữ ở Bảo Lâm nói chung và ở trường PTCS Thạch Lâm nói
riêng cũng gặp rất nhiều khó khăn: Đa số các em đều xuất thân từ gia đình nông thôn
nên các em ít có điều kiện học ngoại ngữ. Các bậc phụ huynh cũng chưa thấy đựơc
tầm quan trọng của việc học ngoại ngữ vì vây chưa có sự đầu tư đúng đắn vào môn
học này. Việc học bài cũ ở nhà nhất là việc tự học của các em còn chưa tự giác.
Với tất cả những khó khăn trên đây, cần phải có một phương pháp để giúp cho
các em học ngoại ngữ có hiệu quả hơn là việc hết sức cần thiết. Muốn vậy giáo viên
cần phải gây hứng thú cho học sinh trong mỗi tiết học để các em không bị gò bó chán
trường khi cứ phải học với một phương pháp cứng nhắc mà ngày nào cũng gặp.
Bằng thực nghiệm và quan sát thông qua các tiết học tại trường PTCS Thạch
Lâm và những kinh nghiệm của bản thân tôi mạnh dạn viết ra đây để trao đổi với
đồng nghiệp đó là sáng kiến “Tạo hứng thú cho học sinh và hướng dẫn phương pháp
tự học Tiếng Anh”
III. Thực trạng trước khi áp dụng sáng kiến:
1. Thực trạng ban đầu:Thạch Lâm là 1 xã thuần nông. Các em lại không được học ngoại ngữ ở tiểu học
nên lên các em rất bỡ ngỡ trong việc học ngoại ngữ, Chính vì vậy hứng thú học tập
của các em chỉ được thời gian ngắn trong vài tháng đầu năm học lớp 6. Sau đó các emthấy môn học khó dần dẫn đến chán học. Và nhiều em không biết tự học thế nào cho
có hiệu quả.
2. Giải pháp đã sử dụng:
Hướng dẫn phương pháp tự học cho học sinh:
a. Hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài ở nhà:
Việc chuẩn bị bài của học sinh đóng một vai trò quan trọng trong quá trình dạy
và học bộ môn Tiếng Anh nói riêng và quá trình học tập nói chung. Tuy nhiên để học
sinh chuẩn bị bài thật sự hiệu quả thì nhiệm vụ của người giáo viên là phải hướng dẫn
cho các em một phương pháp học khoa học. Để các em chuẩn bị bài tốt, tôi thường
thực hiện các biện pháp sau:
-Thông báo nội dung của bài học sau vào cuối mỗi giờ học.
-Thông báo nội dung kiến thức học sinh cần chuẩn bị
-Hướng dẫn học sinh cách chuẩn bị nội dung kiến thức đó
Nhưng hướng dẫn học sinh phải kết hợp với việc kiểm tra sự chuẩn bị của các em
vào đầu giờ học sau thì việc tự học của các em mới có thể trở thành nề nếp được. Để
làm được điều đó, đòi hỏi giáo viên phải kiên trì và thường xuyên nhắc nhở học sinh,
kiểm tra đôn đốc đồng thời động viên, khuyến khích khi các em có sự chuẩn bị tốt.
b. Hướng dẫn học sinh tự học từ vựng:
Đặt câu với từ mới:
– Đặt câu với mỗi từ mới là cách rất hay để học sinh có thể nhớ từ mới một cách
không máy móc mà có tình huống cụ thể, hơn nữa lại ghi nhớ được cả cấu trúc dùng
để đặt câu.
. Dùng sticker:
Viết từ 3 – 5 từ mới cùng với chức năng và nghĩa của từ lên một mảnh giấy nhỏ và
dán lên nơi đễ nhìn thấy, khi nào thuộc thì thay bằng sticker có viết các từ khác.Cat – [n] – con mèo
teacher – [n] –
giáo viên
mouse – [n] – con
chuột
country
teach –– [n]
[v] –– nông
dạy
thôn
học
catch
–
[v]
–
bắt
Chơi trò chơi với từ mới:
Học sinh có thể dùng các trò chơi giáo viên đã hướng dẫn để chơi với bạn mình trong
city–
[v] – thành
student–
[v] – phố
các giờ chơi hoặc giờ học nhóm.
Phân loại từ để học thuộc:
học
sinh [v] – toà
building–
nhàHọc sinh có thể chọn những từ quan trọng để học thuộc chứ không nhất thiết phải học
toàn bộ từ mới của một bài, ví dụ bài đọc (Reading) thường có rất nhiều từ mới, các
em không thể nhớ hết được.
Học với từ điển:
Đây là cách tự học phổ biến, học sinh có thể học những từ mà các em quan tâm thay
vì học những từ các em buộc phải học, như thế các em sẽ nhớ lâu và bền vững hơn.
Sử dụng các phương tiện công nghệ hiện đại:
Ngày nay, khi công nghệ ngày càng phát triển nhanh hơn, đời sống của các gia đình
đã được cải thiện đáng kể thì việc giáo viên khuyến khích các em sử dụng công nghệ
hiện đại vào học tập môn Tiếng Anh cũng rất quan trọng. Các em có thể học Tiếng
Anh trên máy tính với những phần mềm Học Tiếng Anh rất hiệu quả như: Gugu
English, Giúp bạn học Tiếng Anh, đặc biệt là bộ phần mềm Tiếng Anh 6, 7, 8, 9 với
giao diện rất thân thiện và có nhiều tiện ích trong tra cứu từ vựng, ngữ pháp và hệ
thống bài tập rất phong phú.
Tuy hiện tại chưa phải gia đình nào cũng có máy tính song tôi tin trong tương
lai không xa, học sinh của chúng ta sẽ được tiếp cận với cách học mới rất hấp dẫn và
hiệu quả này, vì vậy bản thân tôi luôn quan tâm đến việc học hỏi, tìm hiểu và sử dụng
các thành quả của công nghệ thông tin nhằm hỗ trợ cho quá trình giảng dạy của mình.
c. Hướng dẫn học sinh tự học nghe:
– Có thể tự học nghe bằng cách: Sử dụng băng cát sét, nghe các chương trình dạy
Tiếng Anh trên radio, trên truyền hình, xem các chương trình dành cho thiếu nhi ở các
kênh truyền hình quốc tế hiện nay đang rất phổ biến như Cartoon Network, Animals,
Disney … nếu có sử dụng truyền hình thẻ.
d. Khuyến khích học sinh thực hành nói:
– Khuyến khích học sinh thực hành nói ở trên lớp không chỉ trong giờ Tiếng Anh
mà trong cả giờ chơi hoặc khi các em học nhóm. Ban đầu là những câu giao tiếp thông
thường rồi dần dần sử dụng các cấu trúc mới học để trao đổi với nhau, việc này trên
thực tế rất khó thực hiện vì tâm lý ngại nói của học sinh còn rất cao, tuy nhiên tôi đãvà đang cố gắng tạo cho các em tâm lý thoải mái để hình thành thói quen giao tiếp
bằng Tiếng Anh đơn giản trong môi trường lớp học.
Giúp học sinh nắm được phương pháp tự học đòi hỏi người giáo viên phải có sự
kiên trì, tính hệ thống và lòng yêu nghề. Ngoài việc hướng dẫn, quan sát chữa lỗi cho
học sinh, giáo viên cần đưa ra yêu cầu từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp để
các em dần dần hình thành thói quen tự học của mình. Làm được điều này, hoạt động
dạy và học đã được nâng cao lên một bước. Học sinh có điều kiện để phát huy tính
sáng tạo và chủ động trong học tập, còn giáo viên sẽ có thêm thời gian luyện tập trên
lớp cho học sinh.
IV. Mô tả bản chất của sáng kiến, trong đó chỉ rõ những thông tin cần
được bảo mật :1.Tính mới:
Dựa trên quan điểm xây dựng chương trình Sách giáo khoa Tiếng Anh THCS từ
lớp 6 đến lớp 9, đó là quan điểm chủ điểm (Thematic approach) và đề cao phương
pháp học tập tích cực, chủ động của học sinh để góp phần thực hiện mục tiêu của giáo
dục hiện đại nhằm “Đào tạo học sinh thành những con người năng động, sáng tạo và
độc lập, tiếp thu được tri thức khoa học kỹ thuật hiện đại, biết vận dụng tìm ra các giải
pháp hợp lý cho những vấn đề trong cuộc sống của bản thân và xã hội ”.
2. Tính sáng tạo:
Mọi quan điểm phương pháp đã được đưa ra trao đổi và thử nghiệm đều có chung
một mục đích cuối cùng, đó là tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh, đưa kiến
thức vào thực tế đời sống xã hội, phát huy tối đa tính chủ động của người học. Làm
thế nào để hoạt động dạy và học đạt được hiệu quả cao, học sinh có thể áp dụng ngữ
liệu đang học với các kiến thức có sẵn để diễn đạt các nội dung khác nhau trong chính
thực tế cuộc sống của các em, đó chính là vấn đề đặt ra cho các nhà biên soạn, cho
những giáo viên trực tiếp giảng dạy và cũng là vấn đề đặt ra cho bản thân người học những học sinh bậc học THCS.
Mặt khác, học sinh THCS đang ở lứa tuổi có nhiều thuận lợi trong quá trình
nhận thức khi bộ não và khả năng tư duy đã phát triển tương đối ổn định. Theo tâm lýhọc thì đây chính là lứa tuổi thích hợp nhất cho việc tiếp nhận các kiến thức mới song
để đạt được hiệu quả ổn định và bền vững thì cần phải duy trì một phương pháp thích
hợp nhằm tạo ra hứng thú đồng thời với việc xây dựng ý thức tự khám phá học hỏi
của bản thân các em.
3. Tính khoa học:
A. Tạo hứng thú cho học sinh trong học tập môn Tiếng Anh:
A. 1 Sử dụng hiệu quả kênh hình SGK Tiếng Anh 6, 7, 8, 9:
Kênh hình của bộ sách giáo khoa Tiếng Anh mới cũng là một lợi thế mà giáo
viên có thể tận dụng nhằm tạo ra hứng thú cho học sinh. Hình ảnh được đưa ra sinh
động, hấp dẫn, phong phú, có bám sát nội dung yêu cầu của từng hoạt động là yếu tố
thuận lợi trong quá trình giảng dạy, giáo viên có thể sử dụng hình ảnh trực tiếp trong
sách giáo khoa hoặc có thể phóng to hay vẽ lại những hình ảnh đó để hỗ trợ việc dạy
từ mới hay làm tình huống cho bài thực hành.
Nếu sáng tạo, giáo viên có thể sử dụng những hình vẽ này không chỉ cho một nội
dung giảng dạy nhất định mà còn dùng được cho nhiều nội dung giảng dạy khác nữa,
vì vậy, từ những hình vẽ trong sách giáo khoa, giáo viên có thể tạo ra những bộ tranh
dùng lâu dài cho từng chủ đề chủ điểm nhất định.
Lứa tuổi học sinh THCS tuy khả năng nhận thức đã có sự ổn định tương đối cao,
song các em vẫn hay quên và thường mất tập trung khi gặp phải những nội dung kiến
thức dài và khó, vì vậy, hình ảnh được sử dụng trong các bài giảng có tác dụng thuhút sự chú ý của các em, tạo ra sự thích thú và thuận lợi cho các em trong quá trình
ghi nhớ ban đầu.
Sử dụng hợp lý kênh hình trong SGK là một việc làm cần thiết và đòi hỏi giáo
viên phải nghiên cứu, sáng tạo mới có thể làm tốt được. Như vậy, đây cũng chính là
một trong những bước khởi đầu của việc tạo hứng thú và hướng dẫn học sinh tự học
môn Tiếng Anh ở bậc học THCS.
A.2 Sử dụng đồ dùng trực quan:
Như tôi đã trình bày ở trên, kênh hình trong sách giáo khoa rất phong phú và đadạng, nhưng vẫn chưa đủ cho tất cả các hoạt động trong tất cả các nội dung hoạt động
của quá trình lên lớp, vì vậy, giáo viên phải chủ động, sáng tạo trong việc làm và sử
dụng đồ dùng trực quan.
Đồ dùng trực quan là một trong những yếu tố góp phần tạo nên thành công của
một bài giảng. Trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng chính là con đường ngắn
nhất của quá trình nhận thức, vậy để tạo hứng thú cho học sinh, đồ dùng trực quan
phải được làm phong phú về màu sắc, hình dáng và hấp dẫn về nội dung để cuốn hút
học sinh.
Dùng tranh vẽ, đồ vật thật, hình que …để dạy từ mới sẽ đem lại hiệu quả cao,
học sinh cùng lúc được nghe, được quan sát và được nói tên của các sự vật, đồ vật sẽ
nhớ nhanh và nhớ bền vững. Đồ dùng trực quan cũng được sử dụng rất hiệu quả trong
việc kiểm tra mức độ hiểu ngữ liệu mới (checking comprehension). Học sinh sẽ không
còn tâm lý sợ mắc lỗi mà tập trung vào việc ghi nhớ và sử dụng ngữ liệu vừa học vào
các tình huống giao tiếp cụ thể.
Bên cạnh đó, đồ dùng trực quan còn giúp giáo viên lôi cuốn cả những học sinh
vốn nhút nhát và ngại hoạt động vào bài học một cách rất tự nhiên khi các em bị cuốn
theo không khí sôi nổi của lớp học.
Đối với các lớp lớn hơn, cụ thể là học sinh lớp 8, lớp 9, đồ dùng trực quan không
chỉ là những tranh ảnh, đồ vật thuần tuý, giáo viên cần sáng tạo thêm các đồ dùng có
tính chất linh hoạt có thể sử dụng lâu dài cho nhiều mục đích giảng dạy khác nhau,
+Sử dụng Listening table: Là một bảng phụ trong đó có quy định rõ số lần nghe, yêu
cầu đạt được sau mỗi lần nghe, phần kiểm tra kết quả và chữa bài của giáo viên và
một phần rất quan trọng là phần Prediction (Dự đoán trước) của học sinh. Bảng này
vừa gọn gàng lại vừa thể hiện rất rõ quy trình của một bài nghe, giúp học sinh nắm
được nội dung của hoạt động qua từng bước thực hiện hoạt động.
+Sử dụng những hình vẽ đơn giản (hình que) ở trên bảng nhằm tạo ra sự bất ngờ và
thích thú cho học sinh, hình que có thể tạo ra những hiệu quả tốt trong quá trình giảng
dạy từ mới, đặc biệt phù hợp với đối tượng học sinh THCS vì tính chất mới lạ và ngộ
nghĩnh của hình ảnh,
Ví dụ để dạy tính từ sad và happy, giáo viên có thể vẽ hình đơn giản như sau lên bảngvà yêu cầu học sinh tự đoán nghĩa của từ:
? How does he feel?He feels …..
o
o
sad > < happy
* Để dạy tính từ tall và short, giáo viên cũng có thể vẽ hình và làm tương tự như
trên:tall
<>
short
* Dạy các giới từ chỉ vị trí: on, in, beside, between,etc.
onbetween
beside
in
Sử dụng người và hình vẽ đơn giản cũng có thể áp dụng trong dạy Ngữ pháp,
hoặc trong dạy kỹ năng viết cho học sinh, nếu có điều kiện, giáo viên nên tham khảo
thêm những tài liệu chuyên sâu về lĩnh vực này nhằm làm phong phú cho kỹ năng
giảng dạy của mình giúp cho giờ dạy trở nên linh hoạt, sáng tạo và nhẹ nhàng hơn.
+Ngoài ra, việc sử dụng các phiếu học tập (study form), phiếu điều tra (survey form)
hay là những miếng ghép có nghĩa cũng có hiệu quả tốt trong quá trình giảng dạy.
Thêm vào đó, giáo viên cũng cần tích cực học tập tham khảo cách làm đồ dùng mới có
áp dụng tiến bộ của công nghệ thông tin nhằm phát huy hơn nữa hiệu quả của đồ dùng
trực quan.
Không phải ngẫu nhiên mà khâu chuẩn bị đồ dùng dạy học được coi là “một trongnhững tiêu chí để đáng giá chất lượng và hiệu quả giờ dạy của giáo viên”. Vì vậy, sử
dụng linh hoạt đồ dùng dạy học là yếu tố ban đầu để gây dựng và tạo hứng thú cho
học sinh tham gia bài học một cách tự giác, sáng tạo và hiệu quả
A. 3. Gây hứng thú cho học sinh bằng những cử chỉ và lời nói của giáo viên trong
lớp học.
Người ta nói rằng giáo viên như là một người diễn viên đứng trên sân khấu.
Người diễn viên đó có được mọi người yêu quí và vở kịch có thành công hay không?
họ có tập chung vào vở diễn hay không? là do tài diễn xuất của mỗi người. Giáo viên
chúng ta cũng vây.
Chắc rằng mỗi chúng ta đều biết chẳng có học sinh nào vui vẻ và hào hứng với
tiết học khi giáo viên lúc nào cũng quát nạt học học sinh. Hoặc khuôn mặt lúc nào
cũng rầu rỉ. vì vậy giáo viên lúc nào cũng tạo cho lớp một không khí vui vẻ bằng nét
mặt vui vẻ. Cử chỉ nhẹ nhàng. Đôi khi cũng phải pha trò một chút (Nhưng không được
quá lạm dụng).
VD; Khi giới thiệu từ mới trong bài 2 SGK lớp 6
Come in Sit down
Stand up
Close your book
Giáo viên vừa giới thiệu vừa vẩy tay ra hiệu các cử chỉ đó làm cho học sinh thu hút
vào giáo viên làm cho các em dễ hiểu bài hơn là giáo viên chỉ ngồi một chỗ đọc và
dịch đơn thuần.
Hoặc ví dụ khi giới thiệu từ mới trong bài 9 tiếng Anh 6(Unit9: My body)
Head, shoulder, chest, arm, hand, finger, leg, foot, toe
Giáo viên có thể vừa giới thiệu vừa chỉ vào các bộ phận đó trên cơ thể mình. Chắc
chắn rằng học sinh sẽ rễ ràng tiếp thu bài tốt hơn.
Sau đó giáo viên cho học sinh chỉ vào các bộ phận trên cơ thể mình và thực hành lại
các từ đó bằng tiếng Anh.
This is my head.This is my shoulder.
A. 4. Gây hứng thú cho học sinh bằng cách khiêu gợi trí tò mò và tính ham hiểu
biết của học sinh.
Ở lứa tuổi 12-15 các em học sinh rất hiếu động và cũng ham hiểu biết. Các em
rất đễ bị cuốn hút vào những vấn đề mà chúng quan tâm. Vì vậy mà các nhà biên soạn
sách giáo khoa hiện hành đã tập trung vào những chủ đề gần gũi với học sinh, phù hợp
với trình độ và tâm lý của các em, phù hợp với nhu cầu sở thích của các em.
*Ví dụ: Trong bài15 tiếng Anh 6 (Unit 15 phần B3). Để khiêu gợi trí tò mò của các
em giáo viên có thể: Đố các em biết toà nhà nào cao nhất thế giới? Hôm nay thầy trò
chúng ta sẽ biết sau tiết học này.
Giáo viên có thể cho các em xem tranh và đặt các câu hỏi:
What is it’s name? (Tên của nó là gì?)Where is it? ( Nó nằm ở đâu?)
How high is it?
(Nó cao bao nhiêu?)
Is it the tallest building in the world? (Nó có phải là tòa nhà cao nhất thế
giới không?)
Với bản tính tò mò chắc chắn học sinh sẽ tập chung vào bài để đọc và tìm hiểu xem
những câu hỏi mà giáo viên đặt ra trả lời như thế nào.
A. 5. Khích lệ học sinh trong thực hành và luyện tập ngoại ngữ.
Để có được hứng thú với môn học này thì học sinh cần phải cảm thấy được sự
tiến bộ của chính mình. Do vậy giáo viên ngoài việc sử dụng các tình huống lôi cuốn
học sinh vào các hoạt động trên lớp, giáo viên cần phải kích lệ học sinh học tập.
Để giúp các em cảm nhận được sự tiến bộ của mình trong học tập, giáo viên cần
đề ra những mục tiêu học tập vừa sức với các em, không quá cao. Ngoài ra cần
khuyến khích học sinh học theo phương châm thử nghiệm và chấp nhận mắc lỗi trong
quá trình thực hành tiếng. Không nên tạo cho các em tâm lý sợ mắc lỗi trong thực
hành.Trên thực tế, có một số em biết nhưng không dám phát biểu vì sợ mắc lỗi. vậy
chúng ta không nên quá khắt khe với những lỗi nhỏ, ví dụ: Lỗi phát âm hay lỗi chính
tả, thậm chí với những lỗi lớn như lỗi ngữ pháp trong thực hành tiếng.
Ví dụ: các em nói: He go to school every day.
Hay: She have a cold.
Chúng ta cũng nên khích lệ nhằm gây hứng thú hoặc không làm cho các em chắn nản
bằng cách cổ vũ hay khuyến khích bằng những câu hỏi động viên như: “ very good,
thank you, not bad”. Hoặc khi một học sinh nào đó thực hành rất tốt ví dụ như viết tốt
một bài viết và đọc trước lớp chúng ta có thể cho học sinh vỗ tay khích lệ các em.
Hoặc có những câu nhận xét nhằm khích lệ các em như bài làm của các em rất tốt.
Chữ viết cũng rất rõ ràng tuy nhiên chữ viết chưa được đẹp lắm em cần cố gắng hơn
nữa.
Giáo viên không nên sửa lỗi một cách thô bạo ví dụ: Ngắt lời khi các em đang nói.
Điều này làm cho các em nhụt chí và mất hứng thú. Chúng ta có thể sửa lỗi sau khi
các em phát biểu xong hoặc cho 1 em sửa lỗi cho bạn.
A. 6. Sử dụng trò chơi và bài hát Tiếng Anh:
a. Trò chơi:
Trò chơi là một phần không thể thiếu trong quá trình dạy và học môn Tiếng
Anh, nó giúp cho việc tiếp thu kiến thức trở nên vui vẻ, hứng thú và sáng tạo. Khi
tham gia vào trò chơi, học sinh không cảm thấy việc học khó khăn hay cứng nhắc bởi
hầu hết các trò chơi đều mang tính tập thể cao, qua đó đòi hỏi các em phải tích cực,
nhanh nhẹn, chủ động và phối hợp tốt với các bạn khác trong nhóm của mình để có
thể giành phần thắng.
Các trò chơi thường được sử dụng nhiều trong các phần warm up, Pre-teaching
hay Post – teaching nhằm lôi cuốn học sinh vào bài mới hoặc kiểm tra mức độ hiểu bàicũ một cách tự nhiên khiến cho các em tự tin tham gia bài học mà không có cảm giác
sợ mắc lỗi. Trong các phần trò chơi, giáo viên cần đưa ra luật chơi thật rõ ràng để học
sinh có thể phát huy cao nhất tính tích cực chủ động của mình.Mỗi trò chơi có thể được áp dụng cho một hoặc nhiều kĩ năng khác nhau. Giáo
viên cần chú ý đến những trò chơi “đa năng” để hướng dẫn và cho học sinh nắm thật
vững luật chơi để khi thay đổi nội dung của trò chơi giáo viên không phải mất thời
gian giới thiệu lại luật chơi nữa, việc này giúp giáo viên tiết kiệm rất nhiều thời gian
trong giờ dạy của mình.
Bản thân tôi khi sử dụng trò chơi trong bài giảng cũng luôn phải cân nhắc đến
thời gian tối đa cho mỗi hoạt động để mà lựa chọn trò chơi phù hợp. Thời gian
của một trò chơi có cân đối với độ dài của nội dung kiến thức cần truyền đạt trong giờ
học đó hay không chính là yếu tố quyết định việc sử dụng trò chơi có thành công hay
không.
Một số trò chơi thường sử dụng :
1. Brainstorm: Brainstorm thường được sử dụng để huy động kiến thức trước
khi vào các bài dạy kĩ năng như Writing, Reading, Listening và Speaking. Ngoài gia,
ở các lớp trên (lớp 8, 9) Brainstorm còn được dùng để kiểm tra vốn từ của học sinh
trước giờ giới thiệu ngữ liệu.
*Ví dụ để kiểm tra từ vựng trong phần A1 tiếng Anh 6 bài 3Clothes
– Học sinh làm việc cá nhân, tìm các từ liên quan đến chủ đề trên và viết vào
Brainstorm của mình.
– Giáo viên kiểm tra kết quả bằng cách đặt câu hỏi và đưa nhận xét khuyến
khích học sinh, ví dụ:
1. Who has 5 words? It’s good to have 5 words.
2. Who have more than 10 words? You are the most intelligent person today.
Congratulations!
– Giáo viên tổng hợp các từ học sinh vừa tìm được lên bảng để sử dụng trong
phần tiếp theo của bài giảng, có thể bổ sung những từ mà học sinh muốn biết
hoặc muốn sử dụng.
2. Hangman:– Hangman là trò chơi thường được sử dụng trong phần kiểm tra mức độ hiểu bài của
học sinh(Checking comprehension). Trò chơi này cũng được dùng cho phần Warm up
hay để lôi cuốn sự chú ý của học sinh vào bài đồng thời huy động kiến thức có liên
quan đến bài mới.
3. Trò chơi: “Slap the board”
Đây là một trong những trò chơi mà giáo viên hay sử dụng để kiểm tra từ vựng
sau khi thực hành.
Ví dụ trong English 6: (Unit 5: C-Classes) Giáo viên viết từ hoặc dán tranh lên bảng:
Hotel
Lake
River
ParkYard
Rice paddy
Gọi từng cặp học sinh lên bảng.
Giáo viên đọc to những từ đó, học sinh vỗ vào từ đã học. Em nào vỗ nhanh và đúng
nhiều hơn thì thắng cuộc.
4. Trò chơi “Simon says”
Trong English 6 (Unit2). Để củng cố lại những từ mới đã học
Come in. Sit down. Open your book. Close your book.
Giáo viên cho các em chơi trò trơi “Simon says” giáo viên đọc to
những từ này lên nhưng lại ra hiệu khác đi (ví dụ: sit down nhưng lại ra hiệu cho các
em đứng lên). Học sinh nghe và làm theo những hành động đó. Ai sai thì bị phạt. Hình
thức phạt có do giáo viên qui định.
2. Hiệu quả: Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do ápdụng sáng kiến theo ý kiến của tổ chức, cá nhân đã áp dụng sáng kiến và theo ý
kiến của tác giả sáng kiến;
Qua quá trình trực tiếp thực hiện biện pháp trên cùng với sự cố gắng không
ngừng của thầy và trò chúng tôi trong năm học qua
Cụ thể như sau:
* Chất lượng khảo sát đầu năm
Khảo sát đầu năm
LớpTS
HSGiỏi
SLKhá
%SL
TB
%SL
Yếu/Kém
%SL
%
6A
34
1
3%
5
15%
20
58,5%
8
23,5%
6B
35
1
3%
5
14%
22
62%
7
21%
6C
33
0
0%
6
18%
20
61%
7
21%
* Cuối học kì I
Cuối học kỳ I
LớpTS
HSGiỏi
Khá
TB
Yếu/Kém
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
6A
34
6
17,6%
10
29,4%
16
47%
2
6%
6B
35
5
14%
8
23%
20
57%
2
6%
6C
33
3
9%
7
21%
20
61%
3
9%
3. Khả năng và điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến;
Với sáng kiến này tôi mong muốn góp một phần nhỏ công sức của mình vào
việc áp dụng phương pháp mới vào giảng dạy ngoại ngữ nói chung và hiệu quả của
việc dạy ngoại ngữ ở trường PTCS Thạch Lâm nói riêng. Tôi không ham vọng rằng
đề tài của tôi sẽ được áp dụng rộng rãi ở các trường trung học cơ sở. Xong tôi hy vọngrằng với phương pháp này một phần nào có thể giúp học sinh ở trường PTCS Thạch
Lâm có thể tiếp thu bài một cách hứng thú hơn. Dễ tiếp thu bài hơn, tiết học ngoại ngữ
trở nên nhẹ nhàng hơn. Làm cho chất lượng đại trà của học sinh được nâng lên.
Tìm ra cách để gây hứng thú cho học sinh học tiếng Anh 6, 7, 8,9
Nghiên cứu việc dạy và học tiếng Anh nói chung và thực tế Học sinh tự học và
hứng thú của các em đối với môn tiếng Anh ở trường PTCS Thạch Lâm năm học
2016- 2017 nói riêng. Từ kết quả nghiên cứu đó để chỉ ra phương pháp phù hợp
4. Thời gian và những người tham gia tổ chức áp dụng sáng kiến lần đầu .
Trong khôn khổ của một sáng kiến nhỏ, bản thân tôi chỉ có thể nghiên cứu xem
xét được một vấn đề về đó là “Tạo hứng thú cho học sinh và hướng dẫn phương pháp
tự học Tiếng Anh” ở trường PTCS Thạch Lâm .
Đề tài nghiên cứu được tôi thực hiện tại các lớp 6A, 6B, 6C trường PTCS
Thạch Lâm
Thời gian thực hiện từ tháng 9 – 2015 đến tháng 3-2016
V. Kết luận
Như vậy, tạo hứng thú và rèn phương pháp tự học cho học sinh THCS là việc làm
cần thiết, nó có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình dạy và học môn Tiếng Anh. Đểlàm tốt được việc này cần phải kiên trì, sáng tạo và phải có tính hệ thống cao (follow
up).
Cũng rất cần một sự quan tâm đúng mức của xã hội, của ngành giáo dục, của nhà
trường và của gia đình học sinh đối với việc học và dạy Tiếng Anh ở bậc học THCS
cũng như việc đầu tư trang thiết bị vật chất cho quá trình dạy và học bộ môn này.
Rất mong được sự giúp đỡ và chia sẻ quan điểm của các đồng chí đồng nghiệp và
các đồng chí cán bộ phụ trách chuyên môn về vấn đề này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA TỔ TRƯỞNG
CHUYÊN MÔN
Thạch Lâm, ngày 23 tháng 09 năm 2016
NGƯỜI BÁO CÁO
Thạch Lâm là 1 xã thuần nông. Các em lại không được học ngoại ngữ ở tiểu họcnên lên những em rất kinh ngạc trong việc học ngoại ngữ, Chính vì thế hứng thú học tậpcủa những em chỉ được thời hạn ngắn trong vài tháng đầu năm học lớp 6. Sau đó những emthấy môn học khó dần dẫn đến chán học. Và nhiều em không biết tự học thế nào chocó hiệu suất cao. 2. Giải pháp đã sử dụng : Hướng dẫn giải pháp tự học cho học viên : a. Hướng dẫn học viên chuẩn bị sẵn sàng bài ở nhà : Việc sẵn sàng chuẩn bị bài của học viên đóng một vai trò quan trọng trong quy trình dạyvà học bộ môn Tiếng Anh nói riêng và quy trình học tập nói chung. Tuy nhiên để họcsinh sẵn sàng chuẩn bị bài thật sự hiệu suất cao thì trách nhiệm của người giáo viên là phải hướng dẫncho những em một phương pháp học khoa học. Để những em sẵn sàng chuẩn bị bài tốt, tôi thườngthực hiện những giải pháp sau : – Thông báo nội dung của bài học kinh nghiệm sau vào cuối mỗi giờ học. – Thông báo nội dung kiến thức và kỹ năng học viên cần chuẩn bị-Hướng dẫn học viên cách chuẩn bị sẵn sàng nội dung kỹ năng và kiến thức đóNhưng hướng dẫn học viên phải phối hợp với việc kiểm tra sự sẵn sàng chuẩn bị của những emvào đầu giờ học sau thì việc tự học của những em mới hoàn toàn có thể trở thành nề nếp được. Đểlàm được điều đó, yên cầu giáo viên phải kiên trì và liên tục nhắc nhở học viên, kiểm tra đôn đốc đồng thời động viên, khuyến khích khi những em có sự chuẩn bị sẵn sàng tốt. b. Hướng dẫn học viên tự học từ vựng : Đặt câu với từ mới : – Đặt câu với mỗi từ mới là cách rất hay để học viên hoàn toàn có thể nhớ từ mới một cáchkhông máy móc mà có trường hợp đơn cử, hơn thế nữa lại ghi nhớ được cả cấu trúc dùngđể đặt câu .. Dùng sticker : Viết từ 3 – 5 từ mới cùng với công dụng và nghĩa của từ lên một mảnh giấy nhỏ vàdán lên nơi đễ nhìn thấy, khi nào thuộc thì thay bằng sticker có viết những từ khác. Cat – [ n ] – con mèoteacher – [ n ] – giáo viênmouse – [ n ] – conchuộtcountryteach – – [ n ] [ v ] – – nôngdạythônhọccatch [ v ] bắtChơi game show với từ mới : Học sinh hoàn toàn có thể dùng những game show giáo viên đã hướng dẫn để chơi với bạn mình trongcity – [ v ] – thànhstudent – [ v ] – phốcác giờ chơi hoặc giờ học nhóm. Phân loại từ để học thuộc : họcsinh [ v ] – toàbuilding – nhàHọc sinh hoàn toàn có thể chọn những từ quan trọng để học thuộc chứ không nhất thiết phải họctoàn bộ từ mới của một bài, ví dụ bài đọc ( Reading ) thường có rất nhiều từ mới, cácem không hề nhớ hết được. Học với từ điển : Đây là cách tự học phổ cập, học viên hoàn toàn có thể học những từ mà những em chăm sóc thayvì học những từ những em buộc phải học, như thế những em sẽ nhớ lâu và bền vững và kiên cố hơn. Sử dụng những phương tiện đi lại công nghệ tiên tiến văn minh : Ngày nay, khi công nghệ tiên tiến ngày càng tăng trưởng nhanh hơn, đời sống của những gia đìnhđã được cải tổ đáng kể thì việc giáo viên khuyến khích những em sử dụng công nghệhiện đại vào học tập môn Tiếng Anh cũng rất quan trọng. Các em hoàn toàn có thể học TiếngAnh trên máy tính với những ứng dụng Học Tiếng Anh rất hiệu suất cao như : GuguEnglish, Giúp bạn học Tiếng Anh, đặc biệt quan trọng là bộ ứng dụng Tiếng Anh 6, 7, 8, 9 vớigiao diện rất thân thiện và có nhiều tiện ích trong tra cứu từ vựng, ngữ pháp và hệthống bài tập rất đa dạng và phong phú. Tuy hiện tại chưa phải mái ấm gia đình nào cũng có máy tính tuy nhiên tôi tin trong tươnglai không xa, học viên của tất cả chúng ta sẽ được tiếp cận với cách học mới rất mê hoặc vàhiệu quả này, vì thế bản thân tôi luôn chăm sóc đến việc học hỏi, tìm hiểu và khám phá và sử dụngcác thành quả của công nghệ thông tin nhằm mục đích tương hỗ cho quy trình giảng dạy của mình. c. Hướng dẫn học viên tự học nghe : – Có thể tự học nghe bằng cách : Sử dụng băng cát sét, nghe những chương trình dạyTiếng Anh trên radio, trên truyền hình, xem những chương trình dành cho mần nin thiếu nhi ở cáckênh truyền hình quốc tế lúc bấy giờ đang rất thông dụng như Cartoon Network, Animals, Disney … nếu có sử dụng truyền hình thẻ. d. Khuyến khích học viên thực hành thực tế nói : – Khuyến khích học viên thực hành thực tế nói ở trên lớp không riêng gì trong giờ Tiếng Anhmà trong cả giờ chơi hoặc khi những em học nhóm. Ban đầu là những câu tiếp xúc thôngthường rồi từ từ sử dụng những cấu trúc mới học để trao đổi với nhau, việc này trênthực tế rất khó triển khai vì tâm ý ngại nói của học viên còn rất cao, tuy nhiên tôi đãvà đang nỗ lực tạo cho những em tâm ý tự do để hình thành thói quen giao tiếpbằng Tiếng Anh đơn thuần trong thiên nhiên và môi trường lớp học. Giúp học viên nắm được giải pháp tự học yên cầu người giáo viên phải có sựkiên trì, tính mạng lưới hệ thống và lòng yêu nghề. Ngoài việc hướng dẫn, quan sát chữa lỗi chohọc sinh, giáo viên cần đưa ra nhu yếu từ thấp đến cao, từ đơn thuần đến phức tạp đểcác em từ từ hình thành thói quen tự học của mình. Làm được điều này, hoạt độngdạy và học đã được nâng cao lên một bước. Học sinh có điều kiện kèm theo để phát huy tínhsáng tạo và dữ thế chủ động trong học tập, còn giáo viên sẽ có thêm thời hạn rèn luyện trênlớp cho học viên. IV. Mô tả thực chất của sáng kiến, trong đó chỉ rõ những thông tin cầnđược bảo mật thông tin : 1. Tính mới : Dựa trên quan điểm kiến thiết xây dựng chương trình Sách giáo khoa Tiếng Anh trung học cơ sở từlớp 6 đến lớp 9, đó là quan điểm chủ điểm ( Thematic approach ) và tôn vinh phươngpháp học tập tích cực, dữ thế chủ động của học viên để góp thêm phần thực thi tiềm năng của giáodục văn minh nhằm mục đích “ Đào tạo học viên thành những con người năng động, phát minh sáng tạo vàđộc lập, tiếp thu được tri thức khoa học kỹ thuật văn minh, biết vận dụng tìm ra những giảipháp hài hòa và hợp lý cho những yếu tố trong đời sống của bản thân và xã hội ”. 2. Tính phát minh sáng tạo : Mọi quan điểm giải pháp đã được đưa ra trao đổi và thử nghiệm đều có chungmột mục tiêu ở đầu cuối, đó là tích cực hóa hoạt động giải trí học tập của học viên, đưa kiếnthức vào thực tiễn đời sống xã hội, phát huy tối đa tính dữ thế chủ động của người học. Làmthế nào để hoạt động giải trí dạy và học đạt được hiệu suất cao cao, học viên hoàn toàn có thể vận dụng ngữliệu đang học với những kiến thức và kỹ năng có sẵn để diễn đạt những nội dung khác nhau trong chínhthực tế đời sống của những em, đó chính là yếu tố đặt ra cho những nhà biên soạn, chonhững giáo viên trực tiếp giảng dạy và cũng là yếu tố đặt ra cho bản thân người học những học viên bậc học THCS.Mặt khác, học viên trung học cơ sở đang ở lứa tuổi có nhiều thuận tiện trong quá trìnhnhận thức khi bộ não và năng lực tư duy đã tăng trưởng tương đối không thay đổi. Theo tâm lýhọc thì đây chính là lứa tuổi thích hợp nhất cho việc tiếp đón những kiến thức và kỹ năng mới songđể đạt được hiệu suất cao không thay đổi và vững chắc thì cần phải duy trì một giải pháp thíchhợp nhằm mục đích tạo ra hứng thú đồng thời với việc thiết kế xây dựng ý thức tự tò mò học hỏicủa bản thân những em. 3. Tính khoa học : A. Tạo hứng thú cho học viên trong học tập môn Tiếng Anh : A. 1 Sử dụng hiệu suất cao kênh hình SGK Tiếng Anh 6, 7, 8, 9 : Kênh hình của bộ sách giáo khoa Tiếng Anh mới cũng là một lợi thế mà giáoviên hoàn toàn có thể tận dụng nhằm mục đích tạo ra hứng thú cho học viên. Hình ảnh được đưa ra sinhđộng, mê hoặc, đa dạng chủng loại, có bám sát nội dung nhu yếu của từng hoạt động giải trí là yếu tốthuận lợi trong quy trình giảng dạy, giáo viên hoàn toàn có thể sử dụng hình ảnh trực tiếp trongsách giáo khoa hoặc hoàn toàn có thể phóng to hay vẽ lại những hình ảnh đó để tương hỗ việc dạytừ mới hay làm trường hợp cho bài thực hành thực tế. Nếu phát minh sáng tạo, giáo viên hoàn toàn có thể sử dụng những hình vẽ này không chỉ cho một nộidung giảng dạy nhất định mà còn dùng được cho nhiều nội dung giảng dạy khác nữa, thế cho nên, từ những hình vẽ trong sách giáo khoa, giáo viên hoàn toàn có thể tạo ra những bộ tranhdùng lâu bền hơn cho từng chủ đề chủ điểm nhất định. Lứa tuổi học viên trung học cơ sở tuy năng lực nhận thức đã có sự không thay đổi tương đối cao, tuy nhiên những em vẫn hay quên và thường mất tập trung chuyên sâu khi gặp phải những nội dung kiếnthức dài và khó, thế cho nên, hình ảnh được sử dụng trong những bài giảng có tính năng thuhút sự chú ý quan tâm của những em, tạo ra sự thú vị và thuận tiện cho những em trong quá trìnhghi nhớ bắt đầu. Sử dụng hài hòa và hợp lý kênh hình trong SGK là một việc làm thiết yếu và yên cầu giáoviên phải điều tra và nghiên cứu, phát minh sáng tạo mới hoàn toàn có thể làm tốt được. Như vậy, đây cũng chính làmột trong những bước khởi đầu của việc tạo hứng thú và hướng dẫn học viên tự họcmôn Tiếng Anh ở bậc học THCS.A. 2 Sử dụng vật dụng trực quan : Như tôi đã trình diễn ở trên, kênh hình trong sách giáo khoa rất đa dạng chủng loại và đadạng, nhưng vẫn chưa đủ cho toàn bộ những hoạt động giải trí trong toàn bộ những nội dung hoạt độngcủa quy trình lên lớp, thế cho nên, giáo viên phải dữ thế chủ động, phát minh sáng tạo trong việc làm và sửdụng vật dụng trực quan. Đồ dùng trực quan là một trong những yếu tố góp thêm phần tạo nên thành công xuất sắc củamột bài giảng. Trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng chính là con đường ngắnnhất của quy trình nhận thức, vậy để tạo hứng thú cho học viên, vật dụng trực quanphải được làm đa dạng và phong phú về sắc tố, hình dáng và mê hoặc về nội dung để cuốn húthọc sinh. Dùng tranh vẽ, vật phẩm thật, hình que … để dạy từ mới sẽ đem lại hiệu suất cao cao, học viên cùng lúc được nghe, được quan sát và được nói tên của những sự vật, vật phẩm sẽnhớ nhanh và nhớ bền vững và kiên cố. Đồ dùng trực quan cũng được sử dụng rất hiệu suất cao trongviệc kiểm tra mức độ hiểu ngữ liệu mới ( checking comprehension ). Học sinh sẽ khôngcòn tâm ý sợ mắc lỗi mà tập trung chuyên sâu vào việc ghi nhớ và sử dụng ngữ liệu vừa học vàocác trường hợp tiếp xúc đơn cử. Bên cạnh đó, vật dụng trực quan còn giúp giáo viên hấp dẫn cả những học sinhvốn nhút nhát và ngại hoạt động giải trí vào bài học kinh nghiệm một cách rất tự nhiên khi những em bị cuốntheo không khí sôi sục của lớp học. Đối với những lớp lớn hơn, đơn cử là học viên lớp 8, lớp 9, vật dụng trực quan khôngchỉ là những tranh vẽ, vật phẩm thuần túy, giáo viên cần phát minh sáng tạo thêm những vật dụng cótính chất linh động hoàn toàn có thể sử dụng lâu bền hơn cho nhiều mục tiêu giảng dạy khác nhau, + Sử dụng Listening table : Là một bảng phụ trong đó có pháp luật rõ số lần nghe, yêucầu đạt được sau mỗi lần nghe, phần kiểm tra tác dụng và chữa bài của giáo viên vàmột phần rất quan trọng là phần Prediction ( Dự đoán trước ) của học viên. Bảng nàyvừa ngăn nắp lại vừa biểu lộ rất rõ quy trình tiến độ của một bài nghe, giúp học viên nắmđược nội dung của hoạt động giải trí qua từng bước thực thi hoạt động giải trí. + Sử dụng những hình vẽ đơn thuần ( hình que ) ở trên bảng nhằm mục đích tạo ra sự giật mình vàthích thú cho học viên, hình que hoàn toàn có thể tạo ra những hiệu suất cao tốt trong quy trình giảngdạy từ mới, đặc biệt quan trọng tương thích với đối tượng người tiêu dùng học viên trung học cơ sở vì đặc thù mới lạ và ngộnghĩnh của hình ảnh, Ví dụ để dạy tính từ sad và happy, giáo viên hoàn toàn có thể vẽ hình đơn thuần như sau lên bảngvà nhu yếu học viên tự đoán nghĩa của từ : ? How does he feel ? He feels … .. sad > < happy * Để dạy tính từ tall và short, giáo viên cũng hoàn toàn có thể vẽ hình và làm tựa như nhưtrên : tall < > short * Dạy những giới từ chỉ vị trí : on, in, beside, between, etc. onbetweenbesideinSử dụng người và hình vẽ đơn thuần cũng hoàn toàn có thể vận dụng trong dạy Ngữ pháp, hoặc trong dạy kỹ năng và kiến thức viết cho học viên, nếu có điều kiện kèm theo, giáo viên nên tham khảothêm những tài liệu nâng cao về nghành nghề dịch vụ này nhằm mục đích làm đa dạng và phong phú cho kỹ nănggiảng dạy của mình giúp cho giờ dạy trở nên linh động, phát minh sáng tạo và nhẹ nhàng hơn. + Ngoài ra, việc sử dụng những phiếu học tập ( study form ), phiếu tìm hiểu ( survey form ) hay là những miếng ghép có nghĩa cũng có hiệu suất cao tốt trong quy trình giảng dạy. Thêm vào đó, giáo viên cũng cần tích cực học tập tìm hiểu thêm cách làm vật dụng mới cóáp dụng tân tiến của công nghệ thông tin nhằm mục đích phát huy hơn nữa hiệu suất cao của đồ dùngtrực quan. Không phải ngẫu nhiên mà khâu chuẩn bị sẵn sàng vật dụng dạy học được coi là “ một trongnhững tiêu chuẩn để đáng giá chất lượng và hiệu suất cao giờ dạy của giáo viên ”. Vì vậy, sửdụng linh động vật dụng dạy học là yếu tố khởi đầu để thiết kế xây dựng và tạo hứng thú chohọc sinh tham gia bài học kinh nghiệm một cách tự giác, phát minh sáng tạo và hiệu quảA. 3. Gây hứng thú cho học viên bằng những cử chỉ và lời nói của giáo viên tronglớp học. Người ta nói rằng giáo viên như thể một người diễn viên đứng trên sân khấu. Người diễn viên đó có được mọi người yêu quí và vở kịch có thành công xuất sắc hay không ? họ có tập chung vào vở diễn hay không ? là do tài diễn xuất của mỗi người. Giáo viênchúng ta cũng vây. Chắc rằng mỗi tất cả chúng ta đều biết chẳng có học viên nào vui tươi và hào hứng vớitiết học khi giáo viên khi nào cũng quát nạt học học viên. Hoặc khuôn mặt lúc nàocũng rầu rỉ. thế cho nên giáo viên khi nào cũng tạo cho lớp một không khí vui tươi bằng nétmặt vui tươi. Cử chỉ nhẹ nhàng. Đôi khi cũng phải pha trò một chút ít ( Nhưng không đượcquá lạm dụng ). VD ; Khi ra mắt từ mới trong bài 2 SGK lớp 6C ome in Sit downStand upClose your bookGiáo viên vừa trình làng vừa vẩy tay ra hiệu những cử chỉ đó làm cho học viên thu hútvào giáo viên làm cho những em dễ hiểu bài hơn là giáo viên chỉ ngồi một chỗ đọc vàdịch đơn thuần. Hoặc ví dụ khi ra mắt từ mới trong bài 9 tiếng Anh 6 ( Unit9 : My body toàn thân ) Head, shoulder, chest, arm, hand, finger, leg, foot, toeGiáo viên hoàn toàn có thể vừa trình làng vừa chỉ vào những bộ phận đó trên khung hình mình. Chắcchắn rằng học viên sẽ rễ ràng tiếp thu bài tốt hơn. Sau đó giáo viên cho học viên chỉ vào những bộ phận trên khung hình mình và thực hành thực tế lạicác từ đó bằng tiếng Anh. This is my head. This is my shoulder. A. 4. Gây hứng thú cho học viên bằng cách khiêu gợi trí tò mò và tính ham hiểubiết của học viên. Ở lứa tuổi 12-15 những em học viên rất hiếu động và cũng ham hiểu biết. Các emrất đễ bị hấp dẫn vào những yếu tố mà chúng chăm sóc. Vì vậy mà những nhà biên soạnsách giáo khoa hiện hành đã tập trung chuyên sâu vào những chủ đề thân thiện với học viên, phù hợpvới trình độ và tâm ý của những em, tương thích với nhu yếu sở trường thích nghi của những em. * Ví dụ : Trong bài15 tiếng Anh 6 ( Unit 15 phần B3 ). Để khiêu gợi trí tò mò của cácem giáo viên hoàn toàn có thể : Đố những em biết tòa nhà nào cao nhất quốc tế ? Hôm nay thầy tròchúng ta sẽ biết sau tiết học này. Giáo viên hoàn toàn có thể cho những em xem tranh và đặt những câu hỏi : What is it’s name ? ( Tên của nó là gì ? ) Where is it ? ( Nó nằm ở đâu ? ) How high is it ? ( Nó cao bao nhiêu ? ) Is it the tallest building in the world ? ( Nó có phải là tòa nhà cao nhất thếgiới không ? ) Với bản tính tò mò chắc như đinh học viên sẽ tập chung vào bài để đọc và khám phá xemnhững câu hỏi mà giáo viên đặt ra vấn đáp như thế nào. A. 5. Khích lệ học viên trong thực hành thực tế và rèn luyện ngoại ngữ. Để có được hứng thú với môn học này thì học viên cần phải cảm thấy được sựtiến bộ của chính mình. Do vậy giáo viên ngoài việc sử dụng những trường hợp lôi cuốnhọc sinh vào những hoạt động giải trí trên lớp, giáo viên cần phải kích lệ học viên học tập. Để giúp những em cảm nhận được sự tân tiến của mình trong học tập, giáo viên cầnđề ra những tiềm năng học tập vừa sức với những em, không quá cao. Ngoài ra cầnkhuyến khích học viên học theo mục tiêu thử nghiệm và đồng ý mắc lỗi trongquá trình thực hành thực tế tiếng. Không nên tạo cho những em tâm ý sợ mắc lỗi trong thựchành. Trên trong thực tiễn, có 1 số ít em biết nhưng không dám phát biểu vì sợ mắc lỗi. vậychúng ta không nên quá khắc nghiệt với những lỗi nhỏ, ví dụ : Lỗi phát âm hay lỗi chínhtả, thậm chí còn với những lỗi lớn như lỗi ngữ pháp trong thực hành thực tế tiếng. Ví dụ : những em nói : He go to school every day. Hay : She have a cold. Chúng ta cũng nên khuyến khích nhằm mục đích gây hứng thú hoặc không làm cho những em chắn nảnbằng cách cổ vũ hay khuyến khích bằng những câu hỏi động viên như : “ very good, thank you, not bad ”. Hoặc khi một học viên nào đó thực hành thực tế rất tốt ví dụ như viết tốtmột bài viết và đọc trước lớp tất cả chúng ta hoàn toàn có thể cho học viên vỗ tay khuyến khích những em. Hoặc có những câu nhận xét nhằm mục đích khuyến khích những em như bài làm của những em rất tốt. Chữ viết cũng rất rõ ràng tuy nhiên chữ viết chưa được đẹp lắm em cần cố gắng nỗ lực hơnnữa. Giáo viên không nên sửa lỗi một cách thô bạo ví dụ : Ngắt lời khi những em đang nói. Điều này làm cho những em nhụt chí và mất hứng thú. Chúng ta hoàn toàn có thể sửa lỗi sau khicác em phát biểu xong hoặc cho 1 em sửa lỗi cho bạn. A. 6. Sử dụng game show và bài hát Tiếng Anh : a. Trò chơi : Trò chơi là một phần không hề thiếu trong quy trình dạy và học môn TiếngAnh, nó giúp cho việc tiếp thu kiến thức và kỹ năng trở nên vui tươi, hứng thú và phát minh sáng tạo. Khitham gia vào game show, học viên không cảm thấy việc học khó khăn vất vả hay cứng ngắc bởihầu hết những game show đều mang tính tập thể cao, qua đó yên cầu những em phải tích cực, nhanh gọn, dữ thế chủ động và phối hợp tốt với những bạn khác trong nhóm của mình để cóthể giành phần thắng. Các game show thường được sử dụng nhiều trong những phần warm up, Pre-teachinghay Post – teaching nhằm mục đích hấp dẫn học viên vào bài mới hoặc kiểm tra mức độ hiểu bàicũ một cách tự nhiên khiến cho những em tự tin tham gia bài học kinh nghiệm mà không có cảm giácsợ mắc lỗi. Trong những phần game show, giáo viên cần đưa ra luật chơi thật rõ ràng để họcsinh hoàn toàn có thể phát huy cao nhất tính tích cực dữ thế chủ động của mình. Mỗi game show hoàn toàn có thể được vận dụng cho một hoặc nhiều kĩ năng khác nhau. Giáoviên cần quan tâm đến những game show “ đa năng ” để hướng dẫn và cho học viên nắm thậtvững luật chơi để khi đổi khác nội dung của game show giáo viên không phải mất thờigian ra mắt lại luật chơi nữa, việc này giúp giáo viên tiết kiệm chi phí rất nhiều thời giantrong giờ dạy của mình. Bản thân tôi khi sử dụng game show trong bài giảng cũng luôn phải xem xét đếnthời gian tối đa cho mỗi hoạt động giải trí để mà lựa chọn game show tương thích. Thời giancủa một game show có cân đối với độ dài của nội dung kiến thức và kỹ năng cần truyền đạt trong giờhọc đó hay không chính là yếu tố quyết định hành động việc sử dụng game show có thành công xuất sắc haykhông. Một số game show thường sử dụng : 1. Brainstorm : Brainstorm thường được sử dụng để kêu gọi kiến thức và kỹ năng trướckhi vào những bài dạy kĩ năng như Writing, Reading, Listening và Speaking. Ngoài gia, ở những lớp trên ( lớp 8, 9 ) Brainstorm còn được dùng để kiểm tra vốn từ của học sinhtrước giờ trình làng ngữ liệu. * Ví dụ để kiểm tra từ vựng trong phần A1 tiếng Anh 6 bài 3C lothes – Học sinh thao tác cá thể, tìm những từ tương quan đến chủ đề trên và viết vàoBrainstorm của mình. – Giáo viên kiểm tra tác dụng bằng cách đặt câu hỏi và đưa nhận xét khuyếnkhích học viên, ví dụ : 1. Who has 5 words ? It’s good to have 5 words. 2. Who have more than 10 words ? You are the most intelligent person today. Congratulations ! – Giáo viên tổng hợp những từ học viên vừa tìm được lên bảng để sử dụng trongphần tiếp theo của bài giảng, hoàn toàn có thể bổ trợ những từ mà học viên muốn biếthoặc muốn sử dụng. 2. Hangman : – Hangman là game show thường được sử dụng trong phần kiểm tra mức độ hiểu bài củahọc sinh ( Checking comprehension ). Trò chơi này cũng được dùng cho phần Warm uphay để hấp dẫn sự quan tâm của học viên vào bài đồng thời kêu gọi kiến thức và kỹ năng có liênquan đến bài mới. 3. Trò chơi : ” Slap the board ” Đây là một trong những game show mà giáo viên hay sử dụng để kiểm tra từ vựngsau khi thực hành thực tế. Ví dụ trong English 6 : ( Unit 5 : C-Classes ) Giáo viên viết từ hoặc dán tranh lên bảng : HotelLakeRiverParkYardRice paddyGọi từng cặp học viên lên bảng. Giáo viên đọc to những từ đó, học viên vỗ vào từ đã học. Em nào vỗ nhanh và đúngnhiều hơn thì thắng cuộc. 4. Trò chơi ” Simon says ” Trong English 6 ( Unit2 ). Để củng cố lại những từ mới đã họcCome in. Sit down. Open your book. Close your book. Giáo viên cho những em chơi trò trơi ” Simon says ” giáo viên đọc tonhững từ này lên nhưng lại ra hiệu khác đi ( ví dụ : sit down nhưng lại ra hiệu cho cácem đứng lên ). Học sinh nghe và làm theo những hành vi đó. Ai sai thì bị phạt. Hìnhthức phạt có do giáo viên pháp luật. 2. Hiệu quả : Đánh giá quyền lợi thu được hoặc dự kiến hoàn toàn có thể thu được do ápdụng sáng kiến theo quan điểm của tổ chức triển khai, cá thể đã vận dụng sáng kiến và theo ýkiến của tác giả sáng kiến ; Qua quy trình trực tiếp thực thi giải pháp trên cùng với sự cố gắng khôngngừng của thầy và trò chúng tôi trong năm học quaCụ thể như sau : * Chất lượng khảo sát đầu nămKhảo sát đầu nămLớpTSHSGiỏiSLKháSLTBSLYếu / KémSL6A343 % 15 % 2058,5 % 23,5 % 6B353 % 14 % 2262 % 21 % 6C330 % 18 % 2061 % 21 % * Cuối học kì ICuối học kỳ ILớpTSHSGiỏiKháTBYếu / KémSLSLSLSL6A3417, 6 % 1029,4 % 1647 % 6 % 6B3514 % 23 % 2057 % 6 % 6C339 % 21 % 2061 % 9 % 3. Khả năng và điều kiện kèm theo thiết yếu để vận dụng sáng kiến ; Với sáng kiến này tôi mong ước góp một phần nhỏ công sức của con người của mình vàoviệc vận dụng chiêu thức mới vào giảng dạy ngoại ngữ nói chung và hiệu suất cao củaviệc dạy ngoại ngữ ở trường PTCS Thạch Lâm nói riêng. Tôi không ham vọng rằngđề tài của tôi sẽ được vận dụng thoáng đãng ở những trường trung học cơ sở. Xong tôi hy vọngrằng với giải pháp này một phần nào hoàn toàn có thể giúp học viên ở trường PTCS ThạchLâm hoàn toàn có thể tiếp thu bài một cách hứng thú hơn. Dễ tiếp thu bài hơn, tiết học ngoại ngữtrở nên nhẹ nhàng hơn. Làm cho chất lượng đại trà phổ thông của học viên được nâng lên. Tìm ra cách để gây hứng thú cho học viên học tiếng Anh 6, 7, 8,9 Nghiên cứu việc dạy và học tiếng Anh nói chung và trong thực tiễn Học sinh tự học vàhứng thú của những em so với môn tiếng Anh ở trường PTCS Thạch Lâm năm học2016 – 2017 nói riêng. Từ tác dụng điều tra và nghiên cứu đó để chỉ ra chiêu thức phù hợp4. Thời gian và những người tham gia tổ chức triển khai vận dụng sáng kiến lần đầu. Trong khôn khổ của một sáng kiến nhỏ, bản thân tôi chỉ hoàn toàn có thể điều tra và nghiên cứu xemxét được một yếu tố về đó là “ Tạo hứng thú cho học viên và hướng dẫn phương pháptự học Tiếng Anh ” ở trường PTCS Thạch Lâm. Đề tài nghiên cứu và điều tra được tôi triển khai tại những lớp 6A, 6B, 6C trường PTCSThạch LâmThời gian triển khai từ tháng 9 – năm ngoái đến tháng 3-2016 V. Kết luậnNhư vậy, tạo hứng thú và rèn chiêu thức tự học cho học viên trung học cơ sở là việc làmcần thiết, nó có ý nghĩa rất quan trọng trong quy trình dạy và học môn Tiếng Anh. Đểlàm tốt được việc này cần phải kiên trì, phát minh sáng tạo và phải có tính mạng lưới hệ thống cao ( followup ). Cũng rất cần một sự chăm sóc đúng mức của xã hội, của ngành giáo dục, của nhàtrường và của mái ấm gia đình học viên so với việc học và dạy Tiếng Anh ở bậc học THCScũng như việc góp vốn đầu tư trang thiết bị vật chất cho quy trình dạy và học bộ môn này. Rất mong được sự trợ giúp và san sẻ quan điểm của những chiến sỹ đồng nghiệp vàcác chiến sỹ cán bộ đảm nhiệm trình độ về yếu tố này. Tôi xin chân thành cảm ơn ! XÁC NHẬN CỦA TỔ TRƯỞNGCHUYÊN MÔNThạch Lâm, ngày 23 tháng 09 năm 2016NG ƯỜI BÁO CÁO
Source: https://vh2.com.vn
Category : Chế Tạo