Networks Business Online Việt Nam & International VH2

Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh PCI 2018 của Việt Nam

Đăng ngày 16 May, 2023 bởi admin

Kết quả bảng xếp hạng PCI 2018

So

với

năm 2017 ,kết quả PCI 2018không có nhiều thayđổi trong list những tỉnh, thànhphố dẫnđầu cả nước. QuảngNinh tiếptục giữvị trí dẫn đầu bảng xếp hạngPCI với 70,36 điểm ,là năm thứ 2 liên tục đạt đượcvị trí quán quân trên bảng xếp hạng .Trongnăm vừa qua ,sức nóngcải cáchmôi trườngkinh doanh tiếp tục được Quảng Ninh duy trì qua nhiều nỗ lực như thực hiện phương thức “4 tại chỗ”(tiếp nhận, thẩm định ,phê duyệt, trả kết quả ) khi giải quyết thủ tục hành chính (TTHC) tại Trung tâm Hành chính công cấp tỉnh và cấp huyện, thành phố ; đồng thờikết hợp với việc thực thi nhìn nhận nănglực cạnh tranhcủa các sở ,ngành ,huyệnthị và triển khai đối thoại doanh nghiệp thường xuyên qua mô hình Café Doanh nhân nhằm mục đích giải quyết kịp thời vướng mắc khó khăn cho doanh nghiệp. Vì vậy, có tới 80% doanh nghiệp trả lời điều tra PCI tại Quảng Ninh cho biết, thời gian thực hiện TTHC được rút ngắn hơn so với quy định và 74% doanh nghiệp đánh giá thủ tục giấy tờ đơn giản ( cao nhất cả nước ). Một lĩnh vực thường khiến nhiều doanh nghiệp, nhà đầu tư khó hài lòng như TTHC đất đai ,thì có 65% doanh nghiệpcủa QuảngNinh từng triển khaiTTHC đấtđai trong vòng2 năm qua tại đâykhông gặp khó khăn. QuảngNinh cũng đứngđầu cả nước vềchỉ tiêunày .Môi trườngkinh doanhcủa Quảng Ninh đang thay đổi theo hướng minh bạch hơn, chỉ 53% doanh nghiệp cho biết cần có “mối quan hệ” để có được các tài liệu của tỉnh, là con số thấp nhất so với các tỉnh, thành phố còn lại trên cả nước.
 
Đứng thứ hai trong bảng xếp hạng PCI 2018 là Đồng Tháp, đạt 70,19 điểm và xác lập năm thứ 11 liên tiếp nằm trong nhóm 5 tỉnh, thành phố đứng đầu PCI cả nước. Thành công này đến từ sự vận hành hiệu quả của bộ máy chính quyền địa phương vốn gặp nhiều khó khăn về vị trí địa lý và cơ sở hạ tầng. Năm 2018, có tới 92% doanh nghiệp tham gia Điều tra PCI tại Đồng Tháp đánh giá cán bộ có thái độ thân thiện trong quá trình giải quyết công việc, 90% nhận thấy cán bộ nhà nước giải quyết công việc hiệu quả. Đây là hai chỉ tiêu Đồng Tháp đạt được cao nhất cả nước. Theo chỉ số thành phần Cạnh tranh bình đẳng trong PCI 2018, các doanh nghiệp dân doanh Đồng Tháp cho biết đang được hoạt động trong môi trường kinh doanh bình đẳng nhất so với các tỉnh, thành phố khác.
 
Ở vị trí thứ 3 và thứ 4 trong bảng xếp hạng PCI 2018 là Long An ( 68,09 điểm ) và Bến Tre ( 67,67 điểm ). Hai tỉnh nàyđều tăng1 bậc so vớinăm 2017. LongAn đã có cải thiện đángkể trong việctạo môi trườngkinh doanh bình đẳngvà tạo thuậnlợi về tiếpcận đấtđai và sử dụng đấtổn địnhcho các doanh nghiệpdân doanh. BếnTre được các doanh nghiệp đánh giá tích cực về nỗ lực cải cách hành chính và tạo môi trường pháp lý thuận lợicho các doanh nghiệp hoạt động .
 
Đà Nẵng lùi xuống vị trí thứ 5 trong bảng xếp hạng PCI 2018, với 67,65 điểm từ vị trí thứ 2 của năm ngoái. Trong năm 2018, Đà Nẵng được các doanh nghiệp đánh giá có cải thiện trong việc giảm chi phí không chính thức cho doanh nghiệp. Tuynhiên, đánh giá của doanh nghiệp về chất lượng giải quyết TTHC tại thành phố này sụt giảm rõ rệt. Các doanh nghiệp cũng phản ánh về khoảng cách giữa chỉ đạo điều hành của chính quyền thành phố với các sở, ngành, huyện thị có sự gia tăng.
5 tỉnh, thành phố tiếp theo trong nhóm 10 tỉnh, thành phố đứng đầu PCI 2018 bao gồm Bình Dương (66,09 điểm), Quảng Nam (65,85 điểm), Vĩnh Long (65,53 điểm), Hà Nội (65,39 điểm) và TP. Hồ Chí Minh ( 65,34 điểm ). Trong đó, Bình Dương trở lại nhóm 10 tỉnh dẫn đầu của PCI 2018 ở vị trí thứ 6, với những kết quả đánh giátích cực của doanh nghiệp về sự linh hoạt, sáng tạo của chính quyền tỉnh và tính công khai, minh bạch của thiên nhiên và môi trườngkinh doanh. Cụ thể ,87% doanh nghiệp tham gia tìm hiểu đồngý với đánh giá và nhận định “ Ủy Ban Nhân Dân tỉnh vận dụng pháp luật linh hoạt nhằm mục đích tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho kinh tế tư nhân ”, tăng so với con số 80% năm 2017. Đồng thời, 76% doanh nghiệp cho biết “ Ủy Ban Nhân Dân tỉnh năng động, sáng tạo trong việc giải quyết vấn đề mới phátsinh ” ,tăngso với70% năm 2017 .Bên cạnhđó ,tỷ lệ doanh nghiệpcho rằngquy trìnhmua sắm đấu thầutại tỉnh minh bạch chiếm59% ( năm 2017là 47 % )và 81% doanh nghiệpcho biết nhận được thôngtin sau yêucầu các cơ quan của tỉnh cung cấp ( năm 2017 là 62 % ) .
 
Top 10 PCI cả nước lần đầu tiên có sự góp mặt của Thủ đô Hà Nội, với bước chuyển rõ rệt về chất lượng của bộ phận một cửa trong đăng ký doanh nghiệp. Có 71% doanh nghiệp tại Hà Nội đánh giá cán bộ am hiểu chuyênmôn ( năm 2017 là 57 % ) ; 86% cho biết cán bộ nhiệt tình, thân thiện ( năm 2017 là 53 % ). Tỷ lệ doanh nghiệp phảichờ trên3 thángmới hoàn thành xong tấtcả các thủ tục để chính thứcđi vào hoạt động giải tríđã giảm mạnhtừ 17%

của

năm trướcđó ,xuống còn5% trongnăm vừa qua .Năm 2018 cũnglà năm Hà Nội tăng cườngđối thoại doanh nghiệp ở các cấp huyện, thị, do vậy, những vướng mắc, bức xúc của doanh nghiệp đã có kênh giải tỏa khá hiệu suất cao .67% doanh nghiệpcho biết được tháogỡ vướngmắc kịp thời ( năm 2017là 57 % ) ;87% doanh nghiệp hài lòng với cách giải quyết, phản hồi của các cơ quan chính quyền tại Hà Nội ( tăng 22% so với năm 2017 ) .
 
Nhóm đứng cuối trong bảng xếp hạng PCI 2018 là Đắk Nông, Lai Châu, Bình Phước, Bắc Kạn và Kon Tum. Tuy nhiên, hầu hết các tỉnh này đều có sự cải thiện rất đáng kể về điểm số PCI so với năm 2017. Điểm số PCI 2018 của Đắk Nông và Bình Phước đều tăng trên 3 điểm so với kết quả năm trước, mức cải thiện cao nhất trong 63 tỉnh, thành phố. Điều này cho thấy những tỉnh này đã vượt qua chính mình một cách mạnh mẽ trong năm vừa qua và hi vọng rằng những tỉnh nhóm cuối sẽ tiếp tục duy trì được nỗ lực cải cách bền vững trong những năm tiếp theo.

Điểm sáng nổi bật của PCI 2018

Chi phí không chính thức giảm

Theo kết quả Điều tra PCI 2018, cộng đồng doanh nghiệp dân doanh đánh giá tích cực về những nỗ lực gần đâycủa chính quyền sở tại trong phòng chống tham nhũngvà cắt giảmchi phí không chính thức .Toànbộ các chỉ tiêuđo lườngchi phí không chính thức trongPCI 2018đã có sự cải thiệnso vớinăm trước .Hiện tượng “ tham nhũng vặt ”, chi phí bôi trơn nhỏ mà doanh nghiệp phải chi trả để xin cấp các loại giấy phép trong năm 2018 đã giảmso với thờikỳ trước. Cụ thể ,mức độ phổ biếncủa hiện tượng kỳ lạ nàyđã giảm với tỷ lệ 54,8% doanh nghiệp cho biết phải trả chi phí khôngchính thức, mức thấp nhất trong 5 năm trở lại đây (năm 2015 là 66,3%). Quymô chi trả chi phí khôngchính thức cũng đã nhỏ đi, chỉ có 7,1% doanh nghiệp cho biết phải chi trả trên 10% doanh thu cho các loại chi phí khôngchính thức (năm 2015 là 11,1%); 58,2% doanh nghiệp cho biết tồn tại hiện tượng nhũng nhiễu khicán bộ cơ quan nhà nước địa phương giải quyết thủ tục cho doanh nghiệp (giảm khá so với mức cao nhất ghi nhận trong năm 2014 là 65,6%).
 
Điều tra PCI 2018 cũng ghi nhận “tham nhũng lớn” có dấu hiệu giảm bớt. Chỉ 30,8% doanh nghiệp cho biết có chi trả chi phí không chính thức để đẩy nhanh thủ tục đất đai (giảm so với 32% vào năm ngoái); 39,3% doanh nghiệp cho biết có chi trả chi phí không chính thức cho cán bộ thanh, kiểm tra (năm 2017 là 51,9%); 48,4% doanh nghiệp đồng ý với nhận định “Chi trả ‘hoa hồng’ là cần thiết để có cơ hội thắng thầu” (năm 2017 là 54,9%); tỷ lệ doanh nghiệp lo ngại “tình trạng chạy án” chỉ còn 28,8% (năm 2017 là 31,6%).
 
Những chuyển biến tíchcực trongcảm nhậncủa doanh nghiệplà kết quả từ những hành động mạnh mẽ và kiên quyết của Đảng và Nhà nước trong công tác phòng chống tham nhũng kể từ năm 2016 trở lại đây. Tuynhiên, những chỉ tiêu phản ánh về hiện tượng chi phí không chính thức vẫn còn tương đối cao, cho thấy cần có thêm nhiều nỗ lực kiên trì, bền bỉ của các cơ quan nhà nước. Cộng đồng doanh nghiệp tiếp tục kỳ vọng vào những nỗ lực này ,nhất là sau khi Chính phủ đã ban hành Chương trình hành động cắt giảm chi phí cho doanh nghiệp (Nghị quyết 139/2018), trong đó nhấn mạnh tới nâng cao chất lượng quy định pháp luật, cải cách TTHC, công khai minh bạch và đặc biệt là đặt ra mục tiêu chỉ còn khoảng 30% doanh nghiệp phải chi phí không chính thức vào năm 2020.
 
Môi trường kinh doanh bình đẳng hơn
 
Các doanh nghiệp dân doanh cho biết mức độ bình đẳng so với khu vực doanh nghiệp có  vốn nhà nước hoặc doanh nghiệp FDI đã có sự cải thiện. Cụ  thể, tỷ lệ doanh nghiệp đồng ý  với nhận định “Việc tỉnh ưu ái cho các tổng công ty ,tập đoàn của Nhà nước gây khó khăn cho doanh nghiệp” đã giảmtừ consố 41,2 %năm 2017, xuống còn 32,4 %năm 2018 ;chỉ 37% doanh nghiệpcho biết “ tỉnhưu tiênthu hút đầu tư nước ngoài hơn là phát triển khu vực kinh tế tư nhân ”, giảm đáng kể so với con số 45,7 % của năm 2017 .Hầu hết những hình thứcưu ái cụ thể đối với doanh nghiệpcó phần vốnnhà nước hoặc doanh nghiệpFDI như thuận lợi hơn trong thủ tục hành chính, trong tiếp cận đất đai đều đã giảm so với năm 2017. Dù vậy ,vẫn cần có những nỗ lực nhiều hơn nữa nhằm mục đích tạo sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp dân doanh, nhất là trong tương quan so sánh với các doanh nghiệp lớn và thân quen cán bộ chính quyền. Tỷ lệ doanh nghiệp dân doanh cho biết “ ưu đãi với các công ty lớn là trở ngại cho hoạt động kinh doanh của bản thân doanh nghiệp ” là 54,8 % ,mới chỉ giảmnhẹ so vớimức 56,5 %năm năm ngoái ; 70,2 % doanh nghiệp đồngý với đánh giá và nhận định “ Hợp đồng, đất đai và các nguồn lực kinh tế khác chủ yếu rơi vào tay các doanh nghiệp có liên kết chặt chẽ với chính quyềntỉnh. ”
 
Chính quyền cấp tỉnh năng động, sáng tạo hơn
 
Theo các doanh nghiệp dân doanh cho biết, chính quyền cấp tỉnh đã linh hoạt, sáng tạo hơn trong việc đưa ra những sáng kiến riêng nhằm phát triển khu vực kinh tế tư nhân. Cụ thể, năm 2018 có 46,2% doanh nghiệp cho biết thái độ của chính quyền tỉnh đối với khu vực tư nhân là tích cực (liên tục gia tăng từ con  số 35,1% của năm 2015); 76,3% doanh nghiệp đồng ý với nhận định “UBND tỉnh/thành phố linh hoạt trong khuôn khổ pháp luật nhằm tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp tư nhân, ”mức cao nhất trong vòng 5 năm qua; 60,9% doanh nghiệp nhận thấy “UBND tỉnh/thành phố rất năng động và sáng tạo trong việc giải quyết các vấn đề mới phát sinh, ” con số cao nhất kể từ năm 2009. Bên cạnh đó, một số chỉ tiêu khác liên quan tới công tác giải quyết vướng mắc, khó khăn cho doanh nghiệp cũng phản ánh sự cải thiện trong đánh giá của doanh nghiệp đối với tính năng động của các cơ quan chính quyền địa phương. Cụ thể: 68,5% doanh nghiệp cho biết các khó khăn vất vả ,vướng mắc được tháo gỡ kịpthời qua các cuộc đốithoại, tiếp xúc doanh nghiệp tại tỉnh (năm 2017 là 67%); 77,4% doanh nghiệp hài lòng với phản hồi và cách giải quyết của cơ quan chính quyền đối với những vướng mắc, khó khăn vất vảmà họ đã phản ánh (tăng nhẹ so với mức 76,7% năm 2017 ) .
 
Cải cách hành chính tiếp tục có bước tiến
 
Nâng cao hiệu lực, hiệu quả bộ máy chính quyền các cấp là chỉ đạo xuyên suốt của Chính phủ trong năm 2018. Nghị quyết 01 / NQ-CPngày 1/1/2018 của Chính phủ đã đặt ra nhiệm vụ với các ngành, các cấpphải “thúc đẩy mạnh mẽ cải cách hành chính; siết chặt kỷluật, kỷcương hành chính ” .Song song yêu cầutrên, Chính phủ còn đặt ra một số yêu cầu cụ thể hơn với Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tại Nghị quyết 19-2018, như: “Kết hợp thực hiện Nghị quyết số 19-2018 / NQ-CPcủa Chính phủ với cảithiện chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh”; “Phối hợp hoạt động thanh tra, kiểmtra doanh nghiệp, giảm tối đa số lần thanh tra, kiểmtra doanh nghiệp, kể cả thanh tra, kiểmtra chuyên ngành”; và đặc biệt là “ thựchiện đánh giá tính sáng tạo và kết quả điều hành của các sở, ban ngành và Ủy ban nhân dân cấp huyện theo chỉ số cạnh tranh cấp sở, cấp huyện ” .15 Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp sở ngành, quận huyện (gọi tắt là Chỉ số DDCI) được xây dựng trên cơ sở mô hình của chỉ số PCI và được thực hiện tại hơn 20 tỉnh, thành phố trên cả nước, trong đó có Lào Cai, Vĩnh Phúc, Tuyên Quang, Quảng Ninh và Bắc Ninh .
 
Hầu hết các chỉ tiêuđo lườngbởi Chỉ số thành phầnChi phí thời hạn trongPCI 2018đã ghi nhận nhữngcải thiệnkể từ năm năm ngoái. Cụ thể :năm 2018 ,có 30,7 % doanh nghiệpcho biết phải dànhhơn 10% quỹ thời hạnđể tìm hiểuvà thực thicác quy định pháp lýcủa Nhà nước ( năm năm ngoáilà 35,5 % ) ; 74,7 % doanh nghiệp nhận thấy“ cánbộ nhà nước xử lý việc làm hiệuquả ”( tăngso vớimức 67,4 %năm năm ngoái ) ; 74,1 % đánhgiá“thủ tục giấytờ đơn giản ”( năm năm ngoáilà 51,2 % ) ; 68,9 % doanh nghiệpcho biết “ thời hạn thực thiTTHC đượcrút ngắnhơn so vớiquy định ”( năm 2017là 67 % ) .
 
Một số chỉ tiêu ghi nhận về hoạt động thanh, kiểm tra doanh nghiệp cũng cho thấy những dấu hiệu cải thiện tích cực. Nếu như năm 2017 có 7,2% doanh nghiệp bị thanh, kiểm tra từ 5 cuộc trở lên, thì năm 2018 chỉ còn là 6,42%. Đặc biệt, 10,8% doanh nghiệp cho biết nội dung làm việc của các đoàn thanh, kiểm tra bị trùng lặp đã giảm rất đáng kể so với con số 25,8% của năm 2015 – đây là năm mà nội dung này lần đầu tiên được hỏi trong Điều tra PCI. Số giờ thanh, kiểm tra thuế cũng có dấu hiệu giảm bớt so với năm 2017. Điều này cho thấy Chỉ thị 20 / CT-TTg ngày 17/5/2017 về việc chấn chỉnh hoạt động thanh tra, kiểm tra đối với doanh nghiệp mà Thủ tướng Chính phủ ký ngay tại Hội nghị Thủ tướng Chính phủ với doanh nghiệp năm 2017 đang phát huy tác dụng.
 
Như vậy ,kết quả tìm hiểuPCI 2018cho thấy chất lượng quản lýkinh tế của các tỉnh, thànhphố tại ViệtNam năm 2018đã duy trì đượcđà cải thiện trên nhiều nghành .Tuynhiên, trên thực tiễn ,các doanh nghiệp dân doanh vẫn đang còn gặp nhiều khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Dovậy, các cơ quan Nhà nướccần có những giải pháp chủ trương hiệuquả và kịp thờiđể tạo môi trườngkinh doanh thuậnlợi hơn nữa cho doanhnghiệp ,hướng tớimột khu vực doanh nghiệptư nhân ViệtNam hoạt động giải trí hiệu suất cao, tăng trưởng mạnhmẽ và bền vững trong thời hạn tới. / .

 

Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh PCI năm 2018

 

Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh PCI 2018 của Việt Nam

 

ThS. Đỗ Thu Hương
Khoa Giáo dục đại cương – Trường Đại học Lao động Xã hội


Source: https://vh2.com.vn
Category : Doanh Nhân